Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Một số nét khái quát về điều kiện tự nhiên và nhà ở hàn quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.55 KB, 14 trang )

1. Lý do chọn đề tài:
Đối với bất kỳ dân tộc nào trên thế giới, ba yếu tố ăn – mặc - ở là những yếu tố
quan trọng nhất trong cuộc sống. Hàn Quốc là một đất nước tự hào có truyền
thống lâu đời thể hiện rõ nét trong cả ba yếu tố kể trên. Trong đó, yếu tố ở có ít
thay đổi nhất so với hai yếu tố còn lại. Đặc biệt là ngôi nhà– nơi trú ẩn để đối phó
với thiên nhiên khắc nghiệt. Vì vậy kiến trúc nhà ở của người Hàn có những nét
phong cách độc đáo riêng phù hợp với khí hậu, địa hình mà không đất nước nào
có. Đây cũng là một nét văn hóa nổi bật trong sinh hoạt của người Hàn Quốc.

2. Nội dung
2.1Một số nét khái quát về điều kiện tự nhiên và nhà ở Hàn Quốc
Vị trí địa lý:là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Bắc Á. Vị trí bán đảo nối liền
đại lục và nhìn ra đại dương. Hàn Quốc nằm ở nửa phần phía Nam của bán đảo
Triều Tiên. Phía bắc giáp bắc Triều Tiên, phía đông giáp biển Nhật Bản, phía
nam giáp eo biển bắc Triều Tiên, phía tây giáp Hoàng Hải. Biên giới tự nhiên
giữa Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên là hai con sông Áp Lục và Tuman.
Như vậy, bán đảo Triều Tiên là cầu nối giữa Đại lục và Nhật và là con đường
giao lưu văn hóa toàn diện.
Khí hậu: Hàn Quốc là một nước có khí hậu lạnh, mùa đông ở đây rất khắc
nghiệt có nhiều tuyết, mùa hè thì rất nóng.
Hàn Quốc có địa hình mang nét đặc trưng bởi hệ thống đồi núi đa dạng chiếm
khoảng 70% diện tích lãnh thổ. Những ngọn đồi thấp chủ yếu nằm ở phía Nam
và phía Tây và dần cao lên ở phía Đông và phía Bắc.
Do vậy, mà nhà ở của người Hàn quốc có những nét đặc trưng thích hợp với
điều kiện tự nhiên nơi đây. Thời tiền sử, các cư dân đầu tiên của bán đảo Triều
Tiên sống trong các hang động, lều làm bằng đá. Những ngôi nhà này đã có các
chức năng cơ bản như bếp lửa, không gian để làm việc và ngủ. Các nhà nghiên
cứu cho rằng có ba loại nhà tồn tại ở thời tiền sử Triều Tiên là nhà hầm, nhà gỗ
1



và nhà sàn; nhưng cho đến nay, mới chỉ có những dấu tích của loại nhà hầm
là được tìm thấy. Nhà hầm thường bao gồm một cái hầm sâu 20-150cm, có
vỏ và đất sét bao bọc xung quanh để trách gió mưa, hầu hết đều nằm ở trên
đồi. Nhà gỗ được cấu tạo bằng cách ghép những tấm gỗ lại với nhau. Giữa
các khe hở, người ta trét đất sét để ngăn gió. Những căn nhà như vậy còn
tìm thấy được ở vùng núi ngày nay. Nhà sàn có nguồn gốc từ miền Nam,
ban đầu được xây dựng để làm kho giữ lúa gạo. Kiểu kiến trúc này vẫn còn
tồn tại ở những ngôi nhà có hai gác và chòi canh đứng ở giữa các ruộng dưa
và vườn cây ăn trái. Đến thời kỳ Tam quốc đã xuất hiện Ondol , hệ thống sưởi
dưới sàn nhà rất độc đáo của người Hàn. Thời kỳ này một số người vẫn sống
trong nhà hầm, số khác thì sống ở nhà sàn. Qua các thời kỳ sau đó, các loại nhà
này đã phát triển lên thành Hanok, với sàn nhà hình vuông được chia thành
nhà bếp và một phòng khác gợi nhớ lại hình ảnh nhà hầm thời tiền sử.
Với tinh thần coi trọng triết lý âm dương, ngôi nhà của người Hàn được thiết
kế và xây dựng phù hợp với tính cách giản dị, tự nhiên và hòa hợp với thiên
nhiên. Không chỉ thể hiện truyền thống qua cách xây dựng nhà cửa, văn hóa
của người Hàn còn được thể hiện qua lối sống, nếp sinh hoạt trong gia đình. Và
tất cả những nét văn hóa truyền thống đó vẫn còn được truyền lại đến ngày nay.
Sau khi Hàn Quốc hoàn toàn mở cửa với thế giới bên ngoài, phong cách kiến
trúc Hàn Quốc bị ảnh hưởng bởi phong cách kiến trúc phương Tây, đã thay đổi
một cách nhanh chóng và đa dạng cả về phong cách.Tuy nhiên trong các ngôi
nhà kiểu phương Tây vẫn còn một số đặc điểm của ngôi nhà Hàn Quốc xưa. Cả
các phong tục gia đình cũng được kế thừa từ thế hệ này đến thế hệ khác, thể
hiện sự hòa hợp giữa truyền thống và hiện đại trong nhà ở của người Hàn
Quốc.

