Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Khoá luận tốt nghiệp xây dựng câu hỏi theo quan điểm pisa để phát huy năng lực của học sinh trong dạy học chương 1, phần 5 sinh học 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.11 KB, 138 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2








KHOA SINH - KTNN
===soEQoa===



PHẠM THỊ DIỆU
••

XÂY DựNG CÂU HỎI THEO QUAN ĐIỀM PISA ĐẺ
PHÁT HUY NẰNG Lực CỦA HỌC SINH TRONG
DAY HOC CHƯƠNG I, PHẦN 5
SINH HỌC 12
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

••••

Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Sinh học

HÀ NỘI, 2015
Để hoàn thành khóa luận này, lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn cô
giáo T.s Đỗ Thị Tố Như - Giảng viên tổ phương pháp, khoa Sinh- KTNN,



LỜI CẢM ƠN
trường ĐHSP Hà Nội 2. Người đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tâm trong suốt quá trình
làm khóa luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Sinh- KTNN
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 cùng các thầy cô trường THPT Hoa Lư A (Ninh
Bình), trường THPT Bình Xuyên (Vĩnh Phúc), trường THPT Yên Dũng 2 (Bắc
Giang) đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt khóa luận này.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng đây là bước đầu làm quen vói công tác nghiên
cứu khoa học nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý,
chỉ bảo của các thầy cô giáo cùng các bạn đọc để giúp cho đề tài nghiên cứu của em
được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày.......tháng.......năm 2015.
Sinh viên thưc hiên




Pham Thỉ Diêu



••


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là nghiên cứu của riêng bản thân tôi dưới sự
hướng dẫn trực tiếp của cô giáo


T.s Đỗ Thị Tố Như, giảng viên khoa Sinh- KTNN,

trường ĐHSP Hà Nội 2. Mọi kết quả nghiên cứu trong đề tài đều trung thực, không
trùng vói kết quả của tác giả nào, đề tài chưa từng công bố tại bất kì một công trình
nghiên cứu khoa học nào hoặc của ai khác.
Nếu có gì sai phạm tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, ngày.......tháng........năm 2015.
Sinh viên thưc hiên




Pham Thỉ Diêu

• •


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viêttăt

Đoc là

CH

Câu hỏi

GV

Giáo viên


HS

Học sinh

PISA

Programme for International Student Assessment

THPT

Trung học phô thông

NST

Nhiêm săc thê

Nu

Nucleotit

Aa

Axit amin

ĐB

Đột biên





MỤC LỤC
1.3.
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG CÂU HỎI XÂY
DựNG THEO QUAN ĐIỂM PISA ĐẺ

PHÁTHUY NĂNG Lực HỌC


PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.

Do yêu cầu đồi mói của phương pháp dạy học
Trong những năm cuối thế kỉ 20, chuyển sang đầu thế kỉ 21, tình hình

kinh tế thế giới có hai đặc điểm nổi bật đó là: kinh tế thế giới đang chuyển
dần sang giai đoạn kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế.
Nguyên nhân quan trọng dẫn đến các đặc điểm trên chính là các thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Trong
tình hình đó ngành giáo dục với chức năng chuẩn bị lực lượng lao động cho
xã hội cũng phải chuyển biến đáp ứng tình hình. Giáo dục Việt Nam trong
những năm gần đây đang tập trung đổi mới, hướng tói một nên giáo dục tiến
bộ, hiện đại, bắt kịp xu hướng của các nước trong khu vực và trên thế giói.
Một trong những mục tiêu lớn của giáo dục nước ta hiện nay là hoạt động
giáo dục phải gắn liền với thực tiễn. Chính vì vậy, vói việc dạy học nói chung
và dạy học bộ môn Sinh học nói riêng, vai trò của việc vận dụng kiến thức
vào thực tế là cấp thiết và mang tính thòi sự. Trước đòi hỏi của thực tiễn thì
việc đổi mói giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là hết sức cần

thiết. Luật giáo dục năm 2005, điều 28.2 có ghi: “phương pháp giảo dục phổ
thông phải phát huy được tỉnh tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thủ học tập cho học sinh”.
1.2.

Do thưc tiễn day hoc bô môn


•V





Hiện nay, ở các trường trung học phổ thông phương pháp dạy học vẫn là
thuyết trình, giảng giải kết hợp vấn đáp, giải thích minh họa tranh vẽ, hình
ảnh, chưa chú trọng nâng cao khả năng vận dụng vào thực tiễn. Chính vì vậy

6


học sinh học tập thụ động, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo, chủ
động và khả năng vận dụng của học sinh. Đối với bộ môn Sinh học là môn
khoa học thực nghiệm nhưng rất gần gũi vói thực tiễn đòi sống sản xuất, tuy
nhiên ở các trường phổ thông môn học này chưa thu hút được sự yêu thích
của các em học sinh bởi nhiều nguyên nhân chủ yếu do nội dung còn nặng về
lý thuyết, phương pháp dạy học chủ yếu là thuyết trình làm cho học sinh
không có hứng thú với môn học, không phát huy được năng lực của học sinh.

