Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Hệ thống tiền tệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 42 trang )

Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Hệ thống tiền tệ quốc tế
Phần I. Khái quát về hệ thống tiền tệ
Hệ thống tiền tệ là chế độ tổ chức, lưu thông tiền tệ giữa các quốc gia dựa trên những
thỏa ước và quy định ràng buộc giữa các quốc gia, có hiệu lực trong một không gian và
thời gian nhất định.
Các mối quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và các quan hệ kinh tế đối ngoại của các
quốc gia nói riêng bằng cách này hay cách khác đều được biểu hiện thông qua các quan hệ
tiền tệ. Từ đây đã hình thành nên hệ thống tiền tệ quốc tế, tập hợp các quy tắc, thể lệ và tổ
chức nhằm tác động tới các quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia trên thế giới. Do
mỗi hệ thống tiền tệ quốc tế ra đời và chỉ vận hành có hiệu quả trong những điều kiện thích
hợp về kinh tế, chính trị và xã hội nhất định nên khi những điều kiện này thay đổi sẽ dẫn
tới sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ quốc tế.
Cho đến nay đã có năm hệ thống tiền tệ quốc tế được sử dụng, bao gồm: chế độ bản vị
vàng, bản vị đồng Bảng Anh, hệ thống Bretton Woods, hệ thống Jamaica, bản vị SDR và
hệ thống tiền tệ Châu Âu.
Phần II: Hệ thống tiền tệ quốc tế
I. Chế độ bản vị vàng
Từ năm 1821 đến 1914, hấu hết các tiền tệ trên thế giới đều được quy đổi sang vàng.
Kinh tế toàn cầu được kết nối thông qua việc sử dụng chung cơ chế quy đổi vàng, tiền.
Nhóm 4 1 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
1.1. Khái niệm

Bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định
bằng hàm lượng vàng. Trong quá trình phát triển, chế độ này tiến triển dưới hình thức của
3 chế độ khác nhau: bản vị tiền vàng, bản vị vàng thỏi và bản vị hối đoái vàng.

1.1.1. Chế độ bản vị tiền vàng

Đồng tiền của một nước được bảo đảm bằng một trọng lượng vàng nhất định theo quy


định của pháp luật với những yêu cầu như Nhà nước không hạn chế việc đúc tiền vàng,
tiền giấy quốc gia được nhà nước xác định một trọng lượng vàng nhất định và được tự do
chuyển đỏi ra vàng theo tỉ lệ đó, và tiền vàng được lưu thông không hạn chế. Chế độ này
được áp dụng phổ biến ở các nước cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỉ XX.

1.1.2. Chế độ bản vị vàng thỏi
Chế độ này cũng quy định cho đơn vị tiền tệ quốc gia một trọng lượng vàng cố định.
Nhưng vàng được đúc thành thỏi mà không thành tiền, không lưu thông trong nền kinh tế
mà chỉ dự trữ để làm phương tiện thanh toán quốc tế và chuyển dịch tài sản ra nước ngoài.
Tiền giấy quốc gia được đổi ra vàng theo luật định. Chế độ này từng được áp dụng ở Anh
năm 1925, ở Pháp năm 1928...

1.1.3. Chế độ bản vị vàng hối đoái
Đây là chế độ quy định tiền giấy quốc gia không được trực tiếp chuyển đổi ra vàng.
Muốn đổi ra vàng, cần phải thông qua một ngoại tệ. Ngoại tệ đó phải được tự do chuyển
đổi ra vàng như USD, Bảng Anh... Chế độ này từng được áp dụng ở Ấn Độ năm 1898, ở
Đức năm 1924, ở Hà Lan năm 1928...
1.2.Nguyên tắc hoạt động
Thứ nhất, dưới chế độ bản vị vàng các quốc gia ấn định giá trị đồng tiền của mình với
vàng, hay nói cách khác là chính phủ ấn định giá vàng tính bằng tiền quốc gia, đồng thời
sẵn sàng không hạn chế mua và bán vàng tại mức giá đã ấn định. Tỉ giá hối đoái giữa các
đồng tiền của các quốc gia được xác định thông qua vàng
Nhóm 4 2 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Thứ hai, dưới chế độ bản vị vàng, xuất nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do
hoạt động. Do vàng được chu chuyển tự do giữa các quốc gia với nhau nên tỷ giá trao đổi
thực tế trên thị trường tự do không biến động đáng kể so với bản vị vàng.
Thứ ba, dưới chế độ bản vị vàng, Ngân hang trung ương luôn phải duy trì một lượng
vàng dự trữ trong mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành, tức tiền do NHTW phát hành
được “bảo đảm bằng vàng 100%” và tiền được chuyển đổi tự do không hạn chế ra vàng.

