Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.82 KB, 15 trang )

Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN-LỊCH SỬ,
XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI

1.1. Điều kiện tự nhiên
Làng Mã Châu (theo tên địa giới hành chính là thôn Châu Hiệp) thuộc thị
trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nằm cách thành phố Đà
Nẵng 30 km đi theo Quốc lộ 1A, đoạn từ Đà Nẵng đi Tam kỳ - Quảng Nam.
Vị trí địa lý của làng Mã Châu, phía Tây tiếp giáp sông Cầu Chìm (một
đoạn của sông Bà Rén, vì ở đoạn sông này có cây cầu Chìm bắc qua sông nên
gọi như vậy), bên kia sông là Ngũ xã Trà Kiệu. Phía Đông - Nam giáp làng Mậu
Hoà cũng cách nhau ở nhánh thượng lưu sông Bà Rén. Phía Bắc tiếp giáp với
làng Trung Lương (thôn Xuyên Tây 1) lấy đường gianh giới là con đường tỉnh
lộ 610 (chạy từ Bàn Thạch đến Mỹ Sơn). Mã Châu nằm ở phía đỉnh tam giác
đồng bằng châu thổ Duy Xuyên, nơi chia dòng giữa hai con sông Thu Bồn và
Bà Rén.
Làng Mã Châu có tổng diện tích đất tự nhiên là 126 ha, trong đó diện tích
đất nông nghiệp là 46 ha, diện tích đất thổ cư là 43 ha, phần còn lại là diện tích
ao hồ, sông suối và đất bồi ở ven sông. Với 560 hộ, dân số là 2692 người.
Quảng Nam là vùng đất có nhiều sông ngòi >1km/1km2 nhưng sông ngòi
ở đây ngắn và dốc "từ nguồn suối núi rừng đến vịnh cửa sông đổ ra biển chỉ
cách nhau khoảng 100 - 150 km đường chim bay. Nước sông thường trong xanh
và như thế có nghĩa là ít phù sa và những đồng bằng do chúng tạo thành thì
không lớn. Tuy nhiên so với Bình Trị Thiên Trung Trung bộ, ở đất Quảng đường
cốt núi lùi vào trong hơn vì thế mà đồng bằng lại rộng ra, đồng thời còn phát
triển sâu vào trong vùng đồi ngược theo các thung lũng sông nhỏ. Chính vì thế
mà ở đất Quảng núi - đồi - đồng bằng dính liền với nhau khá chặt"[37.424].
Quảng Nam có hai nguồn sông lớn là sông Vu Gia và sông Thu Bồn gặp nhau
tại vùng Giao Thuỷ (Đại Lộc) và đến Duy Xuyên thì chia thành hai nhánh cùng
ra ca i l nhỏnh sụng Thu Bn phớa Bc v nhỏnh sụng B Rộn phớa
Nam nh hn.
Sụng Thu Bn bt ngun t nỳi Ngc Linh (cao 2.859m), nm giỏp gia


