Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao nâng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.54 KB, 55 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài :
Hơn thập kỷ kiên định với sự nghiệp đổi mới cơ chế kinh tế do Đảng
khởi xớng, Việt Nam đã từng bớc nâng cao đợc vị thế của nền kinh tế nói
chung và các doanh nghiệp nói riêng trong quá trình phát triển, hội nhập khu
vực và thế giới. Dới sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trờng cùng việc
điều tiết vĩ mô của Nhà nớc môi trờng kinh doanh và đầu t ngày một thông
thoáng, hoàn thiện hơn. Mọi mối quan hệ kinh tế ngày thêm nẩy sinh đa dạng
đồng thời đều đợc tiền tệ hoá và diễn ra hết sức sôi động trong môi trờng
cạnh tranh đầy quyết liệt.
Khi nói tới nền kinh tế hàng hoá mà bớc phát triển cao là kinh tế thị tr-
ờng từ một quy luật cơ bản ngự trị trong nó là cạnh tranh và dờng nh nền
kinh tế càng phát triển thì mức độ cạnh tranh cũng ngày một gia tăng. Sự
thực, nó đã hết sức sức quyết liệt và nghiệt ngã khi có hỗ trợ đắc lực của sa
lộ thông tin toàn cầy cùng những tiến bộ khoa học công nghệ mang tính
thần tốc của thời đại. Theo đó, cuộc chiến thơng mại ngày nay không dừng
ở sản phẩm, dịch vụ mà quan trọng hơn cả là cạnh tranh tìm kiếm thông tin
giá trị sinh lời. ở đó cạnh tranh không đơn thuần với mục đích đào thải, loại
trừ theo quy luật tiến hoá mạnh đợc yếu thua, khôn sống mống chết mà
còn mang tính thúc đẩy nhau cùng phát triển hơn nữa nhằm đảm bảo lợi ích
cho các bên tham gia cạnh tranh.
Trớc sức ép cạnh tranh không ngừng gia tăng do cơ cấu thị trờng cung
đã vợt xa cầu. Để tồn tại và phát triển doanh nghiệp luôn phải đối mặt với
cạnh tranh gay gắt. Trong cuộc chiến không khoan nhợng ấy. Yếu tố quyết
định sự thành bại không gì khác ngoài khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Nó đợc coi là năng lực tổng hợp mà doanh nghiệp có đợc từ các lợi
thế so sánh. Với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp thơng
mại nói riêng sức ép đó không phải là nhỏ khi mà chúng ta thực hiện hội
nhập kinh tế cùng lúc với thời kỳ đầu CNH - HĐH nền kinh tế.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Do vậy năng lực cạnh tranh là điều đáng quan ngại không chỉ với doanh
nghiệp mà cả với chính phủ. Nó vừa là yêu cầu cấp thiết vừa mang tính chiến
lợc lâu dài. Vậy nội dung, thớc đo của nó là gì cùng nhiều vấn đề khác là câu
hỏi cần đợc giải đáp, đặc biệt hơn là làm thể nào để nâng cao năng lực cạnh
tranh cho doanh nghiệp ? Đây là một vấn đề lớn mà nhiều cuộc hội thảo,
công trình nghiên cứu đã đang và sẽ đợc tiến hành để phục vụ cho quốc tế
dân mình.
Trong giai đoạn hiện nay khi mà làn sóng mở cửa hội nhập nh yêu cầu
tất yếu thì vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh khó thú vị với
sinh viên khối kinh tế cũng nh nhiều ngời khác có liên quan đến hoạt động
kinh tế Thơng mại. Nó đã trở nên thờng thức trong nhiều doanh nghiệp và
việc nghiên cứu một cách cụ thể về thực trạng NLCT của các doanh nghiệp
nói chung và DNTMVN nói riêng là điều cần thiết, nên làm. Trên cơ sở đó
giúp sinh viên bớc đầu đa ra những nhận định và kiến nghị để hoàn thiện quá
trình học đồng thời góp phần hoạch định chiến lợc sản phẩm, nâng cao
KNCT và vị thế doanh nghiệp trên thơng trờng. Việc đó có ý nghĩa rất quan
trọng với những chủ thể liên quan cũng nh những sinh viên đang trong quá
trình học tập. Bởi vấn đề không chỉ đơn thuần dừng lại ở giá trị lý luận mà
còn là sự kết hợp với giá trị thực tiễn trong suốt quá trình nghiên cứu tìm
hiểu.