1. 3 . Tại sao lại là vàng?

Dưới chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (ở dạng giấy bạc hay tiền xu) cam
kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và trả vàng nếu được yêu cầu. Các chính phủ sử dụng thước
đo giá trị cố định này nếu chấp nhận thanh toán cả tiền mặt của chính phủ nước khác bằng
vàng sẽ có liên hệ tiền tệ ấn định (lượng tiền mặt lưu hành, tỷ giá quy đổi, v.v..)
Những người ủng hộ chế độ bản vị vàng cho rằng hệ thống này đề kháng được sự bành
trướng tín dụng và nợ nần. Không như chế độ tiền luật định (không có vàng bảo đảm),
đồng tiền được bảo đảm bằng vàng sẽ không cho phép chính phủ tùy tiện in tiền giấy. Cản
trở này ngăn hiện tượng lạm phát do đánh tụt giá tiền tệ. Nó được tin rằng giúp loại bỏ
được sự bất ổn hệ thống tiền tệ, đảm bảo sự tín nhiệm của tổ chức phát hành tiền tệ và
khuyến khích hoạt động cho vay. Ở những nước không áp dụng bản vị vàng một cách triệt
để như tuyên bố bảo đảm hàm lượng vàng nhưng phát hành tiền giấy nhiều hơn, trải qua
các cuộc khủng hoảng tín dụng và trì trệ kinh tế. Ví dụ là sự hoang mang ở Hoa Kỳ năm
1819 sau khi Ngân hàng quốc gia thứ hai ra đời năm 1816.
Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị biến đổi theo thời gian, dễ dàng phân
biệt, thẩm định nhờ màu đặc trưng, độ dẻo, âm thanh khi va chạm, khối lượng riêng lớn;
vàng là một vật phẩm mà các nhà buôn lựa chọn làm thước đo giá trị - nó đã được chọn từ
xa xưa là một dạng tiền và vật cất trữ của cải.
Ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới còn áp dụng bản vị vàng. Thay vào đó,
tiền luật định được áp dụng, có nghĩa là Nhà nước áp đặt sử dụng đồng tiền do họ phát
hành, yêu cầu nộp thuế, nhận trợ cấp, thanh toán của Chính phủ bằng đồng tiền đó. Ở một
số định chế tài chính tư nhân, bản vị vàng vẫn được áp dụng.
1.4. Lịch sử phát triển

Tính chất không ổn định của chế độ hai bản vị đã kìm hãm sự phát triển nhanh của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản chưa có đủ điều
kiện khách quan để thực hiện một chế độ bản vị đơn vàng, vì lượng vàng khai thác ra chưa
thể đáp ứng yêu cầu lưu thông tiền tệ bằng vàng, do đó, phải đúc tiền bạc để đưa vào lưu
thông.

Nhóm 4 3 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Mãi tới thế kỷ 18 sang thế kỷ 19, do công nghiệp khai thác vàng phát triển, các nước
mới có đủ điều kiện chuyển từ chế độ hai bản vị sang chế độ bản vị vàng. Anh là nước có
nền kinh tế và thương mại phát triển nhất lúc bầy giờ, là nước đầu tiên thực hiện chế độ
bản vị vàng, spng cũng phải trải qua một hời kỳ chuyển tiếp lâu dài từ 1717 đến 1821.
Pháp lệnh của nhà nước Anh công bố thực hiện chế độ bản vị vàng vào năm 1816 nhưng
mãi tới năm 1821 mới được thi hành.
1.5.Tác động của tiền tệ được đảm bảo bằng vàng

Sự cam kết duy trì khả năng chuyển đổi tiền ra vàng một cách chặt chẽ hạn chế quá
trình tạo ra tín dụng. Tín dụng bởi các tổ chức ngân hàng dưới chế độ bản vị vàng đe dọa
khả năng chuyển đổi của giấy bạc do họ phát hành và dẫn đến hậu quả là vàng bị rút ra
khỏi các quỹ dự trữ của ngân hàng đó ngoài ý muốn.
1.5.1. Sự ổn định nhờ bản vị vàng