Làng hanok nổi tiếng ở Hàn quốc
2



2.2. Đặc trưng văn hóa nhà truyền thống Hàn Quốc
2.2.1 Nhà ở truyền thống
2.2.1.1 Phân loại
Theo vùng miền: Nhà truyền thống của Hàn Quốc được gọi là Hanok.
Hanok được thiết kế độc đáo, tùy theo ý thích của chủ nhân và phù hợp với khí
hậu của từng vùng. Hình dáng nhà có sự khác biệt giữa các vùng miền, như nhà ở
vùng phía Bắc có khí hậu lạnh thì các phòng được xây thành cụm khít với nhau
nhằm tránh gió lùa. Nhà có hình chữ U, hình vuông hoặc hình chữ điền. Nhà ở
miền Nam nóng bức thì được làm theo kiểu hình chữ nhất hoặc chữ L để thông
gió. Nhà ở miền Trung thì có hình dáng giống như ký tự #.

Theo địa vị: Vào thời kỳ tiền hiện đại, ở Hàn Quốc có 2 trường phái kiến trúc
chính, phụ thuộc vào quy mô xây dựng của từng tầng lớp xã hội khác nhau. Trong
đó, phong cách Trung Hoa được thể hiện rõ nét khi xây dựng cung điện, đền đài,
quan phủ. Tầng lớp thượng lưu thường xây nhà lớn, có cấu trúc chắc chắn và được
trang trí nhiều nhưng không được dùng những màu dùng để trang trí cho cung
điện của nhà vua. Những nhà này có mái lợp ngói có những nét cong uyển chuyển
và nổi bật với những mái chìa hơi cao hơn một chút., và ngói nhà cũng được trang
trí. Những ngôi nhà lợp mái ngói như thế này được gọi là Kiwajip. Những nét đặc
sắc thì lại nằm ở những ngôi nhà bình thường của người dân làm bằng gỗ với mái
nhà được làm bằng đất sét hoặc rơm rạ, ít trang trí. Những ngôi nhà có mái làm
bằng rơm rạ thì được gọi là Chogajip . Tuy nhiên dù là nhà của ai thì cũng không
có ngôi nhà bình thường nào rộng hơn 99 kan (một đơn vị tính chu vi giữa bốn cột
chính được sử dụng để tính toán kích thước theo những kiến trúc truyền thống).
3


Cấu trúc và kích cỡ nhà thay đổi tùy theo quy mô, quan hệ xã hội và sự giàu có
của gia đình đó.