Vì vậy trong quá trình dạy học cần chú ý sử dụng các câu hỏi có thể giúp các
em phát huy tính tích cực, sáng tạo, khả năng vận dụng của học sinh vào thực
tiễn hay chính là phát huy được năng lực của học sinh.
Trong bối cảnh đó, nhận thức được vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng
của chương trình đánh giá quốc tế trong việc hoạch định các chiến lược và
chính sách phát triển giáo dục quốc gia nên Việt Nam đã quyết định tham gia
vào một trong những chương trình đánh giá quốc tế có uy tín và phổ biến nhất
hiện nay là PISA là viết tắt của “Programme for International Student
Assessment- Chương trình đánh giá học sinh quốc tế” do Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (“Organization for Co- operation and Development” viết tắt
là OECD) khởi xướng và chỉ đạo. PISA được thực hiện theo chu kì 3 năm một
lần (bắt đầu từ năm 2000). Đối tượng đánh giá là học sinh trong độ tuổi 15, độ
tuổi kết thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia (15 năm 3
tháng đến 16 năm 2 tháng - độ tuổi PISA). Một đặc điểm nổi bật trong đánh
giá PISA là nội dung đánh giá được xác định dựa trên kiến thức, kĩ năng cần
thiết cho tương lai, không dựa vào các chương trình giáo dục quốc gia. Đây
chính là điều mà PISA gọi là “năng lực phổ thông”. Một trong các năng lực
được đánh giá trong PISA là năng lực khoa học. Trong PISA các tình huống
được đưa ra để đánh giá năng lực này có liên quan mật thiết đến những vấn đề

7


trong cuộc sống của cá nhân hàng ngày, những vấn đề của cộng đồng và toàn
cầu.
1.3.

Vai trò của câu hỏi theo quan điểm PISA trong việc phát huy

năng lực ngưM học

Để hình thành kiến thức, kỹ năng, thái độ và phát huy năng lực người
học có nhiều phương pháp dạy học khác nhau và có nhiều biện pháp thực
hiện. Một trong những biện pháp có hiệu quả là giáo viên xây dụng hệ thống
câu hỏi theo quan điểm PISA. Việc xây dựng câu hỏi theo quan điểm PISA
trong mồi nội dung, chủ đề là công cụ đắc lực, là phương tiện sư phạm hữu
hiệu thúc đẩy hoạt động nhận thức của học sinh. Việc thường xuyên xây dựng
và sử dụng câu hỏi sẽ đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề cần giải
quyết, khi đó học sinh phải tích cực vận động linh hoạt, sáng tạo những kiến
thức để có thể trả lòi.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài “Xây dựng
câu hỏi theo quan điểm PISA để phát huy năng lực của học sinh trong
dạy học Chương I, Phần 5, Sinh học 12”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng câu hỏi theo quan điểm PISA để phát huy năng lực của học
sinh trong dạy học Chương I, Phần 5, Sinh học 12.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được hệ thống câu hỏi theo quan điểm PISA trong dạy học
Chương I, Phần 5, Sinh học 12 thì sẽ góp phần nâng cao năng lực khoa học
của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Chương I, Phần 5, Sinh học
12.
4. Đổi tượng nghiên cứu

8


Hệ thống các câu hỏi theo quan điểm PISA trong dạy học Chương I,
Phần 5, Sinh học 12.
5. Phạm vỉ nghiên cứu
Nội dung Chương I, Phần 5, Sinh học 12.
6. Nhiệm yụ nghiên cứu

- Xác định cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về câu hỏi theo quan điểm
PISA trong quá trình dạy học.
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng câu hỏi theo quan điểm PISA trong dạy
học môn sinh học ở trường THPT.
- Nghiên cứu quy trình xây dựng câu hỏi theo quan điểm PISA và xây
dựng hệ thống câu hỏi theo quan điểm PISA trong dạy học Chương I,
Phần 5, Sinh học 12.
- Đánh giá hiệu quả của hệ thống câu hỏi theo quan điểm PISA.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến nội dung Chương I, Phần 5,
Sinh học 12 như: SGK Sinh học 12, sách phương pháp giảng dạy Sinh học
dành cho giáo viên, giáo trình, luận văn, sách tham khảo, tạp chí và các
webside làm cơ sở khoa học cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra:
Điều tra chất lượng việc dạy và học Chương I, Phần 5, Sinh học 12 bằng
việc quan sát dự giờ ở trường THPT.
Điều tra thực trạng việc dạy học và kiểm tra đánh giá theo quan điểm
PISA tại các trường THPT thông qua trao đổi, phỏng vấn giáo viên và học
sinh cùng với tham khảo các bài kiểm tra và kết quả kiểm tra đánh giá.
- Phương pháp chuyên gia:

9


Sau khi xây dựng được bộ câu hỏi theo quan điểm PISA trong dạy học
Chương I, Phần 5, Sinh học 12 THPT chúng tôi sẽ tham khảo ý kiến của một
số giảng viên, giáo viên có kinh nghiệm.
8. Dự kiến những đóng góp của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng câu

hỏi theo quan điểm PISA trong dạy học Sinh học ở trường THPT.
Xây dựng được hệ thống câu hỏi theo quan điểm PISA để tổ chức
các hoạt động dạy học trong dạy học Chương I, Phần 5, Sinh
học 12.