Theo lý thuyết, bản vị vàng giới hạn quyền năng của chính phủ trong việc tạo ra lạm
phát bằng cách bơm thêm tiền giấy vào lưu thông, mặc dầu vậy, có bằng chứng cho thấy
trước Thế chiến thứ nhất, các nhà quản lý tiền tệ đã không mở rộng hay thu hẹp cung tiền
ngay cả khi nước đó bị thất thoát vàng. Bản vị vàng tạo ra sự vững chắc của thương mại
quốc tế do nó cung cấp một cơ cấu cố định tỷ giá tiền tệ. Sau các chế độ bản vị bạc mất giá
liên tục của mười năm đầu thế kỷ 18, vàng được coi là sự thay thế tốt hơn và trở thành
nguyên nhân, mục đích cho thương mại. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19, những lập luận
chống lại bản vị vàng tạo ra xu hướng chính trị ở đa số các quốc gia công nghiệp nghiêng
về những dạng tiền tệ dựa trên bạc, hoặc thậm chí là tiền giấy không thôi.
Dưới chế độ bản vị vàng cổ điển quốc tế, những biến động về giá ở một quốc gia sẽ
được điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ bởi cơ chế tự cân bằng thanh toán gọi là cơ chế
dòng chảy giá cả-bản kim (bản kim ở đây là tiền xu vàng). Cơ cấu này như sau:
Đầu tiên, khi giá một loại hàng hóa giảm xuống nhờ cung tăng vọt, tăng hiệu quả vốn,
giảm giá đầu vào hoặc do cạnh tranh, người mua sẽ nghiêng về hàng hóa đó nhiều hơn

những hàng hóa khác. Bởi sự ổn định tỷ giá tiền-vàng, người tiêu dùng ở các nước khác sẽ
mua hàng hóa được định giá thấp nhất và vì thế, vàng sẽ chảy về các nước có nền kinh tế
hiệu quả nhất.
Lúc đó, quốc gia mới nhận luồng vàng đến phải tăng cung tiền tệ và chịu áp lực lạm
phát vừa phải để bù lại việc giảm giá trước đó. Đồng thời, lượng tiền lưu hành ở các nền
kinh tế kém hiệu quả bị giảm đi, vì vậy giá cả ở các nước này giảm xuống cho đến khi sự
cân bằng được khôi phục.
Các ngân hàng trung ương, với mục đích ngăn cản luồng vàng chảy đi, sẽ chống đỡ
Nhóm 4 4 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
bằng cách tăng tỷ lệ lãi suất làm sao để đưa giá cả trở lại mức cân bằng quốc tế nhanh hơn.
Về mặt lý thuyết, chừng nào còn duy trì bản vị vàng thì chừng đó hạn chế được lạm phát
cao hoặc giảm phát ngoài tầm kiểm soát. Có một thời gian, người ta tin rằng các thị trường
luôn luôn vận hành rạch ròi (xem nguyên lý Say). Sự giảm phát sẽ làm thay đổi giá của
vốn trước tiên, có nghĩa là giá của vốn giảm và cho phép tăng trưởng nhanh hơn đồng thời
giá cả về mặt dài hạn vẫn ổn định. Tuy nhiên, in trên thực tế, điều này lại không diễn ra mà
tiền lương (giá của lao động), chứ không phải giá của tư bản, sẽ bị hạ xuống trước tiên.
1.5.2. Mô hình Mundell-Fleming

Theo kinh tế học tân cổ điển, mô hình Mundell-Fleming diễn tả động thái của các đồng
tiền trong chế độ bản vị vàng. Do giá trị tiền tệ được gắn liền với hàm lượng vàng, những
yếu tố tự do còn lại để điều tiết thị trường vốn-tiền tệ là (1) tự do di chuyển luồng vốn và
(2) chính sách tài chính, tiền tệ. Một lý do khiến đa số các nhà kinh tế học vĩ mô hiện nay
không ủng hộ sự trở lại của bản vị vàng là mối quan ngại hai yếu tố trên không đủ để đối
phó với suy thoái hoặc giảm phát lớn.
Mundell lập luận rằng vì trong một nền kinh tế công nghiệp, một lượng lớn tư bản
không linh động, chế độ bản vị vàng quốc tế hoặc thậm chí là chỉ ở một quốc gia có thể
được tái lập. Vẫn theo ông, điều này sẽ cho phép ngân hàng trung ương một phạm vi tự do
đủ để giảm thiểu tác động tiêu cực của chu kỳ kinh tế. Nó sẽ giảm tỷ lệ lãi suất ở pha suy
thoái và tăng trở lại để kiềm chế tăng trưởng nóng. Milton Friedman không thống nhất ở