2. Mục đích nhiệm vụ
+ Góp phần làm sáng tỏ thêm nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để từ
đó có cơ sở khoa học và chiến lợc nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp.
+ Nêu lên thực tế môi trờng cạnh tranh, khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong giai đoạn đầu của mở cửa hội nhập kinh tế khu vực, thế giới.
+ Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháo góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh và củng cố vị thế của các doanh nghiệp ở thị trờng nội địa và xa
hơn là Ngoại quốc. Thông qua xây dựng chiến lợc cạnh tranh các nguồn lực
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

sử dụng tạo lợi thế cạnh tranh trong giai đoạn tới nhằm đảm bảo hội nhập
thành công.
3. Đối tợng nghiên cứu : Với khả năng và nguồn t liệu còn hạn chế
nên đề tài đã tiến hành tập trung vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
trong nớc mà đối tợng chính là doanh nghiệp thơng mại (DNTM). Từ đó ớc
đoán cho khả năng cạnh tranh ở phạm vi rộng hơn.
4. Phơng pháp nghiên cứu :
Đề tài đợc xử lý phơng pháp phân tích tổng hợp lôgích và lịch sử, sự
hiểu biết của bản thân cùng quá trình khảo sát phỏng vấn nhanh.
Trong đề tài cũng sử dụng một số t liệu và các kết quả nghiên cứu, điều
tra có liên quan đã đợc công bố.
5. Kết cấu đề tài :
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung của đề tài gồm 3 phần :
Phần 1 : Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Phần 2 : Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp thơng mại.
Phần 3 : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần I
Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế
I. Tổng quan về cạnh tranh
1. Khái niệm, đặc trng và bản chất của cạnh tranh.
a. Khái niệm : Hiện tợng cạnh tranh đợc xuất hiện đồng thời với sự ra
đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Tức là vào khoảng thế kỷ 14 -15,
trong cuộc cách mạng t sản và cách mạng công nghiệp. Nhng cả một thời
gian dài ngời ta không coi cạnh tranh nh một qúa trình, quy luật đồng thời

không quan sát và phân tích những tác động của chúng trong nền kinh tế
cũng nh bản thân mỗi chủ thể. Chỉ khi các khái niệm về giá trị, giá cả đợc
nghiên cứu một cách nghiêm túc thì vấn đề cạnh tranh mới đợc sự quan tâm
của nhiều học giả.
Cho tới nay, cạnh tranh vẫn cha có đợc khái niệm chính thức. Tuy vậy,
mọi nhà nghiên cứu dờng nh cũng thống nhất ở chỗ : Cạnh tranh là một khái
niệm đợc sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để đơn giản hoá, có thể
hiểu cạnh tranh là sự ganh đua giữa một (hoặc một số nhóm) ngời mà sự
nâng cao vi thế của ngời này sẽ làm giảm vị thế của những ngời tham gia còn
lại. Trong kinh tế khái niệm cạnh tranh đợc hiểu là sự ganh đua giữa các
doanh nghiệp trong việc giành lấy những nhân tố sản xuất hoặc khách hàng
nhằm nâng cao vị thế của mình trên thơng trờng. Theo đó, có thể mang lại lợi
ích cho ngời này và thiệt hại cho chủ thể khác. Song xét dới góc độ lợi ích
toàn xã hội cạnh tranh luôn luôn có tác động tích cực. Chẳng hạn : chất lợng
hàng hoá tốt hơn, giá cả giảm đi, dịch vụ chu đáo tận tình hơn Điều này nó
giống nh quy luật sinh tồn và đào thải tự nhiên, quy luật cạnh tranh là thải
loại những thành viên yếu kém trên thị trờng để duy trì và phát triển những
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thành viên tốt nhất và qua đó hỗ trợ đắc lực cho qúa trình phát triển toàn xã
hội.
Nh vậy, ở thời kỳ nền sản xuất hàng hoá, thị trờng cha hình thành và
phát triển thì không thể có hiện tợng cạnh tranh giữa ngời sản xuất với nhau.
Cạnh tranh trong kinh tế bao gồm cả lành mạnh và không lành mạnh.