PHẦN II. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THựC TIỄN
CỦA ĐÈ TÀI
1.1.

Tổng quan Yấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài

1.1.1.

Tình hình PISA trên thế giới và Việt Nam

1.1.1.1.

PISA thế giới
Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA (Programe for

International Student Assessment) do tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OECD của các nước phát triển đề xuất xây dựng từ năm 1997 nhằm đánh giá
chất lượng giáo dục phổ thông trong khối OECD.
PISA là một hoạt động có quy mô toàn cầu, tổ chức 3 năm một lần nhằm
đánh giá kiến thức và kĩ năng trong 3 lĩnh vực chủ yếu là: đọc hiểu phổ thông,
làm toán phổ thông, khoa học phổ thông. Học sinh được đánh giá ở tuổi 15
(kết thúc chương trình giáo dục phổ thông bắt buộc). Nội dung kiểm tra học
sinh không chỉ cần phải biết làm thế nào để học được các công thức toán học,
các khái niệm khoa học mà còn phải biết vận dụng những kiến thức và kĩ
năng này trong cuộc sống.

- Lần đầu tiên PISA được triển khai vào năm 2000 với 43 nước tham gia,
trong đó có 14 nước không thuộc khối OECD.

1
0


- Lần thứ 2 được tổ chức vào năm 2003, có 41 nước tham gia, trong đó
có 10 nước không thuộc khối OECD.
- Lần thứ 3 (năm 2006) có 57 nước tham gia trong đó có 27 nước không
thộc khối OECD.
- Lần thứ 4 (năm 2009) có 67 nước tham gia trong đó có 36 nước không
thuộc khối.
- Ở khu vực châu Á, ngoài các nước trong OECD (Nhật Bản, Hàn Quốc),
còn có các nước và vùng lãnh thổ khác tham gia như: Thượng Hải,
Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Singapo, Thái Lan, Indonesia.
1.1.1.2. PISA Việt Nam
- Ngày 27/10/2008 Phó thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân có văn
bản giao Bộ GD-ĐT tiến hành khẩn trương để đăng ký Việt Nam tham
gia Chương trình quốc tế đánh giá học sinh (Programme for
International Student Assessment - PISA)
- Ngày 22/10/2009 Phó thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân có thư
gửi ông Angel Gurria, Tổng Thư ký OECD đề nghị chấp nhận Việt
Nam tham giaPISA 2012.
- Ngày 11/11/2009: OECD có thư chính thức gửi Phó thủ tướng, Bộ
trưởng Nguyễn Thiện Nhân về việc đồng ý đề Việt Nam tham gia
PISA.
- Theo kế hoạch của Bộ GD&ĐT, từ năm 2012 Việt Nam sẽ tham gia
chương trình PISA để đến năm 2020 kịp xây dựng chiến lược giáo dục
phù hợp, đáp ứng những tiêu chuẩn tiên tiến của quốc tế.

- Tham gia PISA là một cơ hội để ngành giáo dục Việt Nam thấy rõ điểm
mạnh, điểm yếu của học sinh và cả quá trình giáo dục, từ đó có những
điều chỉnh để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Đây cũng là cơ

1
1


sở khách quan, khoa học để ngành giáo dục nhận thức "thứ hạng" chất
lượng học sinh Việt Nam trong tương quan chung với các quốc gia.
- Thực hiện khảo sát thử nghiệm 2011 và chính thức năm 2012.
- So với các nước tham gia PISA 2012:


xếp thứ 69/70 về GDP bình quân đầu ngưòi (thu nhập bình quân đầu
người đạt khoảng 1.540 USD/người/năm.



xếp thứ 70/70 về chỉ số HDI (Chỉ số phát triển con người (Human
Deveỉopment Index - HDI), Đây là chỉ số so sánh, định lượng về mức
thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác.

- Khó khăn thách thức khi tổ chức PISA lần đầu tiên chu kỳ 2012 tại Việt
Nam


Việt Nam trong suốt thòi gian thực hiện đổi mói kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của học sinh cũng đã xây dựng được một đội ngũ chuyên
gia có thể đảm đương được các yêu cầu kỹ thuật của OECD khi triển

khai PISA tại Việt Nam. Tuy nhiên, lần đầu tiên Việt Nam tham gia
một kỳ thi mang tính quốc tế lại yêu cầu kỹ thuật cao và nghiêm ngặt
như PISA, Việt Nam vẫn còn thiếu kinh nghiệm tổ chức và dù đã có
một số chuyên gia nhưng lực lượng chuyên gia chuyên nghiệp vẫn còn
mỏng.