2.2.1.2 Đặc điểm
*Vị trí, phương hướng: Theo truyền thống, nơi cư trú của người dân Hàn Quốc
thường được chọn dựa trên phong thuỷ. Họ tin rằng bất kỳ hình thể xác định nào
cũng đều sản sinh ra lực lượng vô hình của cái tốt và cái xấu. Các nguồn năng
lượng tiêu cực và tích cực (Âm - Dương) phải được đưa vào cân đối. Khi lựa
chọn một địa điểm để xây dựng nhà cửa, người ta có khuynh hướng xem xét
ý nghĩa đặc biệt của môi trường tự nhiên xung quanh. Tiêu chí lựa chọn một địa
điểm tốt để xây dựng là nơi đó có quang cảnh phù hợp giữa "núi và nước". Mối
liên hệ này không chỉ dựa trên những quan điểm thẩm mỹ. Thuật phong thuỷ đã
dạy rằng con người sẽ không thể phát triển đúng đắn cả về trí tuệ và tình cảm cũng
như sẽ không có một cuộc sống tốt đẹp nếu không có sự hỗ trợ của thiên nhiên.
Những nguyên tắc này được áp dụng khi chọn chỗ cư ngụ cho cả người sống và
người chết. Một công trình kiến trúc cần có vị trí cố định quay mặt về hướng nam
(để đón ánh sáng mặt trời nhiều nhất có thể) và có một ngọn núi ở sau lưng. Theo
học thuyết Âm -Dương, lý tưởng nhất là ngọn núi đó phải có "những đôi cánh" ở
cả hai bên để nó có thể bao bọc cho công trình kiến trúc đó với một dòng suối chảy
qua ở phiá trước. Người ta luôn cố gắng để tránh việc các công trình xây dựng
nhân tạo làm đổ vỡ cảnh quan địa hình thiên nhiên, vì như vậy cũng là phá vỡ sự
hoà hợp với thiên nhiên. Ngoài những nguyên tắc trên thì vị trí của ngôi nhà còn
phụ thuộc vào đất đai, khí hậu, ảnh hưởng của gió và ánh nắng mặt trời v.v.
*Cấu trúc: Văn hóa Hàn Quốc mang tính triết lý phương Đông sâu sắc. Cuộc sống
gia đình được tôn trọng và bảo vệ. Con người sống gần gũi và có quan hệ mật thiết
với thiên nhiên. Vì vậy mà nhà truyền thống của Hàn Quốc từ vật liệu xây dựng
cho đến cấu trúc đều rất gần gũi với thiên nhiên và mang đậm triết lý Âm - Dương.
Yếu tố cân bằng Âm - Dương và ngũ hành phải đạt đến mức độ chuẩn mực. Trong
ngôi nhà truyền thống, người Hàn Quốc sử dụng hơn 80% nguyên vật liệu từ tự
nhiên như đất sét, đất nung và gỗ .Ngoài ra, người ta còn sử dụng đá, rơm rạ và
giấy để xây dựng và trang hoàng cho ngôi nhà. Những nguyên vật liệu này đều có
thể tái chế và không gây ô nhiễm. Điều này cho thấy từ xa xưa, người Hàn Quốc
rất chú trọng đến vấn đề môi trường và đặc biệt dành sự tôn trọng lớn lao đối với

thiên nhiên. Một ngôi nhà truyền thống tiêu biểu gồm có: nền móng, cột, xà ngang,
tường, cửa, mái hiên, mái nhà .v vv.
4


*Các nguyên vật liệu chủ yếu cấu tạo nên sự thân thiện với môi trường cho
ngôi nhà gồm:
Đá: dùng để làm nền móng cho ngôi nhà, thường thì người ta xây nền móng
cao hơn so với mặt đất. Đất sét có tác dụng bọc ngoài để giữ nhiệt, tránh hơi
nóng mùa hè và khí lạnh của mùa đông, vì vậy mà người ta dùng đất sét để xây
tường.
Gỗ: dùng để làm cột, xà ngang, cửa, sàn nhà, mái hiên v vv Mái hiên với những
đường cong uyển chuyển hơi uốn cao lên. Độ dài của mái hiên có thể điều
chỉnh để kiểm soát lượng ánh sáng mặt trời đi vào nhà.
Giấy (Hanji - một loại giấy được làm theo công thức đặc biệt của Hàn Quốc,
tạo thành sợi từ nguyên liệu thô như vỏ cây dâu tằm): dùng để làm cửa, sàn
nhà .
Rơm: dung để làm mái nhà, tường.
Những ngôi nhà truyền thống thường được xây dựng mà không cần sử dụng một
chiếc đinh vít nào vì được ghép lại với nhau bằng các chốt gỗ. Các thức như sau:
Đầu tiên, người ta tạo khung và dựng cột bằng gỗ rồi làm gạch từ hỗn hợp đất và
cỏ để trát vào khung. Sàn nhà được làm bằng đất cứng hoặc đá ở dưới, rồi trải một
lớp giấy Hanji đã đánh bóng với dầu đậu. Giấy Hanji còn được sử dụng để dán lên
tường, mắc vào trong khung của cửa trượt và các xương sườn ngang của cửa sổ.
Ưu điểm của loại giấy này là không thấm nước, ánh sáng có thể lọt qua nên khiến
cho ngôi nhà đẹp và thoáng khí hơn. Còn về các phòng thì hơi thấp, tương đối nhỏ,
không có nhiều cửa sổ hay cửa ra vào > vì được xây để bảo vệ cho chủ nhân của
nó khỏi những yếu tố bên ngoài và tối đa hoá sự ấm áp khi sử dụng hệ thống sưởi
Ondol vào mùa đông.
Riêng đất sét và rơm thì người ta chủ yếu dùng làm mái nhà. Ở những ngôi nhà của