điểm này, ông nêu ra các tác động bởi tiền tệ về mặt lượng sẽ gây ra giảm phát trong hệ
thống đó và các quốc gia thành công sẽ nhận ra lợi ích thu được ít hơn là Mundell kỳ vọng,
bởi luồng vàng di chuyển đến một quốc gia sẽ gây lạm phát ở nước đó. Cuộc tranh luận
này tương tự cuộc tranh luận của Adam Smith và David Hume trong thế kỷ 18 về việc tăng
lượng tiền tệ có phải là một mục tiêu đáng thực hiện hay không.
Nhiều quốc gia chống lưng cho nền kinh tế bằng cách tích trữ vàng. Số dự trữ này
không phải để bảo đảm giấy bạc được phát hành mà nó là tài sản bảo vệ tiền tệ khỏi tỷ lệ
lạm phát cao. Những người cố súy cho vàng cho rằng không cần biện pháp này vì tiền tệ tự
nó đã mang giá trị nội tại Bản vị vàng khi đó được khuyến khích bởi những người tin rằng
một vật cất trữ giá trị ổn định là thành tố quan trọng nhất đối với sự an tâm trong kinh
doanh.
Nói chung thì ngày nay đại đa số các chính phủ và các nhà kinh tế không ủng hộ bản vị
vàng, vì chế độ này thường cho thấy là không tạo đủ sự linh hoạt cho nguồn cung tiền tệ và
chính sách tài khóa. Và lý do của việc này là ở chỗ nguồn cung cấp vàng mới (tức là nguồn
cung cấp thêm tiền tệ dưới chế độ bản vị vàng) thì giới hạn và phải được sử dụng một cách
căn cơ.
Một quốc gia đơn lẻ không thể cách li nền kinh tế của nó với những biến động suy
Nhóm 4 5 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
thoái và lạm phát của thế giới. Thêm vào đó, quá trình điều chỉnh thâm hụt chi tiêu ở một
quốc gia có thể lâu dài và đau đớn khi mà tỷ lệ thất nghiệp gia tăng hoặc thụt lùi tốc độ
phát triển kinh tế.
Trong số những người phản đối mạnh mẽ, John Maynard Keynes nhấn mạnh vào điểm
bản vị vàng dựa vào kim loại cứng nhắc. Những người ủng hộ trường phái của ông cho
rằng bản vị vàng gây ra giảm phát, điều khiến suy thoái càng trầm trọng bởi người ta
không muốn đầu tư khi giá cả giảm xuống, vì vậy mà xương sống của hoạt động kinh tế
càng bị sức ép. Cũng theo họ, chế độ bản vị tước đi khả năng chống lại khủng hoảng kinh
tế đó là khả năng tăng cung tiền tệ để thúc đấy kinh tế khôi phục.
Trái lại, những tín đồ của bản vị vàng chỉ ra rằng kỷ nguyên công nghiệp hóa và toàn
cầu hóa của thế kỷ 19 là bằng chứng của sự tính thực tiễn và ưu việt của chế độ bản vị

vàng và nêu ra rằng nước Anh đã đi lên vị trí đế vương, cai trị gần một phần tư dân số thế
giới và xây dựng đế quốc thương mại mà ngày nay là Khối thịnh vượng chung Anh.
Những kẻ ky cóp vàng (goldbug) lấy nó là vật bảo vệ trước sự lạm phát giá cả hàng hóa và
là biểu hiện cội nguồn của tài nguyên. Vì vàng có thể đổi ra bất kỳ đồng tiền nào, được
chấp nhận ở mọi quốc gia trên thế giới, họ xem vàng là vật bảo đảm trước sự phiêu lưu của
các ngân hàng trung ương trong chính sách tiền tệ và vàng là phương tiện chống rủi ro biến
động tiền tệ. Với lập luận này, họ cho rằng cuối cùng thì chế độ vàng sẽ trở lại vì nó là vật
mang giá trị ổn định duy nhất.
Ngày nay, không nhiều nhà kinh tế học ủng hộ việc trở lại bản vị vàng trừ trường phái
kinh tế học Áo và trường phát trọng cung. Tuy vậy nhiều nhà kinh tế lớn đồng tình với
việc lấy kim loại là cơ sở của tiền tệ, đồng thời lập luận chống lại tiền luật định. Lý do mà
có rất ít sự ủng hộ bản vị vàng đó là những hệ quả của sự tự điều chỉnh đó không được coi
là thích đáng ở thế kỷ 20 và 21 .
Vì vậy, bản vị vàng có xu hướng bị bãi bỏ khi các chính phủ nhận thấy việc bỏ qua nó
có lợi ích hơn. Thực chất, bản vị vàng không có nghĩa là các quốc gia không thể chuyển
sang tiền luật định khi có chiến sự hoặc trong các tình trạng khẩn cấp khác. Điều này vẫn
xảy ra mặc dù vàng tăng giá trong các tình huống như vậy vì mọi người thường sử dụng
vàng để tích trữ vì lo sợ rằng tiền luật định thường cho phép lạm chi và do đó thường dẫn
tới lạm phát hoặc sử dụng tem phiếu.
1.6.Ưu điểm – Nhược điểm
1.6.1.Ưu điểm
- Giúp cho thương mại và đầu tư thế giới phát triển và hưng thịnh. Điều này được
chứng minh trong thời kì 1880-1914, với hàng rào thương mại vàng được gỡ bỏ hoàn toàn
và kiểm soát ngoại hối và chu chuyển vốn ít khi được áp dụng cộng với việc không có một
sự phá giá hay nâng cao giá nào giữa các đồng tiền của các quốc gia lớn trên thế giới đã
giúp cho thị trường vốn quốc tế phát triển với trung tâm là London.
- Khuyến khích phân công lao động quốc tế, giúp gia tăng phúc lợi thế giới. Trong
chế độ bản vị vàng, các nhà đầu tư gần như được đảm bảo chắc chắn trước những rủi ro về
Nhóm 4 6 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế

tỉ giá, điều này khiến cho thương mại và đầu tư thế giới phát triển, luồng vốn lưu chuyển
tự do giữa các quốc gia để tìm kiếm lợi nhuận cao nhất.
- Cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán vận hành trơn tru. Với cơ chế dòng vàng – giá
cả như đã nêu trên, những bất cân đối trong cán cân thanh toán của các quốc gia sẽ tự động
được điều chỉnh về trạng thái cân bằng. Trong trường hợp các quốc gia tuân thủ những quy
tắc của hệ thống, cơ chế dòng vàng – giá cả sẽ vận hành một cách trơn tru và hiệu quả.
- Mâu thuẫn quyền lợi giữa các quốc gia ít khi xảy ra. Vì có sự tác động của cơ chế
dòng vàng – giá cả nên những thâm hụt hay thặng dư trong cán cân thanh toán của một
quốc gia được điều chỉnh một cách tự động theo quan hệ cung cầu phổ biến, do đó, trong
thời kì này ít khi xảy ra những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các quốc gia.
1.6.2.Nhược điểm
- Nền kinh tế thường xuyên phải trải qua sự bất ổn định vì cơ chế điều chỉnh cán cân
thanh toán quốc tế thông qua sự thay đổi mức giá cả, lãi suất, thu nhập và thất nghiệp.
- Quốc gia có thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế phải trải qua thời kì kinh tế đình
đốn, tỷ lệ thất nghiệp cao; trong khi đó quốc gia có thặng dư cán cân thanh toán thì phải
trải qua thời kì lạm phát.
- Những mỏ vàng có thể phát hiện bất cứ lúc nào, do đó làm tăng lượng cung ứng tiền
và có thể dẫn đến tình trạng lạm phát. Ngược lại, ở những quốc gia khan hiếm vàng thì sẽ
bị hạn chế lượng cung ứng tiền, và trở thành nguyên nhân gây kìm hãm nền kinh tế.
- Mặt khác, trong chế độ bản vị vàng không có những cơ chế ràng buộc các quốc gia
phải tuân thủ các quy tắc của hệ thống nên trên thực tế, quy tắc về đảm bảo số tiền phát
hành trên cơ sở lượng vàng dự trữ thường bị bỏ qua.
- Với cơ chế điều chỉnh thông qua dòng vàng lưu chuyển tự do giữa các quốc gia và
việc phát hành tiền dựa trên lượng vàng dự trữ khiến cho việc điều hành của NHTW kém
linh động, vai trò của NHTW trong nền kinh tế cũng không rõ nét.
II. Bản vị đồng Bảng Anh
2.1. Khái niệm
Bảng Anh ( ký hiệu : £, mã ISO : GBP ) là đơn vị tiền tệ chính thức của Vương quốc
Anh, bao gồm các lãnh thổ hải ngoại và thuộc địa. Ký hiệu của đồng bảng Anh ban đầu có
2 vạch trên thân (₤), sau này mới chuyển thành một gạch (£), ký hiệu này xuất xứ từ ký tự

L trong LSD (tên viết tắt của các đơn vị trong hệ đếm 12 – librae, solidi, denarii, chuyển
sang tiếng Anh là Pound, silling và pence).

2.2. Lịch sử lâu đời

Đồng bảng Anh là đồng tiền lâu đời nhất còn được sử dụng sau khi một số quốc gia
thuộc khối EU chuyển sang dùng đồng Euro (€). Nó là đồng tiền được lưu trữ trong các
Nhóm 4 7 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
quỹ dự trữ ngoại tệ toàn cầu, mức phổ biến chỉ sau đồng đô la Mỹ và đồng Euro. Đồng
bảng đứng thứ tư về khối lượng giao dịch ngoại tệ toàn cầu sau đồng đô la Mỹ,
đồng Euro và đồng Yên Nhật.
Các đồng bảng Anh được cho là đồng tiền tệ lâu đời nhất vẫn được sử dụng cho đến
ngày hôm nay. Được giới thiệu bởi vua Henry II vào đầu năm 1158, song lúc đó, chúng
chưa được gọi là “đồng bảng Anh” mà dùng “xu Tealby” làm đơn vị tiền tệ.