huyn Tr My v Kon Tum, ni cú lng ma trung bỡnh 4000 mm/nm
[26.34]. Do vy, sụng Thu Bn v Vu Gia l hai dũng sụng ln ó hp lu vi
nhau bi p nờn vựng t ai trự phỳ in Bn, i Lc, Duy Xuyờn... nhng
cng v phớa ụng cng pha nhiu cỏt bin v phi chu nh hng ca thu
triu. Nhng vựng khỏc nh ng bng sụng Ly Ly, Tam K, t pha nhiu cỏt
v nghốo hn t vựng sụng Thu Bn, do sụng nh, nc l khụng ln, phự sa
khụng nhiu, khụng nc ti cho rung ng v mựa hn [37.418-431]. Nú
ó c tng kt trong cõu th dõn gian:
t Qung Nam cha ma ó thm
1
Do tớnh cht sụng ngũi nh vy m t ai õy xa kia phn ln l t
khụ cn, nc ti tiờu cho ng rung hon ton ph thuc vo "nc tri".
Duy ch cú vựng h lu cỏc sụng, c bit l h lu sụng Thu Bn (vựng Duy
Xuyờn, in Bn) nh phự sa hng nm bi p nờn hai bờn b sụng to thnh
nhng ng rung phỡ nhiờu thun li cho vic canh tỏc, trng trt, nht l trng
lỳa, trng dõu [22.202].
Huyn Duy Xuyờn nm dc v phớa b Nam sụng Thu Bn, a hỡnh tri
di t nỳi ra bin, cú bn nhỏnh sụng ln l Vu Gia, Thu Bn, B Rộn v
Trng Giang. t ai õy c tha hng ngun phự sa di do t thng
ngun cỏc nhỏnh sụng Thu Bn v lm cho mu m, dn dn y lựi nc
bin t bói cỏt Tõy An, xó Duy Trung to thnh nhng gii t phỡ nhiờu kộo di
t miu Thnh Hong Mó Chõu cho n Phng Chõu, Long Chõu, Triu Chõu...
ca xó Duy Phc, Duy Vinh ngy nay. Lng Mó Chõu vi a th nh tam
giỏc chõu li c bao quanh bi sụng B Rộn nờn hng nm, sau mi mựa l
1 GS Trần Quốc Vợng đã mô hình hoá miền Trung thành một hình hộp chữ nhật và mỗi xứ,
vùng là những hình hộp chữ nhật ngang với những thành tố: Núi đồi - Đèo - Sông - Đầm phá -
Cảng ven sông, ven biển - Hải đảo và các thành tố Núi - Biển - Sông - Đèo tuy có yếu tố chia
cắt các vùng miền song lại mang yếu tố gạch nối nhiều hơn [37.309-340].
đã nhận được một lượng phù sa đáng kể, rất thuận lợi cho sự phát triển nghề
nông tang ở đây.

Nói chung, địa hình ở Duy Xuyên đồi núi, sông hồ, đầm phá gắn kết với
nhau khá chặt chẽ. Vùng đồng bằng sông Thu Bồn sông hồ lầy lội, đi ghe
thuyền tiện hơn đi chân. Việc đặt tên các xứ đất ở Mã Châu: Đồng Rẫy, Lục
Nhơn, Bàu Trước, Bàu Tự, Bàu Răm, Bàu Mạn, Bàu Tỉnh, Bàu Khế, Bàu Chùa,
đất bồi xóm bãi (Thượng tự phù sa đồng canh xứ)... cũng đã phần nào nói nên
điều này.
Mã Châu trong bối cảnh Duy Xuyên - Quảng Nam nói chung thuộc đới
khí hậu Á xích đạo, với lượng cân bằng bức xạ 95 kcal/cm2/năm (tổng nhiệt độ
9500°C). Đất Quảng Nam nằm trong gianh giới vĩ tuyến 14°B đến 16°B, không
có mùa khô rõ rệt do tác dụng bức chắn của khối núi Bắc Kon Tum. Cũng vì
vậy mà trong mùa gió Đông Bắc, Quảng Nam vẫn giữ được một lượng mưa
đáng kể. Nhiệt độ trung bình các tháng đều >20°C nên ở Quảng Nam không có
mùa Đông lạnh. Mùa mưa ở đây "lệch pha" so với hai đầu Nam Bắc, bắt đầu từ
tháng 9, tháng 10, giảm dần về cuối năm và kết thúc vào tháng 1. Từ tháng 5
đến tháng 8, do ảnh hưởng của gió Lào làm khí hậu khô nóng. Đại Nam nhất
thống chí, mục Quảng Nam tỉnh chép: "Khí trời nóng nực, nhiều lạnh ít mưa;
chất đất phù bạc, nhiều khô hạn ít màu mỡ. Hết tháng chạp thì gió Đông nổi, tiết
kinh chập thì mưa xuân phần; gió Nam mạnh về mùa Hạ, gió Bắc rét về mùa
Đông; mùa Thu gió mát mà hay mưa lụt (các tháng 8, 9, 10 thường hay mưa lụt),
mưa Đông hết lụt thì bãi sông bằng (mùa Đông sau khi mưa lụt thì bãi sông
bằng phẳng tức là hết kỳ mưa lụt)... Thỉnh thoảng cũng có gió bão"[19.337].
Do ảnh hưởng của khí hậu Á xích đạo nên thành phần sinh vật mang
nhiều đặc điểm Mã Lai, Iđônêsia...
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng Mã Châu.
Làng Mã Châu (mà theo tên hành chính là thôn Châu Hiệp, xã Duy An cũ
hay thi trấn Nam Phước mới thành lập năm 1995) trong bối cảnh toàn vùng Duy
Xuyên và mở rộng hơn là xứ Quảng - Quảng Nam là vùng đất có truyền thống
lịch sử lâu đời. Nó đã được GS Trần Quốc Vượng khái quát: "Ở xứ Quảng -
Quảng Nam - Việt Nam lại có sự xếp tầng (stratigraphi) xếp lớp văn hoá, quá
trình lắng đọng - trầm tích (sédimentation) văn hoá qua diễn trình lịch sử kể từ