Cạnh tranh đợc coi là lành mạnh chỉ khi nó hợp pháp, giữ gìn đạo đức
kinh doanh và tập quán kinh doanh bằng chính nội lực, tiềm lực thực có của
nhà kinh doanh mà không gây thiệt hại cho ngời khác. Đối lập với cạnh tranh
lành mạnh là cạnh tranh không lành mạnh. Khoản 2 điều 10 công ớc Paris về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ định nghĩa : Bất kỳ hành vi cạnh tranh nào trái
các hoạt động thực tiễn trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thơng mại
đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tại khoản 3 điều 40 của

công ớc này đã chi tiết hoá một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
tính chất điển hình nh tạo ra sự nhầm lẫn, lừa dối công chúng, lợi dụng không
chính đáng thành quả hoặc giá trị có chức năng quảng cáo, lạm dụng danh
tiếng uy tín thơng mại của ngời khác
Khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh có tính chất tơng đối và luôn
thay đổi do các hành vi cạnh tranh không hề bất biến. Trái lại nó rất đa dạng
và phức tạp. ở Việt Nam cạnh tranh không lành mạnh đợc coi nh những
hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, trái đạo đức xã hội, gây thiệt hại cho ngời
tiêu dùng và lợi ích của Nhà nớc nh : làm hàng giả, giả mạo, lừa đảo, vu
khống
b. Đặc trng của cạnh tranh :
Cạnh tranh là đặc trng căn bản của sản xuất hàng hoá. Ưu thế cạnh
tranh trên thị trờng do năng suất, chất lợng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp quyết định. Đặc trng hàng đầu của cạnh tranh là
chất lợng của tiềm lực cạnh tranh và nghệ thuật cạnh tranh trên thị trờng.
Chất lợng cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển hoặc phá sản
của tất cả những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá. Nó còn có đặc
trng cơ bản là : 1. Có mặt tích cực và tiêu cực ; 2. Luôn có xu hớng độc
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quyền chiếm lĩnh thị trờng thủ tiêu đối phơng cạnh tranh ; 3. Cạnh tranh gắn
liền với thị trờng, biến động trên tất cả các loại thị trờng, quy mô cạnh tranh
bao trùm cả thị trờng nội địa và thị trờng nớc ngoài.
Cạnh tranh là động lực phát triển sản xuất hàng hoá của nhà kinh doanh,
là động lực cho sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Nó cũng là động lực quan
trọng cho việc hình thành, vận động tiến lên của thị trờng - đa dạng hoá các
loại thị trờng. Chính vì vậy, để có thể cạnh tranh đợc trên thị trờng, các doanh
nghiệp và nhà sản xuất kinh doanh dịch vụ đều phải tự mình đổi mới cơ cấu
sản xuất, công nghệ đồng thời không ngừng nâng cao chất lợng sản phẩm
dịch vụ cũng nh phơng thức kinh doanh trong quan hệ thơng mại.
Cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp có tác dụng tích cực làm tăng lợi

nhuận của ngời điều kiện. Song song với nó chất lợng hàng hoá dịch vụ ngày
một tốt hơn, giá cả có xu hớng giảm sẽ đảm bảo lợi ích cho ngời tiêu dùng và
lợi ích của nền kinh tế quốc dân.
Mặc khác, cạnh tranh cũng có mặt tiêu cực, thể hiện ở xu hớng phân
hoá các doanh nghiệp, phân hoá giàu nghèo gây ra tình trạng phá sản doanh
nghiệp, phân hoá giàu nghèo gây ra tình trạng phá sản doanh nghiệp, nạn thất
nghiệp của ngời lao động. Từ đó nó gây ra những bất ổn định về mặt xã hội,
tạo ra sức ép lớn với các chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tạo ra sức
ép lớn với các chính sách kinh tế và chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
Cạnh tranh không lành mạnh càng tạo ra nhiều hậu quả tiêu cực. Đối với ngời
tiêu dùng và các đối tác cùng cạnh tranh, đối với cả Nhà nớc và xã hội.