tầng lớp địa chủ, người ta thường làm mái ngói. Ngói được làm từ đất sét nên phần
mái nhà không bằng phẳng mà có độ dốc nhất định. Kích thước và hình dạng của
ngói ảnh hưởng đến góc của mái nhà và các góc được xác định bởi điều kiện thời
tiết của từng vùng nhất định. Hình dạng và kích thước khác nhau được sử dụng cho
mỗi chỗ khác nhau của mái nhà. Nếu góc độ được tính chính xác thì mái ngói sẽ dễ
dàng cho việc thoát nước mưa. Những đường cong của mái ngói cho thấy sự độc
đáo trong kiến trúc Hàn Quốc. Còn ở những ngôi nhà của tầng lớp thường dân thì
đa phần người ta lợp mái tranh - loại mái nhà được làm bằng các bó rơm bện chặt
lại với nhau. Những bó rơm này tuy mộc mạc, giản dị, nhưng lại có công dụng
điều hoà khí hậu. Ví dụ như vào mùa hè nắng nóng thì rơm có tác dụng cản
sức nóng gay gắt của mặt trời nhờ không hấp thụ nhiệt, vì vậy mà giữ được sự mát
mẻ cho ngôi nhà; còn vào mùa đông thì rơm có tác dụng cản khí lạnh bên ngoài
5


nên mang lại sự ấm áp cho ngôi nhà. Ngoài ra, đây là một loại chất liệu không
thấm nước, dễ dàng tìm mua nên được sử dụng rộng rãi nhất.
Một ngôi nhà truyền thống của Hàn Quốc được chia thành nhiều phòng, nhiều khu
vực khác nhau tuỳ theo mục đích và đối tượng sử dụng, ví dụ như: sân, nhà bếp,
phòng, chuồng ngựa, nhà vệ sinh, vv. Không có sự phân biệt giữa phòng ngủ và
phòng ăn. Mặc dù trong nhà có nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau như ông bà,
bố mẹ, con cháu nhưng không gian giữa các phòng, các khu vực vẫn giữ được sự
riêng tư nhất định. Bên cạnh đó, nó không làm mất đi tính kết nối để các thành viên
trong gia đình có thể dễ dàng giao lưu với nhau. Vì vậy, có thể nói rằng ngôi nhà
này có cấu trúc mang tính chất mở. Cấu trúc mở ở đây là không gian nối nhau giữa
các phòng, các phòng thông ra hiên, ra sân và sân được trải rộng thông thoáng giữa
bầu trời, tường được xây khá thấp, và ở nông thôn có những nhà thậm chí không
xây kín cửa.
Nhà riêng của tầng lớp thượng lưu thời đại Joseon thường được chia thành các khu
vực cánh trong (anchae ) và cánh ngoài (sarangchae ). Cửa chính liên kết trực tiếp

với Sarangchae, còn Anchae được xây phiá bên trong đằng sau dãy tường gắn liền
với cửa trong, nhằm để nó không được nhìn thấy từ bên ngoài. Cánh trong (anchae)
là khu vực phòng của nữ giới đặt ở phiá sau nhà và cũng là nơi tụ họp cả gia
đình. Do vậy không có gì ngạc nhiên nếu ta thấy căn phòng này được trang bị một
tủ quần áo, chăn màn và các đồ dùng cá nhân khác. Cánh ngoài (sarangchae) là
khu vực phiá ngoài dành cho nam giới (thường là chủ gia đình), là nơi tiếp khách
của cả nhà. Theo quan niệm của họ thì một người quý phái có học và nổi tiếng
không bao giờ nghĩ việc trang hoàng căn phòng của mình là cần thiết, vì vậy một
vài vật dụng bằng gỗ đơn giản như bàn học, giá sách cũng là đủ cho căn phòng vốn
chủ yếu được sử dụng cho việc đọc sách và đàm đạo học thuật. Không gian mở
liên kết các phòng với nhau trong một khu vực được gọi là đại sảnh (daecheong) ,
khoảng sàn gỗ rộng ở giữa này được gọi là maru . Người ta thường sử dụng cái tên
Daecheongmaru để chỉ không gian này. Daecheong là không gian sinh hoạt của
nhiều thế hệ cùng chung sống trong gia đình. Maru là sàn bằng gỗ được làm
không chạm vào mặt đất để tránh độ ẩm và nhiệt độ trong suốt mùa hè, đặc
biệt, người ta còn cất giữ các loại ngũ cốc ở đây. Sàn gỗ maru được làm thông
ra tận hiên giúp thông gió cho ngôi nhà. Ngoài ra còn có Jangdokchae là một nơi
phơi và lưu trữ các loại thực phẩm lên men đựng trong đồ sành sứ và đất sét.
Jangdokchae nằm trong một khu vực gần nhà bếp sạch sẽ. Vị trí này được chọn vì
có thể nhận được rất nhiều ánh nắng mặt trời và thông gió đủ để bảo quản thực
phẩm. Sadan là một ngôi đền nơi thờ phụng tổ tiên. Nó được đặt trong khu vực
trong cùng của nơi cư trú để tiếp nhận năng lượng của ngọn núi phiá sau nhà.
6