Đồng Tealby cổ.
Elizabeth I cùng nhóm cố vấn của bà đã đưa ra “đồng bảng Anh” như một đơn vị tiền
tệ vào năm 1560-1561 để chống lạm phát, tuy nhiên, việc này lại phát sinh ra việc làm bạc
giả gây cản trở giá trị của tiền tệ.

Trước đồng bảng Anh, trong thời gian đầu thời kỳ Trung cổ, những đồng xu làm bằng
bạc được sử dụng như một loại tiền tệ. Kể từ đó, đồng bảng vẫn giữ một vị trí ổn định bất
kể các đồng tiền khác của Châu Âu thay đổi ra sao. Qua các khủng hoảng tài chính năm
1621, 1694-96, 1774 và 1797, đồng bảng vẫn vững vàng.
Ngay cả những thời điểm khó khăn (khi Nội chiến nước Anh gây loạn lạc) cũng không
làm đồng bảng mất giá. Có ý kiến cho rằng, nhờ đồng tiền vững giá trong nhiều thế kỷ,
nước Anh xây dựng được nền tảng tài chính ưu việt, hệ thống tín dụng an toàn, uy tín trong
suốt thế kỷ 18. Đồng bảng là đồng tiền chính thức của Ngân hàng Anh ngay khi
nó được thành lập năm 1694.


2.3. Các hình in trên đồng Bảng

Bảng Anh được phát hành dưới 2 dạng là tiền kim loại và tiền giấy.

Nhóm 4 8 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
2.3.1. Tiền kim loại

Do xưởng đúc tiền hoàng gia phát hành bao gồm mệnh giá 1 xu, 2 xu, 5 xu, 10 xu, 20
xu, 1 bảng và 2 bảng. Có cả đồng 5 bảng nhưng ít được sử dụng.

Trên đồng 1 xu có hình cổng thành Westminster Palace. Được phát hành ngày 15 tháng 2
năm 1971.
Trên đồng 2 xu có hình biểu tượng của Huân tước xứ Wales. Được phát hành ngày 15
tháng 2 năm 1971.
Nhóm 4 9 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Trên đồng 5 xu có hình hoa Thistle, quốc hoa của xứ Scotland. Hiện tại phiên bản nhỏ
hơn được phát hành tháng 6 năm 1990 (phiên bản lớn hơn được giới thiệu năm 1968, bị
hủy năm 1990).
Trên đồng 10 xu có hình một con sư tử, tượng trưng cho xứ England. Hiện tại phiên bản
nhỏ hơn phát hành tháng 9 năm 1992 (phiên bản lớn hơn được giới thiệu năm 1968 song
đã bị hủy vào năm 1993).
Nhóm 4 10 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Đồng 20 xu có hình Tudor Rose – quốc hoa của Vương Quốc Anh. Phát hành ngày 9 tháng
6 năm 1982.
Đồng 50 xu có hình Britannia, nữ thần tượng trưng cho đại đế quốc Anh và hình một con
sư tử cũng là biểu tượng của nước Anh. Hiện tại, bản nhỏ hơn được giới thiệu tháng 9

năm 1997,(phiên bản lớn hơn được giới thiệu tháng 10 năm 1969 và bị hủy năm 1998).
Nhóm 4 11 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Đồng 1 bảng có rất nhiều hình ảnh phản ánh các quốc gia khác nhau của Vương
quốc Anh: biểu tượng sư tử quen thuộc của đội tuyển Anh, biểu tượng của cây thánh giá
Celtic xứ Bắc Ireland. Được phát hành vào ngày 21 tháng 4 năm 1983.
Đồng 2 bảng có thiết kế đại diện cho sự phát triển về công nghiệp ở Anh. Phát hành ngày
15 tháng 6 năm 1998.
2.3.2. Tiền giấy
Do ngân hàng Anh và các ngân hàng ở Scotland, bắc Ireland phát hành. Bao gồm các
mệnh giá : 5 bảng, 10 bảng, 20 bảng và 50 bảng.
Nhóm 4 12 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Trên tờ 5 bảng có in hình Elizabeth Fry, một nhà hoạt động xã hội đã có công cải thiện
điều kiện sống cho phụ nữ ở các nhà tù Châu Âu. Song tờ 5 bảng này đã không còn là
đồng tiền tệ chính thức vào ngày 21 tháng 11 năm 2003.
Trên tờ 10 bảng có in hình Charles Darwin, nhà khoa học tự nhiên, người đề
xuất Thuyết Tiến hóa. Ngoài ra, nó còn được in hình các hệ động thực vật mà ông đã
từng khám phá.