Các tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt rất ít, chủ yếu bằng tiếng nước
ngoài, là khó khăn không nhỏ cho việc tìm hiểu và tiếp cận vói PISA
lần này.



Việt Nam chưa xây dựng được dữ liệu đầy đủ về các trường có học sinh
ở độ tuổi 15, trong khi đó, Việt Nam có rất nhiều loại hình trường,
nhiều tổ chức quản lý, do đó rất khó khăn trong công việc chọn mẫu.

1
2




Công tác dịch thuật theo yêu cầu của PISA là một vấn đề thách thức đối
với đội ngũ dịch thuật của Việt Nam.



Cách thức ra đề thi và cách thức đánh giá của PISA yêu cầu học sinh

phải có năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Nhìn chung, các
kiến thức mà đề thi của PISA đòi hỏi là không hoàn toàn xa lạ vói học
sinh Việt Nam. Tuy nhiên, muốn cho học sinh Việt Nam tham gia vào
các đợt đánh giá của PISA một cách tự tin, cần đổi mới về cách dạy,
cách học, cách tổ chức kiểm tra đánh giá trong nhà trường ở Việt Nam.



Kết quả mồi đợt đánh giá của PISA sẽ được công khai trên thế giói nên
mang tính nhạy cảm. Nhiều nước đã không tham gia PISA vì không
muốn bộc lộ sự yếu kém về kết quả làm bài của học sinh và thứ hạng
thấp trong bảng xếp hạng. Việc sẵn sàng vượt qua những e ngại trên đã
là thách thức đối với Việt Nam.

- Các hoạt động chính của PISA 2012:




Năm 2010: Đánh giá các câu hỏi thi PISA 2012 và thực hiện các công

việc liên quan đến chọn mẫu; tập huấn kĩ thuật.
Năm 2011: Khảo sát thử nghiệm trên mẫu 40 trường X 35 HS/trường.


Năm 2012: Khảo sát chính thức trên mẫu là 162 trường thuộc 59 tỉnh,
thành phố.

- Kết quả PISA 2012 của Việt Nam:



Lĩnh vực Toán học: là lĩnh vực trọng tâm của kỳ PISA 2012. Việt Nam
đứng thứ 17/65. Điểm trung bình của OECD (Mean Score) là 494 thì
Việt Nam đạt 511. Như vậy, năng lực Toán học của HS VN ở top cao
hơn chuẩn năng lực của OECD.



Lĩnh vực Đọc hiểu: Việt Nam đứng thứ 19/65, điểm trung bình của
OECD là 496 thì Việt Nam đạt 508, như vậy, năng lực Đọc hiểu của HS
Việt Nam cao hơn chuẩn năng lực của OECD.

1
3




Lĩnh vực Khoa học: Việt Nam đứng thứ 8/65. Điểm trung bình của
OECD là 501 thì Việt Nam đạt 528. Việt Nam đứng sau các nước/vùng
kinh tế theo thứ tự: Thượng Hải, Hồng kông, Singapore, Nhật bản,
Phần lan, Estonia, Hàn Quốc.
Như vậy, kết quả thi của Việt Nam khá cao so trong bảng xếp hạng các

nước trên thế giới tham gia kỳ thi PISA 2012, đứng trong top 20 nước cỏ
điểm chuẩn các lĩnh vực Toán, Đọc hiểu, Khoa học cao hơn điểm trung bình
của OECD.
1.1.2.
1.1.2.1.


Chương trình đảnh giá PIS A
Khái niệm PIS A
PISA là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “ Programme for

International Student Assessment - Chương trình đánh giá học sinh quốc tế”
do Hiệp hội các nước phát triển (OECD) khởi xướng và chỉ đạo, nhằm tìm
kiếm các chỉ số đánh giá tính hiệu quả, chất lượng của hệ thống giáo dục của
mồi nước tham gia, qua đó rút ra các bài học về chính sách đối vói giáo dục
phổ thông. PISA được thực hiện theo chu kì 3 năm một lần (bắt đầu từ năm
2000). Đối tượng đánh giá là học sinh trong độ tuổi 15, độ tuổi kết thúc giai
đoạn giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia. PISA hướng vào các trọng tâm
về chính sách, được thiết kế và áp dụng các phương pháp khoa học cần thiết
để giúp chính phủ các nước tham gia rút ra các bài học về chính sách đối vói
giáo dục phổ thông.
1.1.2.2.

Đặc điểm PIS A

- Quy mô của PISA là rất lớn và có tính toàn cầu. Qua 5 cuộc khảo sát đánh giá,
ngoài các nước thuộc khối OECD còn có rất nhiều quốc gia là đối tác của
khối OECD đăng ký tham gia. Trong lần đánh giá thứ năm (2012) đã có gần
70 quốc gia tham gia.