dưới lên trên:
7 - Văn hoá Quảng Nam hiện đại.
6 - Văn hoá Kinh - Việt.
5 - Văn hoá Chămpa - Ấn.
4 - Văn hoá Sa Huỳnh - Đại Lộc.
3 - Văn hoá tiền Sa Huỳnh (Bàu Trám, Phúc Hoà).
2 - Văn hoá Bãi Ông (Cù Lao Chàm).
1 - Văn hoá Bàu Dũ hậu Hoà Bình (hay truyền thống Hoà Bình)... [22.35].
Năm 1981 di chỉ Khảo cổ học Bàu Dũ thuộc thời đại đá mới ở thôn Bút
Đông, xã Tam Xuân, huyện (nay là thị xã) Tam Kỳ được phát hiện và khai quật.
Bàu Dũ là một di chỉ cồn sò điệp, căn cứ vào cấu tạo tầng văn hoá, được
xếp vào loại hình di tích đống rác bếp. Bàu Dũ có nhiều nét tương tự với văn
hoá Hoà Bình ở miền Bắc (có niên đại 15000 đến 8-6000 năm cách ngày nay)
bởi kỹ thuật chế tác và công cụ đá; và di tích văn hoá Quỳnh văn ở ven biển
Nghệ An (đầu thời đại đá mới) ở hình thức mộ táng (huyệt tròn, trôn người bó
gối trong đống vỏ sò điệp).
Những hiện vật khai quật được ở Bàu Dũ cho biết nền kinh tế của cư dân
Bàu Dũ là kinh tế săn bắt (bắn), hái lượm theo phổ rộng của hệ sinh thái bờ
biển. Địa bàn cư trú của họ là những vùng cửa sông ven biển. Tại đây đã thu
lượm được một số lượng lớn xương cốt động vật và vỏ nhuyễn thể (nhưng chưa
thấy di cốt của loài vật đã được thuần dưỡng) cho thấy trước đây vùng này là
vùng rừng xen lẫn với những trảng cỏ rộng lớn và những bàu nước ngọt như
Bàu Dũ, Bàu Mê, Bàu Trám... [33].
Quảng Nam hiện nay vẫn là nơi phân bố dày đặc nhất những di tích khảo
cổ học của văn hoá Sa Huỳnh. Tính riêng ở huyện Duy Xuyên đã phát hiện
hàng chục di chỉ trong vòng vài năm gần đây. Những di tích này được phát hiện
ở những khu vực sinh thái đa dạng: núi, đồi, gò, ven sông... với mật độ chum
mộ và đồ tuỳ táng dày đặc. Đa số các di tích phân bố ở trên những cồn cát cổ,
dọc theo các con sông Thu Bồn và Bà Rén.
Các di tích Sa Huỳnh ở Duy Xuyên tìm thấy, đặc biệt phân bố rất dày đặc