Tờ 20 bảng có hình Edward Elgar, một nhà soạn nhạc người Anh.

Nhóm 4 13 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Tờ 50 bảng có hình John Houblon, người sáng lập Ngân hàng Anh và là thống đốc đầu
tiên của ngân hàng Anh.
Có cả tiền giấy mệnh giá 100 bảng, nhưng không lưu thông trên thị trường. Tiền giấy
mệnh giá 1 bảng được dùng ở quần đảo Channels và Scotland.
Bảng Anh vẫn luôn là một trong những đồng tiền có giá trị cao nhất trên thế giới
2.4. Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá giao dịch của đô la Mỹ với đồng bảng Anh(USD/GBP) qua một số năm:
• 0.5418 (2006),
• 0.5493 (2005),
• 0.5462 (2004),
• 0.6125 (2003),
• 0.6672 (2002).
Tỷ giá giao dịch với đồng Việt Nam (GBP/VND) cập nhật ngày 20/01/2013 là:
• 33.208 Tỷ giá Ngân Hàng Vietinbank
• 33.502.69 Tỷ giá ngân hàng VietcomBank
2.5. Lịch sử ra đời và phát triển của đồng bảng Anh
2.5.1. Trước thời đồng bảng
Thời Anglo-Saxon, những đồng xu bạc gọi là đồng sceat được sử dụng trong thương
mại và nặng 20 grain (xấp xỉ 1,3 gram).
Vua Offa ở vùng Merica giữa nước Anh ngày nay (khoảng năm 790) phát hành đồng
penny bạc nặng 22,5 grain (xấp xỉ 1.5 gram). 240 đồng penny bạc nặng tương đương một
đơn vị bạc gọi là Tower pound, tổng cộng 5.400 grain (349,9 gram)
Năm 1526, đơn vị pound bạc được nâng lên 373,242 gram gọi là Troy pound.
Nhóm 4 14 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
Là một đơn vị tiền tệ, đồng bảng Anh xuất xứ từ giá trị của khối lượng bạc trong đồng
Tower pound.
2.5.2. Đồng bảng (pound sterling)
Tên gọi đồng bảng (pound) bắt nguồn từ đồng Tower pound có hàm lượng bạc tinh
khiết khá cao đạt 92,5% (đồng chiếm phần còn lại 7,5%).
Đồng bảng Anh ngày nay (pound sterling) được xác lập bởi Nữ hoàng Elizabeth I và
các cố vấn của bà. Những năm trước đó từ 1543-1551, nước Anh dưới thời vua Tudor trải
qua biến động tài chính, đồng xu bạc – tiền của nước Anh giảm hàm lượng bạc rất nhiều.
Tới năm 1551, hàm lượng bạc trong đồng penny của nước Anh chỉ còn một phần ba. Dưới
thời Nữ hoàng Elizabeth I, những đồng xu bạc cũ được thu về để đúc lại hoặc đổi đồng xu
mới theo một tỷ lệ có khấu trừ.