*Hệ thống sưởi Ondol

Bên cạnh đó, một số phòng còn có hệ thống sưởi dưới sàn Ondol - một hệ thống
sưởi độc đáo của người Hàn Quốc và không giống bất cứ nơi nào trên thế giới.
Những ghi chép đầu tiên về hệ thống sưởi này từng được đề cập đến trong cuốn

sách lịch sử ‘Cựu Đường Thư’ của Trung Quốc. Ở phần viết về nước Goguryeo,
một trong những đất nước nằm trên bán đảo Hàn Quốc xưa kia, có đoạn miêu tả:
“Người Goguryeo làm nền nhà bằng đất. Họ tạo nên một hệ thống đường ngầm
dưới nền nhà dẫn đến các phòng. Khi đốt lửa ở miệng đường ngầm thì các căn
phòng sẽ được sưởi ấm.” Qua đây, chúng ta có thể biết được người Hàn đã bắt đầu
sử dụng hệ thống sưởi sàn Ondol từ giữa thế kỉ thứ 7. Nhiệt độ tỏa lên từ hệ thống
sưởi giúp xua tan khí lạnh và giữ nhiệt cho cơ thể con người trong mùa đông giá
buốt. Mặt khác, sau khi làn khói tan biến đi, không khí bị đốt nóng sẽ vẫn còn lưu
lại trong ống khói, không khí này lại một lần nữa tiếp thêm nhiệt lượng cho ngôi
nhà. Chính vì cấu trúc nhà như vậy nên người Hàn dần hình thành văn hóa sinh
hoạt trên sàn nhà.

7


Đầu tiên, hệ thống ondol được sử dụng ở miền Bắc, vùng phương Nam ấm áp hơn
nên ondol thường được dùng với sàn nhà bằng gỗ. Để tăng hiệu suất của hệ thống
sưởi, người Hàn đã rất trí tuệ khi biết cách làm giảm độ ẩm của đất bằng cách xây
sàn nhà cách mặt đất 3-5 bậc thang. Điều này giúp cho sàn nhà tránh bị ẩm thấp và
giữ được hơi ấm được lâu hơn. Nhờ đó họ có thể tránh được cái rét cắt da cắt thịt
của mùa đông. So với Phương Tây, người ta thường tránh tận dụng sàn nhà vì sự
lạnh lẽo của nó, nên họ thích ngồi trên ghế và ngủ trên giường còn khi nhắc đến
Hàn Quốc thì người ta thường đề cập đến văn hoá sinh hoạt trên sàn nhà. Nhờ hệ
thống sưởi ondol mà ban đêm người ta có thể trải chăn mền ra để ngủ mà vẫn có
đủ độ ấm và ban ngày thì kê bàn để cho sinh hoạt ăn uống. Do đó người ta cần phải
cởi giày trước khi vào nhà để giữ cho sàn nhà sạch sẽ nhất có thể. Với hệ thống
ondol, tầng gần lò sưởi được làm nóng và là khu vực nóng nhất khi nhóm lửa.
Người dân Hàn Quốc luôn luôn nhận thức được sự cần thiết phải kính trọng người
già và do đó khu vực này thường được dành cho những người lớn tuổi trong gia
đình. Vào mùa hè, ngôi nhà được giữ mát bằng cách sử dụng hệ thống làm mát, sự

chuyển động của không khí. Nhà Hanok có tường và cửa ra vào ít. Khi cánh cửa
được đóng lại, nó sẽ trở thành một bức tường và khi nó được mở, những làn gió ùa
vào để giữ cho không khí lưu thông khắp không gian sống. Đó là lý do tại sao kiến
trúc Hanok có thể giữ mát trong cái nóng của mùa hè. Hệ thống sưởi sàn Ondol và
khoảng sàn Maru là hai điểm đặc biệt của một ngôi nhà truyền thống Hàn Quốc.
Hệ thống sưởi sàn Ondol giúp sưởi ấm ngôi nhà vào mùa đông lạnh giá còn
khoảng sàn Maru lại giúp làm mát cho ngôi nhà vào mùa hè nóng bức. Trong cùng
một ngôi nhà nhưng lại sở hữu hai hình thái kiến trúc vô cùng hữu ích và độc đáo,
điều này ta chỉ có thể bắt gặp trong ngôi nhà truyền thống Hàn Quốc.
Ondol cũng được sử dụng cho mục đích y tế. Ngôn ngữ Hàn Quốc có cụm từ "làm
nóng cơ thể", trong đó đề cập đến một ảnh hưởng được tạo ra khi người bệnh nằm
8


trên sàn nhà ấm trong mùa đông lạnh. Sự tác động như vậy rất có hiệu quả cho
những người mệt mỏi hoặc bị bệnh, phụ nữ có thai và người già. Cho đến ngày
nay, người Hàn Quốc thích nằm ngủ trên sàn ondol vì họ để có thể tránh cảm lạnh
hoặc một số bệnh khác.
*Nghệ thuật trang trí