Ngoài những đặc trng chung, cạnh tranh trên từng loại thị trờng, trên
từng lĩnh vực kinh tế cũng có đặc điểm riêng. Chẳng hạn nh cạnh tranh trên
thị trờng sức lao động vừa tạo động lực để cả cung và cầu về lao động cùng
thực hiện quyền tự do mua bán sức lao động vừa tạo ra điều kiện phát triển
lao động có hàm lợng chất xám càng cao. Nó thúc đẩy cạnh tranh giữa những
ngời sử dụng lao động với nhau trong cuộc cạnh tranh về sức lao động. Điều
đó buộc mỗi nhà doanh nghiệp phải khai thác có hiệu quả sức lao động - một
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
loại hàng hoá đặc biệt để tạo ra nội lực và tiềm lực cạnh tranh của mình trên
thị trờng. Tơng tự vậy cho các thị trờng vốn, công nghệ
c. Bản chất của cạnh tranh :
Theo khái niệm, cạnh tranh đợc biểu hiện ra bên ngoài là sự ganh đua
giữa các chủ thể trong một môi trờng nhất định. Cụ thể, trên thị trờng mỗi
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ đều hoạt động trong điều kiện
cạnh tranh, giành giật với các đối thủ khác nhằm theo đuổi những mục đích
nhất định vì lợi nhuận của mình. Và mục đích cuối cùng của cạnh tranh
không gì khác là thu đợc lợi nhuận cao, chiếm lĩnh và mở rộng thị trờng qua
đó nâng cao uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, mức độ đạt đợc mục đích đó còn tùy thuộc vào tiềm lực thực

có của chủ thể kinh doanh - Năng lực cạnh tranh. Chúng đợc định hớng bởi
bản chất kinh tế và bản chất xã hội của cạnh tranh.
ở đó, bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích vì lợi nhuận
và mong muốn chi phối thị trờng của doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Còn
bản chất xã hội của cạnh tranh chính là đạo đức kinh doanh, là uy tín kinh
doanh của mỗi chủ thể thực hiện cạnh tranh trong mối quan hệ với ngời tiêu
dùng và các đối thủ khác cũng nh giữa doanh nghiệp với những ngời lao
động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh.
Dới tác động điều tiết vĩ mô của Nhà nớc đối với hoạt động cạnh tranh
trên thị trờng, sự cạnh tranh ở mỗi quốc gia và có bản chất chính trị khác
nhau. Nó tùy thuộc vào việc hoạch định và thực thi chính sách kinh tế và
chính sách xã hội của từng quốc gia. Suy cho cùng cạnh tranh cũng chỉ vì lợi
ích của chính mình.
2. Lý thuyết về cạnh tranh.
a. Trờng phái cổ điển :
ý nghĩa của cạnh tranh trớc hết đợc những ngời theo trờng phái cổ điển
phát hiện ra thông qua sự biến động giá cả. Theo họ, giá tự nhiên bao gồm
lao động chứa trong sản phẩm và địa tô. Khi xuất hiện một sự bất thờng nào
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đó thì giá thị trờng có thể chênh lệch với giá tự nhiên trong giai đoạn ngắn. ở
trờng hợp đó, cạnh tranh tiêu cực để điều chỉnh bên cung và làm cho giá thị
trởng trở lại mức giá tự nhiên. Adam Smith đã tiếp thu những nội dung này
và bổ sung thêm vào đó các vấn đề cạnh tranh bên cầu. Nh vậy Adam Smith
chính là ngời đầu tiên đa ra lý thuyết tơng đối hoàn chỉnh về cạnh tranh.
Luận thuyết của ông đòi hỏi tự do hành động cho mọi doanh nghiệp và
các hộ gia đình - nghĩa là đảm bảo sự tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
cũng nh sự tự do lựa chọn tiêu dùng của hộ gia đình.
Thông qua cơ chế thị trờng, việc vận dụng tự do cạnh tranh để theo đuổi
lợi ích riêng dẫn đến mỗi chủ thể kinh tế sẽ nhận đợc những thành quả mà họ
đã cống hiến cho thị trờng. Nh vậy, sự hài hòa về lợi ích riêng đợc hình thành

nh thế thông qua sự sắp đặt của bàn tay vô hình. Mô hình cạnh tranh của
trờng phái này có thể đợc hiểu nh một quy trình điều phối không có sự điều
tiết của Nhà nớc. Mặc dù vậy, mô hình cạnh tranh của họ không đồng nghĩa
với chính sách bỏ mặc doanh nhân nh nhiều ngời lầm tởng mà họ đòi hỏi
Nhà nớc phải tạo ra và đảm bảo một trật tự pháp luật làm khuôn khổ cho qúa
trình cạnh tranh diễn ra.