Kể từ đó, đồng pound sterling giữ ổn định giá trị nội tại của nó bất kể các đồng tiền
khác của Châu Âu thay đổi ra sao, qua các khủng hoảng tài chính năm 1621, 1694-96,
1774 và 1797 và thậm chí là sau khi nước Anh chuyển sang bản vị vàng. Ngay cả những
loạn lạc của Nội chiến nước Anh cũng không làm đồng bảng mất giá. Có ý kiến cho rằng
nhờ đồng tiền vững giá trong nhiều thế kỷ, nước Anh xây dựng được nền tảng tài chính ưu
việt, hệ thống tín dụng an toàn, uy tín trong suốt thế kỷ 18. Đồng bảng là đồng tiền chính
thức của Ngân hàng Anh ngay khi nó thành lập năm 1694.
2.5.3. Bản vị vàng
Đồng bảng chuyển sang bản vị vàng một cách không chính thức từ bản vị bạc nhờ sự
định giá vàng quá cao ở Anh khiến vàng chảy về nước Anh đối lại cho dòng xuất khẩu bạc
đều đặn. Thực tế này xảy ra dù có việc tái định giá vàng năm 1717 của Ngài Isaac Newton
lúc đó là người đứng đầu Xưởng đúc tiền hoàng gia (Royal Mint). Bản vị vàng được lập lại
sau khi Chiến tranh Napoleon cho đến sau Thế chiến thứ nhất.
Cho đến trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Anh là một trong những nền kinh
tế mạnh nhất thế giới, chiếm 40% luồng xuất ngoại đầu tư của toàn cầu. Thế nhưng, sau
Đại chiến thế giới I (1914-1918), các quốc gia ở Châu Âu bị kiệt quệ về kinh tế, nước Anh
cũng nằm trong tình trạng này, nó vay nợ 850 triệu bảng chủ yếu là từ Hoa Kỳ, với lãi suất
lên tới 40% chi tiêu của chính phủ. Tuy nhiên, London vẫn giữ được vị thế mạnh về kinh
tế và tài chính so với các nước trong khu vực nhờ có hệ thống thuộc địa rộng lớn và thị
trường London rất phát triển của mình. Lợi dụng vị thế đó, Anh đã thiết lập hệ thống tiền
tệ quốc tế, lấy chính đồng bảng Anh làm đồng tiền chủ chốt. Tại hội nghị Jenno, được
Nhóm 4 15 Lớp tài chính ngân hàng B_K11
Đề bài: Hệ thống tiền tệ quốc tế Môn: Tài chính quốc tế
nhiều nước ủng hộ và được Hoa Kì hậu thuẫn, hệ thống tiền tệ quốc tế với bảng Anh là
đồng tiền chủ chốt đã ra đời.
Trong một nỗ lực lấy lại sự ổn định tiền tệ, bản vị vàng được khôi phục năm 1925,
trong thời kì này, nhiều quốc gia vẫn muốn quay trở lại chế độ bản vị vàng. Theo đó bảng
Anh quay lại nội dung vàng ở mức trước chiến tranh, nhưng do khối lượng hàng hóa, dịch
vụ lưu thông rất lớn và ngày càng ra tăng, mà khối lượng vàng dự trữ lại có hạn nên các
Ngân hàng không thể đổi giấy bạc Ngân hàng ra vàng cho mọi đối tượng có nhu cầu. Do

đó Ngân hàng Anh quy định, các đối tượng muốn đổi giấy bạc ra vàng phải có 1.700 bảng
Anh để đổi lấy 400 ounce (1 ounce =31,135gr) tức 12, 4414kg vàng, tức là người ta chỉ có
thể đổi đồng bảng lấy vàng thỏi chứ không phải xu vàng. Vì vậy đồng tiền tệ quốc tế này
còn được gọi là chế độ bản vị vàng thoi, hay chế độ bản vị vàng hối đoái. Bản vị vàng bị từ
bỏ ngày 21 thỏng 09 năm 1931 trong thời gian Đại khủng hoảng và bảng Anh mất giỏ
25%.
Ngày nay, việc đảm bảo quy đổi tiền tệ ra kim loại quý không còn nữa. Dollar Mỹ là
đồng tiền cuối cùng duy trì bản vị vàng tới năm 1971. Bảng Anh đã từng là đồng tiền của
nhiều khu vực của Đế quốc Anh. Khi Đế quốc Anh trở thành Khối thịnh vượng chung, các
quốc gia tự phát hành đồng tiền riêng như đồng bảng Australia (1910-1966) và đồng bảng
Ireland (1928-1999). Những đồng tiền này nằm trong ảnh hưởng của đồng bảng và tỷ giá
gắn với bảng Anh.
2.5.4. Gắn chặt với đô la Mỹ
Kể từ khi từ bỏ cam kết quy đổi trực tiếp đồng bảng ra vàng (bản vị vàng), có một số
nỗ lực để cố định giá trị của bảng Anh với một số ngoại tệ khác, đặc biệt là với đô la Mỹ.
Dưới những áp lực kinh tế liên tiếp và mặc dù luôn từ chối phá giá đồng bảng, cuối
cùng, ngày 19 tháng 9 năm 1949, chính phủ Anh buộc phải phá giá tiền tê 40% từ tỷ giá
với đô la Mỹ là £1 = US$4 xuống US$2,80. Động thái này kéo theo sự phá giá so với đô la
Mỹ của đồng tiền các quốc gia khác gồm Úc, Đan Mạch, Ireland, Ai Cập, Ấn Độ, Israel,
New Zealand, Na Uy, và Nam Phi.
Đến giữa những năm 1960, đồng bảng lại đứng trước áp lực phá giá so với đồng đô la
Mỹ. Mùa hè năm 1966, giá trị bảng Anh tụt xuống trên thị trường tiền tệ. Chính phủ của
thủ tướng Wilson buộc phải thắt chặt kiểm soát giao dịch ngoại tệ. Ngày 18 tháng 11 năm
1967, đồng bảng Anh mất giá tới 14,3% xuống mức £1 = US$2,41. Trong nhiều biện pháp
quản lý, có cả những biện pháp cực đoan như cấm khách du lịch mang ra khỏi nước Anh
quá £50. Sự cấm đoán được dỡ bỏ năm 1970.
Nhóm 4 16 Lớp tài chính ngân hàng B_K11

×