1
4


- PISA được thực hiện đều đặn theo chu kì (3 năm một lần) tạo điều kiện cho
các quốc gia có thể theo dõi sự tiến bộ của nền giáo dục đối vói việc phấn đấu
đạt được các mục tiêu giáo dục cơ bản.

- Cho tới nay PISA là cuộc khảo sát giáo dục duy nhất chỉ chuyên đánh giá về
năng lực phổ thông của học sinh ở độ tuổi 15, độ tuổi kết thúc giáo dục bắt
buộc ở hầu hết các quốc gia.
- PISA chú trọng xem xét và đánh giá một số vấn đề sau:


Chính sách công (public policy): các chính phủ, các nhà trường, giáo viên và
phụ huynh đều muốn có câu trả lòi cho tất cả các câu hỏi như “Nhà trường
của chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ cho những người trẻ tuổi trước những thách
thức của cuộc sống của người trưởng thành chưa?”, “Phải chăng một số loại
hình giảng dạy và học tập của những noi này hiệu quả hơn những nơi khác?”
và “Nhà trường có thể góp phần cải thiện tương lai của học sinh có gốc nhập
cư hay có hoàn cảnh khó khăn không?”,. •.


Hiểu biết phổ thông (literacy): thay vì kiểm tra sự thuộc bài theo các
chương trình giáo dục cụ thể, PISA chú trọng việc xem xét đánh giá về
các năng lực của học sinh trong việc ứng dụng các kiến thức và kĩ năng
phổ thông cơ bản vào các tình huống thực tiễn. Ngoài ra còn xem xét
đánh giá khả năng phân tích, lí giải và truyền đạt một cách có hiệu quả
các kiến thức và kĩ năng đó thông qua cách học sinh xem xét, diễn giải
và giải quyết các vấn đề.



Học tập suốt đời (lifelong learning): học sinh không thể học tất cả mọi
thứ cần biết trong nhà trường. Để trở thành những người có thể học tập
suốt đời có hiệu quả, ngoài việc thanh niên phải có những kiến thức và
kĩ năng phổ thông cơ bản họ còn phải có cả ý thức về động cơ học tập
và cách học. Do vậy PISA sẽ tiến hành đo cả năng lực thực hiện của


1
5


học sinh về các lĩnh vực Đọc hiểu, Làm toán và Khoa học, đồng thời
còn tìm hiểu cả về động cơ, niềm tin vào bản thân cũng như các chiến
lược học tập hỏi học sinh.
1.1.2.3. Mục đích
Mục tiêu tổng quát của PISA nhằm kiểm tra xem, khi đến độ tuổi kết
thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc, học sinh đã được chuẩn bị để đáp ứng các
thách thức của cuộc sống sau này ở mức độ nào. Ngoài ra PISA còn hướng
vào các mục đích cụ thể sau:
- Xem xét đánh giá các mức độ năng lực đạt được ở các lĩnh vực Đọc
hiểu, Làm Toán và Khoa học của học sinh ở lứa tuổi 15.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các chính sách đến kết quả học tập của học
sinh.
- Nghiên cứu hệ thống các điều kiện giảng dạy - học tập có ảnh hưởng
đến kết quả học tập của học sinh.
1.1.2.4.

Tầm quan trọng
Việc tổ chức kỳ khảo sát PISA là một hoạt động quan trọng vì chúng ta

có thể sử dụng kết quả của kỳ đánh giá này để:
- Thể hiện cách thức học sinh được chuẩn bị học tập tốt như thế nào tại
Việt Nam và các quốc gia tham gia PISA khi tốt nghiệp chương trình
giáo dục cơ sở/ chương trình giáo dục bắt buộc.
- Các trường, các hệ thống giáo dục và chính phủ có thể xác định những
lĩnh vực cần được cải thiện.

- Cho phép so sánh việc học tập và môi trường học tập cho học sinh giữa
các nước.
1.2.
1.2.1.

Ctf sở lý luận của đề tài
Câu hỏi và câu hỏi theo quan điểm PISA

1
6


1.2.1.1.

Bản chất câu hỏi
Câu hỏi có một tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nhận thức thế

giới của loài người và trong dạy học. Aristotle là người đầu tiên đã biết phân
tích câu hỏi dưới góc độ logic và lúc đó ông cho rằng đặc trưng cơ bản nhất
của câu hỏi là buộc ngưòi bị hỏi phải lựa chọn các giải pháp có tính trái ngược
nhau, do đó con người phải có phản ứng lựa chọn hoặc cách hiểu này, hoặc
cách hiểu khác. Tư tưởng quan trọng bậc nhất của ông còn nguyên giá trị đó
là: “ Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cả cái đã biết và cái chưa
biết”.
Câu hỏi = Cái đã biết + Cái chưa biết.
Như vậy, tròn đòi sống cũng như trong nghiên cứu khoa học, con người
chỉ nêu ra những thắc mắc, tranh luận khi đã biết nhưng chưa đầy đủ, cần biết
thêm. Còn nếu khi không biết gì hoặc biết tất cả về sự vật nào đó thì không có
gì để hỏi về sự vật đó nữa. Do đó, tương quan giữa cái đã biết và chưa biết
thúc đẩy mở rộng hiểu biết của con người. Con người nếu muốn biết về một