Thông thường người Hàn Quốc thích trang trí đơn giản hơn là sự tô vẽ khoa
trương, sặc sỡ. Kiến trúc Hàn Quốc truyền thống hầu như không đề cao sự phô
trương về quy mô cũng như cách thức trang trí. Các căn phòng thường khá nhỏ và
được trang trí giản dị. Người ta ưa chuộng những họa tiết tự nhiên như những
đường vân và màu sắc tự nhiên trên thớ gỗ. Tiêu biểu cho quan điểm thẩm mỹ này
là kiến trúc Sarangchae . Do ảnh hưởng từ tư tưởng Nho giáo nên một người quý
phái và có học không bao giờ nghĩ việc trang hoàng căn phòng của mình là cần
thiết vì thế trong phòng thường chỉ có một vài vật dụng bằng gỗ đơn giản, một bức
tranh phong cảnh nhỏ vẽ bằng mực nước và vài thứ đồ gốm. Những họa tiết được
trang trí nhiều trên bìa sách, giấy dán tường là ánh chớp và hoa phong lan, bên

cạnh đó còn có hoa cúc, cá, chim, mây, rùa, bướm…
• Cá: Vì cá là loại động vật đẻ nhiều trứng nên hình ảnh cá thường chứa đựng
mong ước sinh được nhiều con. Hình ảnh cá cũng thường được sử dụng để trang trí
cửa hoặc là đồ gỗ trong nhà vì cá ngủ mà mắt vẫn mở nên nó sẽ như thần giữ cửa
trong nhà giúp gia chủ đề phòng kẻ trộm. Cuối cùng là vì cá sống trong nước
nên những kiến trúc công cộng thường dùng biểu tượng cá như là một biểu tượng
để phòng chống hỏa hoạn.
• Cá chép: bắt nguồn từ truyền thuyết cá chép hóa rồng mà người ta thường sử
dụng biểu tượng cá chép để thể hiện mong ước vượt qua các khoa cử và đỗ đạt làm
quan.
• Mười biểu tượng trường thọ gồm 10 vật như: sếu, rùa, hươu, nấm bất tử, cây
thông, đá, nước, núi, mây, mặt trời.
9


• Cây mận thường nở hoa vào đầu mùa xuân sau khi chịu đựng một mùa đông dài
giá rét nên chúng tượng trưng cho sự hồi xuân và tái sinh.
• Quả lựu có nhiều hạt tượng trưng cho mong ước sinh được nhiều con.
• Hoa sen là biểu tượng của Phật giáo. Ý nghĩa của nó về mặt tinh thần là con
người có thể vượt qua mọi nỗi đau của cuốc sống để đạt đến cõi niết bàn như bông
hoa sen dù ở trong đầm lầy nhưng vẫn nở những bông hoa tuyệt đẹp và thơm ngát.
Hình ảnh hoa sen thường được tìm thấy ở những công trình Phật giáo.
• Hình tam giác: Vì nó giống với hình ảnh con ve sầu có khả năng lột xác rồi “tái
sinh” nên người Triều Tiên nghĩ hình tam giác là biểu tượng của linh hồn vĩnh
cửu.
• Tứ thần: Chu Tước (hướng nam), Bạch Hổ (hướng bắc), Huyền Vũ (hướng
đông), Thanh Long (hướng Tây)
Mặc dù rất ưa chuộng sự đơn giản và đơn sắc nhưng người Hàn Quốc lại trang trí
mái hiên và sườn chính các cung điện và đền thờ theo nhiều màu sắc khác nhau thể
hiện rõ nhất qua nghệ thuật Dancheong.Dangcheong là hình trang trí màu sắc trên