Sự hài hòa về lợi ích nh Adam Smith phỏng đoán đã đợc trờng phái tân
cổ điển nghiên cứu. Trên cơ sở đó, họ tìm cách xác định những điều kiện để
tồn tại sự tởng thích giữa lợi ích riêng và lợi ích tổng hợp trong xã hội. Kết
quả cố gắng của những nhà kinh tế phái tân cổ điển đã mang lại mô hình cân
bằng của cạnh tranh hoàn hảo. Họ đã thay thế và rút gọn việc phân tích trạng
thái cân bằng theo lý thuyết giá. Từ những giả thuyết (không mấy thực tế) về
cơ cấu và quan hệ trên thị trờng, họ đã rút ra những kết luận về giá và khối l-
ợng cân bằng. Vì thế qúa trình cạnh tranh động dẫn dẫn đến cân bằng đã bị
việc quan sát tĩnh lấn át.
b. Lý thuyết cạnh tranh không hoàn hảo và cạnh tranh mang tính
độc quyền.
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX nhiều nhà kinh tế mà nổi trội là
E. Chamberlin (ngời Mỹ) và S.Robinson (Anh) đã nghiên cứu để tìm cách vợt
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
qua sự tách bạch quá rạch ròi giữa hai thái cực là độc quyền và thuần tuý
cạnh tranh hoàn hảo. Trọng tâm của việc nghiên cứu này là vấn đề độc quyền
nhóm, hàng hoá tạp chủng và bổ sung những hình thái cạnh tranh không
bằng giá (VD : qua lĩnh vực phân phối quảng cáo).
Mô hình cạnh tranh không hoàn hảo hoặc cạnh tranh mang tính độc
quyền là phạm trù thứ 3 giữa hai cực cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền. Sự
khác biệt của nó so với hai phạm trù kia là nó thiếu một số nhân tố hoàn hảo
hoặc nhân tố độc quyền của thị trờng. Khởi đầu phân tích này từ chỗ nhận
thấy rằng : Không bao giờ có thể tồn tại cạnh tranh hoàn hảo. Bởi những giả
thuyết về sự tồn tại tất cả các nhân tố hoàn hảo của thị trờng là điều không t-

ởng.
Cạnh tranh mang tính độc quyền theo nghĩa rộng là cạnh tranh giữa
nhiều đơn vị cung ứng với những hàng hoá khác biệt cạnh tranh lẫn nhau trên
những thị trờng với một số ít đơn vị cung ứng. Sau khi lý thuyết về hình thái
thị trờng độc quyền nhóm ra đời và phát triển, đến nay ngời ta hiểu khái niệm
cạnh tranh mang tính độc quyền chỉ theo nghĩa hẹp là : Cạnh tranh giữa
nhiều ngời cung ứng với những hàng hoá khác biệt.
Lý thuyết này ra đời và tạo cơ sở cho các doanh nghiệp có thêm những
phơng pháp để xây dựng chiến lợc Marketing khác nhau, phù hợp với vị thế
của mình trên thị trờng đồng thời thích nghi với hình thái thị trờng hiện hữu.
c. Lý thuyết cạnh tranh hiệu quả.
Nó đợc hình thành vào đầu những năm 40 của thể kỷ 20. Lý thuyết dựa
trên luận điểm lấy độc trị độc của nhà kinh tế Mỹ - John Maurice Clack
là : những nhân tố không hoàn hảo trên thị trờng có thể đợc sửa chữa bằng
những nhân tố không hoàn hảo khác. Chẳng hạn (nh) tính không hoàn hảo do
có ít ngời cung ứng (thị trờng độc quyền nhóm) sẽ đợc cải thiện phần nào
thông quan nhân tố không hoàn hảo khác vì nh thiếu sự tờng minh của thị tr-
ờng và tính tạp chủng của hàng hoá. Bởi vì những nhân tố không hoàn hảo
này sẽ làm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau trong chính sách giá cả giữa các hãng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ở thị trờng độc quyền nhóm, tạo điều kiện cho các hoạt động cạnh tranh có
kết quả.
Luận điểm của nhà kinh tế học Mỹ gốc áo Schumpeter (1883 - 1857)
về cạnh tranh đã ảnh hởng một cách mạnh mẽ đến sự phát triển tiếp theo của
lý thuyết cạnh tranh cũng cho rằng : phải cạnh tranh bằng sản phẩm mới, kỹ
thuật công nghệ mới, nguồn cung ứng mới và bằng cả hình thức tổ chức mới.
Theo ông đổi mới chính là sự phá hủy mang tính sáng tạo.
Clack đã nhanh chóng tiếp thu luận điểm này của Schumpeter và gắn nó
với lý thuyết cạnh tranh trong tác phẩm : Competition is a Dynamie Proces.