sự vật hiện tượng nào đó chỉ khi người đó đặt được những câu hỏi: đó là cái
gì?, như thế nào?, vì sao?...
Đề Các cho rằng, không có câu hỏi thì không có tư duy cá nhân cũng
như không có tư duy nhân loại. Ông cũng nhấn mạnh dấu hiệu bản chất của
câu hỏi là phải có mối quan hệ giữa cái đã biết và chưa biết. Phải có tỉ lệ phù
hợp giữa hai đại lượng đó thì chủ thể mới xác định được phương hướng để trả
lòi câu hỏi đó. Khi chủ thể nhận thức đã xác định rõ cái đã biết và chưa biết
thì lúc đó mới đặt được câu hỏi và lúc đó câu hỏi mói thực sự trở thành sản
phẩm của quá trình nhận thức.
1.2.1.2. Vai trò của câu hỏi
Trong dạy học câu hỏi có vai trò:

1
7


- Khi dùng câu hỏi để mã hóa thông tin trong SGK thì câu hỏi và việc trả
lời câu hỏi là nguồn tri thức mói cho học sinh.
- Câu hỏi có tác dụng định hướng nhận thức tri thức mói, phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh.
- Hệ thống câu hỏi có vấn đề được đặt ra trong bài học chứa đựng các
mâu thuẫn sẽ đặt học sinh vào tình huống có vấn đề, học sinh đóng vai
trò là chủ thể của quá trình nhận thức, chủ động giành lấy kiến thức
thông qua việc trả lời các câu hỏi, từ đó khắc phục lối truyền thụ một
chiều.
- Câu hỏi giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức một cách có hệ thống.
- Giúp cá thể hóa cách học một cách tối ưu, tạo điều kiện cho HS tự học
và rèn luyện phương pháp học.
- HS được dạy cách lắng nghe và học hỏi người khác, biết cách làm việc
tập thể để phát huy sức mạnh tập thể kết hợp làm việc độc lập.

- Dạy học bằng câu hỏi còn rèn luyện cho HS kĩ năng diễn đạt bằng lời
nói thông qua phát biểu tại lớp sẽ phát triển được kĩ năng diễn đạt, lập
luận, logic. Thông tin được tích lũy sẽ dần tạo điều kiện phát sinh ý
tưởng.
- Dạy học bằng câu hỏi giúp GV đánh giá HS về mặt kiến thức, thái độ,
vì câu hỏi là biện pháp phát hiện, tự phát hiện thông tin ngược về kết
quả nhận thức.
- Dạy học bằng câu hỏi giúp khắc phục được tình trạng ghi nhớ máy
móc.
Như vậy, dạy học bằng câu hỏi vừa giúp HS lĩnh hội được tri thức một
cách có chủ động, vừa rèn luyện cho các em thao tác tư duy độc lập, tích cực,
sáng tạo, vừa rèn luyện được phương pháp học tập.

1
8


1.2.1.3. Phân loại câu hỏi
> Dựa vào năng lực nhận thức của HS chia 3 cách:
Cách 1: gồm câu hỏi trình độ thấp và câu hỏi trình độ cao.
Cách 2: gồm 5 loại:
+ Loại CH kích thích sự quan sát chú ý.
+ Loại CH yêu cầu so sánh, phân tích.
+ Loại CH yêu cầu tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa.
+ Loại CH liên hệ với thực tế.
+ Loại CH kích thích tư duy sáng tạo, hướng dẫn HS nêu vấn đề, đề xuất
giả thuyết.
Cách 3: Theo Benjamin Bloom cải tiến (2001) đã đề xuất thang 6
mức câu hỏi.
> Dim vào muc đích lí luân day hoc, chm thành 3 loai:



••••/•

- Loại câu hỏi dùng để dạy bài mói.
- Loại câu hỏi dùng để củng cố, hoàn thiện kiến thức.
Loại câu hỏi dùng để kiểm tra đánh giá.
> Dựa vào thang phân loại của PISA, gằm 3 mức:
- Nhận biếư Thu thập thông tin.
Kết nối và tích hợp/ Phân tích, lí giải.
Phản hồi và đánh giá.
Theo đó có các loại CH được sử dụng trong đánh giá PISA là:
+ CH mở đòi hỏi trả lời ngắn.
+ CH mở đòi hỏi trả lòi dài.
+ CH đóng dựa trên những trả lòi có sẵn.
+ CH trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn.
+ CH Có- Không, Đúng- Sai phức hợp.