nóc các tòa nhà và là những hình trang trí thể hiện vẻ đẹp và giá trị nghệ thuật đích
thực. Dangcheong gồm có năm màu: đỏ, xanh, vàng, đen và trắng. Bên cạnh chức
năng trang trí, dangcheong còn được dùng vào những mục đích thực tế.
Dangcheong được dùng để bảo vệ bề mặt tòa nhà và che đi những vết thô ráp trong
chất liệu được sử dụng, đồng thời nhấn mạnh đặc điểm và thể hiện phẩm cấp của
tòa nhà hay đối tượng nào đó. Dancheong có ở hầu hết mọi tòa nhà truyền thống,
bao gồm cả đền chùa bất kể chúng nằm ở Seoul hay các tỉnh khác.
Như vậy ta có thể thấy nghệ thuật trang trí trong nhà ở của người Hàn Quốc tuy
khá đơn giản nhưng rất đặc trưng bởi sự tinh tế và hòa hợp với tự nhiên qua các
hình ảnh thiên nhiên mang tính biểu tượng cao. Ngoài ra các các tư tưởng Phật
giáo, Shaman giáo, Lão giáo và Nho giáo và đặc biệt là triết lí âm dương – ngũ
hành đã ảnh hưởng rất nhiều đến các họa tiết và phong cách trang trí của người
Hàn Quốc.

2.2.2 Các yếu tố truyền thống ảnh hưởng đến nhà ở hiện đại
Nhà của người Hàn Quốc, kể cả cũ hay mới, đều được xây để bảo vệ chủ nhân
của nó khỏi những yếu tố bên ngoài. Trần hơi thấp, các phòng tương đối nhỏ và
khôngcó nhiều cửa sổ hay cửa ra vào.
Mục tiêu xây dựng chính: giữ ấm. Một số phòng có sàn ondol, tức là sàn nhà được
sưởi ấm từ bên dưới. hệ thống sưởi này rất quen thuộc trong đời sống của người
Hàn Quốc và thậm chí còn trở thành mốt. Một số các ngôi nhà xây theo kiểu
phương Tây trong những năm gần đây có một số phòng được trang bị hệ thống
10


sưới kiểu này. Tương tự như vậy, nhiều người Hàn Quốc vẫn thích ngồi và nằm
trên đệm và thảm dầy được trải dưới sàn nhà.
Cho tới hiện nay, vẫn có rất ít nhà có ghế và giường. Mọi sinh hoạt đều diễn ra trên
sàn nhà (ăn, ngủ, trò chuyện…). Vì mọi sinh hoạt đều diễn ra trên sàn nhà nên
người Hàn luôn bỏ dép trước khi bước vào nhà.Thiết kế và xây dựng mang tính

mở, tiếp nhận ánh sáng triệt để và hòa hợp với thiên nhiên.

2.3 So sánh với nhà ở truyền thống Việt Nam
2.3.1 Điểm tương đồng
Nét đặc trưng nhất trong phong cách ở của người Việt Nam và Hàn Quốc
truyền thống là sống hoà hợp với thiên nhiên và cây cỏ. Ở vùng đồng bằng quanh
nhà đều có cây cỏ, hàng rào dâm bụt có nhiều ở vùng Bắc Bộ Việt Nam cùng với
luỹ tre làng tạo ra nét riêng của nông thôn nước ta. Nông thôn Hàn Quốc cũng
tương tự như vậy, hoa Mu-kung (giống hoa dâm bụt ở Việt Nam) cũng được trồng
rất nhiều quanh nhà và cung chính là quốc hoa của Hàn Quốc. Cây tre Hàn Quốc
tuy không mọc dày thành luỹ như ở nước ta nhưng cũng không phải là ít. Điểm
giống nhau rõ nét tiếp theo là nhà đều quay về hướng nam hoặc đông nam để tránh
ánh nắng mùa hè và gió lạnh mùa đông. Với đa số nông dân nghèo nói chung vách
nhà đắp hoặc trát bằng đất, trên mái lợp cỏ gianh hoặc rạ. Với số ít nhà giàu thì nhà
làm bằng gỗ, mái lợp ngói. Nhà làm theo hình chữ L hoặc chữ U, giữa có sân, đây
là phối cảnh chung ngôi nhà truyền thống Hàn Quốc. Nhà ở Việt Nam cũng tương
tự như vậy. Một ngôi nhà thường có ba gian, hai chái cộng với nhà ngang tạo thành
chữ L, trước nhà có một cái sân. Ở vùng sơn cước, nhà Hàn Quốc và Hàn Quốc
đều coi trọng vị trí địa lí và phong thủy nên thường tựa lưng vào núi, quay hướng
nam hoặc đông nam, xung quanh nhiều cây cối.Ngoài ra cách thức kiến trúc
của nhà Việt Nam và Hàn Quốc cũng có rất nhiều điểm tương đồng, thể hiện
rõ qua cách liên kết các chi tiết trong ngôi nhà hoặc đồ gỗ bằng mộng giúp cho các
bộ phận vừa gắn bó chặt chẽ lại vừa cơ động, linh hoạt. Và ngay cả việc dùng ngói
âm dương viên sấp viên ngửa để lợp mái nhà cũng khá giống nhau.