Theo đó, việc các siêu lợi nhuận của doanh nghiệp tiên phong trên cơ sở lợi

thế so sánh nhất thời vừa là hệ quả, vừa là tiền đề của cạnh tranh. Lợi nhuận
này không nên xoá bỏ ngay lập tức mà chỉ nên giảm dần để doanh nghiệp có
thể có điều kiện thời gian tạo ra một sự đổi mới, cải tiến khác. Chính vì vậy,
theo Clack, sự vận động của cạnh tranh đợc đo bằng sự giảm giá, tăng chất l-
ợng hàng hoá cũng nh việc hợp lý hoá trong sản xuất.
Tóm lại nội dung cơ bản của lý thuyết cạnh tranh hiệu quả là phân biệt
rõ những nhân tố không hoàn hảo nào là có lợi và nhân tố nào không có lợi
cho chính sách cạnh tranh. Từ đó, giúp các chủ thể kinh tế nhận biết đợc các
điều kiện cần (thiết) và đủ cho tính hiệu quả của cạnh tranh trong nền kinh tế.
II. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế.
Cạnh tranh là hoạt động thực tiễn của các chủ thể kinh doanh trong nền
kinh tế thị trờng. Nó mang tính tất yếu của một quy luật kinh tế, chịu sự chi
phối, tác động của nhiều quy luât kinh tế khác. Hơn thế cạnh tranh còn là
hoạt động mang tính chủ quan của nhà sản xuất, kinh doanh vừa do bản chất
mục đích kinh doanh của bản thân ngời đó chi phối vừa chịu sự quản lý vĩ mô
của Nhà nớc cạnh tranh cũng chứa đựng trong nó tính hai mặt : Tích cực và
tiêu cực đối với nền kinh tế nói chung và với các doanh nghiệp nói riêng
trong quá trình phát triển.
1. Đối với doanh nghiệp
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong nền kinh tế thị trờng cạnh tranh trở thành sức ép vô hình nhng rất
mạnh mẽ với mọi doanh nghiệp. Nó sẽ có lợi hơn nếu phía doanh nghiệp biết
tiếp nhận một cách chủ động và vận dụng sáng tạo quy luật cạnh tranh vào
điều kiện hiện có của mỗi doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế
cũng nh xã hội.
Nhờ có quy luật cạnh tranh mà các doanh nghiệp tham gia hoạt động
sản xuất kinh doanh có điều kiện để khẳng định mình. Bởi trong môi trờng
nh vậy buộc các doanh nghiệp phải có cách nhìn động cùng một t duy nhậy
bén mới thích ứng đợc với những biến động thất thờng thiếu quy luật của các
yếu tố liên quan đặc biệt là phía khách hàng. ở vào thời kỳ mà cung lớn hơn

cầu, thậm chí lớn hơn nhiều thì khách hàng càng trở nên quan trọng với mọi
nhà kinh doanh. Theo quan điểm của Marketing thì khách hàng sẽ là trung
tâm của quá trình kinh doanh. Họ chính là lực lợng quyết định đến lợi nhuận,
đợc thua của doanh nghiệp. Vì vậy cuộc chiến trong thơng mại chính là
cuộc chiến để giành lấy khách hàng giữa các đối thủ cạnh tranh mà sự gia
tăng lợi ích của ngời này sẽ làm giảm lợi ích của ngời còn lại. Bởi vậy, cạnh
tranh sẽ hối thúc doanh nghiệp không chỉ định hớng vào khách hàng mà phải
định hớng chính xác để nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng. Trên cơ sở đó
sẽ đề ra phơng thức phục vụ khách hàng một cách tối u. Trớc yêu cầu nh vậy,
doanh nghiệp nào không thực hiện tốt sẽ nắm chắc phần thua trong tay và
nếu sai lầm nối tiếp sai lầm thì nguy cơ bị loại thải sẽ thành hiện thực.
