Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.26 KB, 2 trang )
Bài thơ thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ
quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang...
Huy Cận (tên là Cù Huy Cận), quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Cũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng
trong “Thơ mới” tiền chiến với tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Thơ của Huy Cận hàm súc, cổ điển
và có màu sắc suy tưởng, triết lí. Trước Cách mạng, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn mênh mông. Sau
năm 1945, cảm hứng thơ Huy Cận ấm áp, tươi vui. Tiêu biểu là các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng
(1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963)... Hạt lại gieo (1984).
Xuất xứ, chủ đề
“Tràng giang” rút trong tập thơ “Lửa tlúêng”, xuất bản năm 1940.
Bài thơ thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước
tràng giang.
Phân tích
Cảm hứng chủ đạo được thi nhân nói rõ ở câu đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Một thiên
nhiên bao la mênh mông, một dòng sông dài, không rõ đâu là nguồn. Đâu là cửa sông. Một nỗi niềm
“bâng khuâng”, một tấm lòng tha thiết “nhớ” khi đứng trước vũ trụ, nhìn “trời rộng” và ngắm “sông dài’’.
Bài thơ có 4 khổ, mỗi khổ như một bài thất ngôn tứ tuyệt hoàn chỉnh. Cảnh và tình giao hòa. Cảnh đẹp
mà buồn man mác.
Khổ một, sóng gợn buồn, từng lớp từng lớp như lan tỏa “điệp điệp”, lòng người. Con thuyền và vệt nước
song song: “thuyền về nước lại” gợi lên một nỗi buồn chia phôi “sầu trăm ngả”. Một cành củi khô trôi nổi
trên tràng giang tượng trưng cho sự chết chóc, chia lìa. vần thơ đầy ám ảnh.
Khổ hai, gợi tả một không gian mênh mông, vắng lặng, cồn nhỏ thì “lơ thơ”. Gió nhẹ và buồn đìu hiu:
“Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Khác nào câu thơ Chinh phụ ngâm: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bên
Phi gió thổi đìu hiu mấy gò?” Các từ láy: lơ thơ, đìu hiu; vần lưng: “nhỏ - gió” gợi tả cái hắt, hiu, buồn
thê thiết. Không một âm thanh một tiếng động, một tiếng vọng nào từ làng xa. Bầu trời thăm thẳm như soi
xuống đáy tràng giang, không gian hai chiều: “sâu chót vót”. Con người càng nhỏ bé, càng cô đơn trước
một không gian: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Câu thơ bảy từ với ba nét vẽ. Thật hàm súc cổ điển.
Khổ ba, lại nói về tràng giang. Không cầu, cũng không đò. Sông đã dài lại thêm mênh mông. Cảnh đôi bờ
rất đẹp nhưng vẫn thấm sâu một nỗi buồn xa váng: thêm mênh mông. Cảnh đôi bờ rất đẹp nhưng vẫn
thấm sâu một nỗi buồn xa vắng: “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Trung tâm của những bức tranh là “bèo
dạt”. Chẳng có mây trôi, chỉ có “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. Một nét vẽ tượng trưng thứ hai đem đến
liên tưởng những kiếp người lưu lạc, trên dòng đời. Đúng là sầu nhân thế, vạn cổ sầu như một số nhà thơ