2.3.2 Điểm khác nhau
Do khu vực cư trú của người Việt Nam chủ yếu là vùng sông nước và khí
hậu nhiệt đới nóng, ẩm nên ngôi nhà của Việt Nam chủ yếu là nhà sàn để ứng phó
với ngập lụt, lũ rừng và tránh côn trùng, thú dữ. Còn ở Triều Tiên cũng có nhà sàn
nhưng chỉ xuất hiện ở một số vùng phía nam còn đa phần sàn nhà của một ngôi nhà

11


truyền thống Hanok thường cách mặt đất 3-5 bậc thang để đặt hệ thống sưởi sàn
Ondol bên dưới, giúp sưởi ấm vào mùa đông giá rét. Tuy kiến trúc của cả Việt
Nam và Triều Tiên đều là kiến trúc mở nhưng về mặt cấu trúc tiêu chuẩn của một
ngôi nhà thì Việt Nam là nhà cao cửa rộng để tạo không gian thoáng mát, hòa hợp
với tự nhiên trong khi ở Triều Tiên là nhà hơi thấp, các phòng tương đối nhỏ và
không có nhiều cửa sổ hay cửa ra vào để tránh cái lạnh vào mùa đông. Về hình
thức kiến trúc nhà truyền thống Triều Tiên thường chia thành nhiều buồng, các
phòng ngăn cách bằng cửa kéo với chấn song gỗ, còn nhà ở Việt Nam thường có 3
hoặc 5 gian và không chia thành nhiều phòng nhỏ biệt lập, gian giữa là nơi đặt bàn
thờ gia tiên ở phía trong và phía ngoài là bộ bàn ghế tiếp khách.Người Việt có
quan niệm ‘đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại’, nên gian chính là bộ mặt của chủ nhà,
lại là nơi thờ cúng của tổ tiên nên được bài trí hết sức công phu so với các gian bên
cạnh. Trong khi đó ở Triều Tiên nhà thờ thường xây ở phía sau, phòng của phụ nữ
(anbang ) được đặt ở phía sau nhà và là nơi tụ họp của cả gia đình còn phần phía
trước của gian nhà (sarangbang ) là nơi ở của người chủ gia đình và cũng là nơi
tiếp khách của cả nhà. Nếu người chủ là người có học, phòng của người đó sẽ được
trang bị một bàn học, giá sách, sách và một vài cái đệm.
Nhìn chung văn hóa ở của người Triều Tiên và người Việt Nam có rất nhiều điểm
tương đồng do ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết lí âm dương – ngũ hành của người Á
Đông. Tuy nhiên cũng có một số điểm khác biệt đặc trưng do sự khác biệt về tính
cách cũng như khí hậu và địa hình của hai đất nước.

3. Kết luận
Hanok là phong cách kiến trúc độc đáo truyền thống Hàn Quốc. Phong cách
nhà Hanok Hàn Quốc không chỉ mang truyền thống của quá khứ mà còn là một
phong cách kiến trúc hiệu quả trong thời hiện đại. Kiến trúc hanok quyến rũ bao
gồm hai phần: tính năng khoa học và thân thiện với môi trường. Sự xuất sắc khoa

học được thể hiện bằng một hệ thống sưởi ấm được gọi là "ondol."- ứng phó được
với những điều kiện của khí hậu. Đây là một hình thức kiến trúc rất thiết thực ,
Hanok và tính thẩm mỹ của nó, kiến trúc này vẫn luôn được đánh giá cao trong đời
sống và xây dựng của người Hàn Quốc.

12


13


Tài liệu tham khảo
1. Hàn Quốc đất nước, con người, Cơ quan thông tin hải ngoại Hàn Quốc.
NXB. Thế giới, 2006.
2. Tìm Tương đồng văn hoá Việt Nam- Hàn Quốc, Khoa ngữ văn ĐH KHXH
& NV- Đai học Quốc gia Hà Nội. NXB. Văn hoá thông tin, 1996.
3. Tìm hiểu văn hoá Hàn Quốc, Nguyễn Long Châu. NXB. Giáo dục, 2000.
4. Đặc trưng văn hóa Hàn Quốc từ truyền thống đến hiện đại_Trần Thị Thu
Luống (2011).NXB Tổng hợp TP HCM.
5. Tài liệu trên Internet:
/>k__1499.html
/>No=35469

14



×