1
9


> Dựa theo thang đo cấp độ tư duy (Thinking levek), có 4 loại câu hỏi tương
ứng với 4 mức:
Câu hỏi mức nhận biết.
Câu hỏi mức thông hiểu.
Câu hỏi mức vận dụng thấp.
Câu hỏi mức vận dụng cao.
> Khi kiểm tra kết quả thực hiện mục tiêu bài học, thường sử dụng các loai
câu hỏi sau:

CH để kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức đã học.
CH kiểm tra sự nắm vững bản chất của kiến thức.
CH kiểm tra khả năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết
nhiệm vụ nhận thức mới.
CH kiểm tra sự nắm vững giá trị của kiến thức.
CH kiểm tra thái độ, hành vi của ngưòi học sau khi kết thúc một chủ
đề nào đó.
> Dựa vào nội dung mà câu hỏi phản ánh, chia thành:
Câu hỏi nêu các sự kiện.
Câu hỏi xác định các dấu hiệu bản chất.
Câu hỏi xác định mối quan hệ.
Câu hỏi xác định cơ chế.
Câu hỏi xác định phương pháp khoa học.
Câu hỏi xác định ý nghĩa lí luận hay thực tiễn của kiến thức.
1.2.1.4.

Xây dựng câu hỏi

❖ Nguyên tắc khi xây dựng câu hỏi:
Bám sát mục tiêu dạy học.
Đảm bảo nội dung khoa học, cơ bản, chính xác của kiến thức.

2
0


Phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh.
Phù hợp với trình độ, đối tượng học sinh.
Phản ánh được tính hệ thống và khái quát.
❖ Qui ừình xây dựng câu hỏi:

Bước 1 : Xác định mục tiêu bài học.
Bước 2: Phân tích nội dung, xác định kiến thức trọng tâm, xác định
logic nội dung bài học.
Bước 3: Tìm điều cần hỏi (khả năng mã hóa nội dung) từ kênh hình
và kênh chữ của bài học.
Bước 4: Diễn đạt điều cần hỏi bằng câu hỏi, xác định nội dung trả lời
cho câu hỏi.
Bước 5: Chỉnh sửa lại nội dung và hình thức diễn đạt của câu hỏi để
đưa vào sử dụng.
1.2.1.5.

Yêu cầu sư phạm của câu hỏi
Đặt câu hỏi thành công là việc tạo ra các câu hỏi có hiệu quả dạy học.

Một câu hỏi có hiệu quả dạy học thể hiện ở chất lượng của câu hỏi, chất lượng
câu trả lòi và khả năng lôi cuốn HS tham gia bài học.
❖ Chất lượng của câu hỏi, thể hiện:
Bản thân câu hỏi phải tạo ra được phạm vi trả lời rộng.
Huy động được nhiều thao tác trí tuệ cần thiết để trả lòi câu hỏi.
Độ sâu của câu hỏi.
❖ Chất lượng của câu trả lời cho câu hỏi:
Tính cụ thể.
Tính hoàn chỉnh.
Có giải thích kèm theo minh chứng.

2
1


❖ Khả năng lôi cuốn HS tham gia bài học: câu hỏi phải gợi được sự tò mò, kích

thích sự tìm tòi ở HS.
Các tiêu chí chất lượng câu hỏi:
Câu hỏi xây dựng phải bám sát mục tiêu dạy học.
Hướng vào nội dung cơ bản trọng tâm của bài học.
Phát triển được các mức độ tư duy khác nhau ở HS.
Vừa sức, phù hợp với trình độ và năng lực khác nhau của HS.
Diễn đạt rõ ràng chính xác, chỉ rõ được điều cần hỏi.
1.2.1.6.

Câu hỏi theo quan điểm PISA
Câu hỏi theo quan điểm PISA là câu hỏi đưa ra vói mục đích tập trung

yêu cầu HS biết và giải thích các hiện tượng khoa học. Do đó, khi HS trả lời
sẽ tăng khả năng về khoa học tức là HS sử dụng kiến thức và kĩ năng khoa
học trong nhiều lĩnh vực tình huống khác nhau có thực trong đòi sống, rèn
luyện khả năng sống cho tương lai.
Các kiểu câu hỏi theo quan điểm PISA thường sử dụng:
- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chon kiểu đơn giản.
- Câu hỏi Đúng/ Sai (Có/ không) phức hợp.
- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lòi ngắn.
- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài.
- Câu hỏi yêu cầu HS đọc và trích rút thông tin từ biểu đồ ( hình cột,
tròn) đồ thị để trả lòi câu hỏi.
- Câu hỏi yêu cầu học sinh lập luận và suy luận 1 cách logic dựa trên tình
huống thực tế.
1.2.2.

Các năng lực của học sinh trong PIS A

1.2.2.1.