ở các cồn cát cổ ven theo bờ Nam sông Bà Rén, thuộc khu vực thôn Mậu Hoà,
xã Duy Trung (tức là cách làng Mã Châu hiện nay một bờ sông) như: gò Mả
Vôi, gò Miếu Ông (đã được khai quật), gò Tây An, gò Cấm, gò Bờ Rang, gò Bà
Hòm, gò Ông Nhan... [14].
Mộ táng Sa Huỳnh ở đây có nhiều táng thức khác nhau, với những loại
hình: mộ chum, mộ vò và mộ huyệt đất, nhưng phổ biến nhất là mộ chum.
Chum mộ hình cầu với những kiểu biến thể ở miệng, thân, đáy thành hình trái
xoan, trái đào, hình trứng... mộ chum kép (chum đôi lồng nhau), với nắp đậy
hình nón cụt hoặc hình lồng bàn. Đồ gốm ở đây rất đa dạng về loại hình cũng
như hoa văn trang trí như: nồi, bát bồng, đèn, cốc chân cao, bình, vò... với đồ án
hoa văn phức tạp kết hợp khắc vạch, tô màu... Khiếu thẩm mỹ của người Sa
Huỳnh rất phong phú được thể hiện qua cách sử dụng đồ trang sức với những
chất liệu: mã não, thuỷ tinh, vàng, đá, nephrit... Bộ sưu tập đồ đồng và đồ sắt
cũng rất phong phú với những loại hình: rìu, lao, dao, đục... Các hiện vật tìm
được đã cho thấy ở đây từ rất sớm, người Sa Huỳnh đã mở rộng giao lưu văn
hoá với các vùng khác. Bộ sưu tập đồ đồng ở gò Mả Vôi cho thấy sự giao lưu
với văn hoá Đông Sơn, còn bộ sưu tập đồ đồng ở gò Dừa lại cho thấy sự giao
lưu mạnh mẽ với văn hoá Hán [14.32].
Kết quả nghiên cứu còn cho biết cư dân Sa Huỳnh là cư dân nông nghiệp
trồng lúa nước ở vùng đồng bằng duyên hải. Họ đã biết trồng lúa và một số loại
cây lương thực khác như: khoai, sắn, lạc, đậu... Có thể cây lấy sợi như bông,
đay, gai đã được cư dân Sa Huỳnh trồng để phát triển nghề dệt sợi. Các dọi xe
si ó núi lờn s phỏt trin ca ngh th cụng ny trong vn hoỏ Sa Hunh. Vic
buụn bỏn trao i ca h cng rt phỏt trin. Ngh i bin ó c ngi Sa
Hunh bit n v yu t bin ó n sõu vo i sng ca h. Do vy ct lừi ca
ngh thut Sa Hunh l miờu t thiờn nhiờn m ch yu l bin c [35.445].
Trong ú Hi An vi vai trũ ca mt cng th s khai l minh chng cho s giao
thng v giao lu vn hoỏ gia Sa Hunh v nhng nn vn hoỏ khỏc qua
ng bin.
Trờn nn tng vn hoỏ bn a, k tha nhng di sn t vn hoỏ Sa

Hunh, tip thu nhng nh hng ca vn hoỏ n , cựng nhiu yu t khỏc
ca cỏc nn vn hoỏ lỏng ging, dõn tc Chm trờn chng ng di 14 th k
ó sỏng to nờn nn vn hoỏ riờng, c ỏo ca mỡnh.
Chmpa cú niờn i khi u vo cui th k II theo th tch c Trung
Quc. Gn lin vi s kin nm 192 Khu Liờn ni dy chng nh Hỏn, lp nc
Lõm p ( vựng t Qung Nam ngy nay)
2
. ú l vng quc Chmpa ca
ngi Chm vi ụ thnh S T (Simhapura), nay l Tr Kiu - Duy Xuyờn.
Ti õy, trờn ngn nỳi Bu Chõu - gia kinh ụ Tr Kiu, trong mt ln i
in dó t u thp k 80, GS Trn Quc Vng ó "n ng" ra mụ hỡnh quy
hoch cỏc tiu quc Chmpa nh sau:
Nỳi Sụng Thu Bn
Tõy Thỏnh a Thnh S T Cng th Hi An Bin ụng Tin
cng
M Sn (Simhapura) (Chmpapura) (Cự Lao Chm)
2 Thời Sơ Bình nhà hậu Hán (190 - 192) Khu Liên, một công tào huyện Tợng Lâm đã lợi dụng
lúc nhà Hán suy yếu, nổi dậy chiếm quận Nhật Nam và xng Vua ở Tợng Lâm-một huyện cực
Nam của quận Nhật Nam, lập ra nớc Lâm ấp. Tên Lâm ấp có thể do bắt nguồn từ chữ Tợng
Lâm (rừng voi). Còn tên Chămpa thì không biết ra đời từ khi nào, bia ký sớm nhất nhắc đến
tên này là bia đợc lập vào thế kỷ VI [33.9-10].

×