Khái niệm năng lực

2
2


“Năng lực” là một khái niệm được đề cập tói trong nhiều tài liệu nghiên
cứu thuộc lĩnh vực Tâm lý học hay Giáo dục học. Từ góc nhìn của nhiều nhà
tâm lí thì trong bất cứ hoạt động nào của con người, để thực hiện có hiệu quả,
con người cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần thiết và tổ hợp những
phẩm chất này được gọi là năng lực. Theo quan điểm của Tâm lý học Mac xit,
năng lực của con người luôn gắn liền vói hoạt động của chính họ. Trong
những tài liệu về giáo dục trong và ngoài nước, thuật ngữ “năng lực” được
tiếp cận theo những cách khác nhau: Cách tiếp cận tích hợp của F.E. Weinert
(2001), cách tiếp cận học suốt đời của Denyse Tremblay (2002), cách tiếp cận
hành vi của Bùi Hiền và các tác giả cuốn từ điển giáo dục học ....
Như vậy, năng lực được cấu thành từ những bộ phận cơ bản:
+ Tri thức về lĩnh vực hoạt
động + Kĩ năng tiến hành hoạt
động
+ Những điều kiện tâm lí để tổ chức và thực hiện những tri thức, kĩ năng
đó theo một định hướng rõ ràng và một bối cảnh cụ thể.
PISA/ OECD định nghĩa “năng lực chính là những giá trị cụ thể, ở
nhiều lĩnh vực, hữu ích và cần thiết cho tất cả mọi người, liên quan đến khả
năng đáp ứng các nhu cầu phức tạp bằng cách tạo lập và huy động cả những
nguồn lực tâm lý xã hội (bao gồm cả kỹ năng và thải độ) trong một bối cảnh
cụ thể” [OECD, Definition and selection competences, Revised December,
2009].
Vì năng lực được cấu tạo từ các năng lực thành phần (như tri thức, kĩ

năng tiến hành hoạt động và điều kiện tâm lí để thực hiện những tri thức, kĩ
năng đó trong bối cảnh cụ thể) nên việc phát triển năng lực cần dựa trên cơ sở
phát triển tổng hợp các yếu tố đó. Sự phát triển năng lực về thực chất là làm

2
3


thay đổi cấu trúc nhận thức và hành động của mỗi cá nhân chứ không chỉ đơn
thuần là sự bổ sung các mảng kiến thức riêng rẽ. Việc phát triển các năng lực
thành phần phải thông qua thực hành các tình huống trong một thòi gian nhất
định. Nếu sử dụng tích cực và thường xuyên một loại năng lực nào đó, năng
lực này sẽ trở lên mạnh hơn, độ thành thạo cao hơn và ngược lại. Mỗi người
có thể có sự thành thạo khác nhau về năng lực nhất định khi xử lí một tình
huống cụ thể. Năng lực được hình thành và phát triển ở trong và ngoài nhà
trường.
1.2.2.2. Phân loại năng lực
Nhìn vào chương trình thiết kế theo hướng tiếp cận năng lực của các
nước thì năng lực được chia làm 2 loại chính: Năng lực chung và năng lực cụ
thể, chuyên biệt.
Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi... làm
nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề
nghiệp.
Một số năng lực chung như:
-

Năng

lực


tự
- Năng lực

-

hợp tác.

Năng

lực giải quyết vấn đề.
-

- Năng lực sử dụng CNTT và TT.

Năng

lực

sáng
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ.

-

học.

Năng

lực tự quản lý.

- Năng lực tính toán.


2
4

tạo.


-

Năng

lực giao tiếp.
Năng lực cụ thể, chuyên biệt là những năng lực được hình thành và phát
triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt
trong các loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù,
cần thiết cho những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của
một hoạt động như Toán học, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể thao, Địa lí,...
Năng lực học tập Sinh học thuộc năng lực cụ thể, chuyên biệt.
1.2.2.3. Các năng lực được đánh giá theo quan điểm PISA
Khái niệm literacy (tạm dịch là năng lực phổ thông) là một khái niệm
quan trọng trong việc xác định nội dung đánh giá của PISA.Việc xác định
khái niệm này xuất phát từ quan tâm tói những điều mà một học sinh sau giai
đoạn giáo dục cơ sở cần biết, trân trọng và có khả năng thực hiện - những điều
cần thiết chuẩn bị cho cuộc sống trong một xã hội hiện đại. Các lĩnh vực năng
lực phổ thông về làm toán, về khoa học, về đọc hiểu được sử dụng trong
PISA.
- Năng lực toán học:
Là khả năng nhận biết vai trò của Toán học trong đời sống, đưa ra những
nhận định có cơ sở vững chắc và sử dụng Toán học để phục vụ đòi sống vói tư
cách là một công dân gương mẫu, tiên tiến, mong muốn xây dựng và đóng

góp có ích cho xã hội. Năng lực Toán học thể hiện ở khả năng phân tích, suy
luận và trao đổi đáp án của học sinh khi các em đưa ra một bài toán và giải
quyết nó theo cách tối ưu nhất.
- Năng lực đọc hiểu:
Là khả năng hiểu, sử dụng và cảm nhận những văn bản viết nhằm đạt
được những mục tiêu trong cuộc sống, mở mang kiến thức và tiềm năng để

2
5


×