Nhng bí quyết cho cạnh tranh thành công lại nằm ở công nghệ sản xuất
kinh doanh. Do đó, cạnh tranh sẽ dẫn đờng cho doanh nghiệp tìm ra công
nghệ hợp lý hơn trong kinh doanh. Công nghệ với các doanh nghiệp sản xuất
thuần tuý hay doanh nghiệp thơng mại đều ảnh hởng đến năng suất và chất l-
ợng của sản phẩm dịch vụ. ở doanh nghiệp sản xuất công nghệ chủ yếu nằm
ở máy móc, quy trình sản xuất quản lý. Còn doanh nghiệp Thơng mại nó là
tập hợp các phơng thức chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu khách hàng về hàng
hoá dịch vụ và các hoạt động hậu cần trớc đó (liên quan). Dù có điểm giống
và khác nhau về công nghệ giữa hai loại hình doanh nghiệp nhng nguyên tắc
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chung cho lựa chọn công nghệ là phải giảm thiểu chi phí trong khi vẫn phải
đáp ứng sản xuất, phục vụ nhu cầu tối đa. Điều này chỉ có thể thực hiện đợc
khi doanh nghiệp chịu khổ đổi mới, tìm và sử dụng những công nghệ tiên
tiến phù hợp bằng nhiều cách khác nhau : Mua mới, sáng tạo, cải tiến Trớc
sự cạnh tranh gay gắt, một doanh nghiệp giậm chân tại chỗ cũng đồng nghĩa
với tụt lùi so với đối thủ. Vì vậy, cạnh tranh với bản chất kinh tế cũng nh xã
hội của nó đã thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất kinh
doanh trên con đờng tìm đến tối đa hoá lợi nhuận.
Những tác động tích cực trên có thể đợc quy về việc thúc đẩy sử dụng

có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực sẵn và sẽ có của doanh nghiệp (Nhân - tài
- vật lực). Để có hiệu quả tối u trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp phải tìm mọi cách để tối thiểu hoá chi phí trong khi doanh thu
phải đạt mức cao nhất. Từ yêu cầu trên, mô hình chung đã đặt các doanh
nghiệp vào vị trí cạnh tranh lẫn nhau trong việc tìm kiếm sử dụng và bồi d-
ỡng nguồn lực. Ví dụ : Quá trình tìm và sử dụng nguyên vật liệu cho kinh
doanh hay vốn để đầu t cũng chính là quá trình thiết lập mối quan hệ bạn
hàng với mỗi doanh nghiệp. Khi mà cạnh tranh thơng mại gay gắt thì độ bền
vững của quan hệ này là rất quan trọng, nó quyết định thế ổn định trong kinh
doanh của doanh nghiệp. Song song với việc củng cố mối quan hệ bên ngoài
theo kiểu liên minh (dọc, ngang) các doanh nghiệp phải quan tâm hơn cả vào
nội lực của nó - vốn con ngời. Bởi mọi nguồn lực đều có hạn chỉ duy nhất sức
sáng tạo của con ngời và vô hạn. Hiểu và khai hoá tốt đợc yếu tố này mới là
sự đảm bảo vững bền cho doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Nó thờng
đợc thực hiện qua chính sách khuyến khích, đãi ngộ với ngời lao động. Từ đó
làm tăng thêm quan hệ khăng khít vừa mang tính phụ thuộc vừa có xu hớng
độc lập giữa chủ và thợ trong một doanh nghiệp. Chính sự cạnh tranh đó đã
nâng cao đời sống, điều kiện làm việc của những lao động có kỹ năng tay
nghề cao. Đó sẽ là tiền đề cho những sáng kiến, cải tiến mới mang lại hiệu
quả cao hơn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nh vậy có thể nói rằng : sự cạnh tranh cùng với những áp lực vốn có đã
mang lại nguồn sinh lực mới cho doanh nghiệp. Rất có thể nó trở thành
những ngọn gió lành với nhiều doanh nghiệp. Song cũng không ít nhà kinh
doanh ngọn gió ấy chẳng lành chút nào nếu không muốn nói là dữ. Bởi đơn
giản cạnh tranh sẽ tất yếu dẫn tới phân cực - những ngời thành công và những
kẻ thất bại. Cho dù thành bại ở mức độ khác nhau, song mỗi chủ thể đều có
thêm những kinh nghiệm cho riêng mình trên chặng đờng tiếp theo trong
nghiệp kinh doanh.
2. Trên phơng diện nền kinh tế quốc dân

Cạnh tranh không chỉ tác động đối với các doanh nghiệp mà trên bình
diện của nền kinh tế quốc dân nó còn thể hiện vai trò của mình một cách tích
cực hơn nhiều thông qua những khía cạnh cơ bản sau :
Đảm bảo điều chỉnh quan hệ giữa cung và cầu : Vẫn biết rằng trạng thái
cân bằng tuyệt đối của thị trờng chỉ là ảo tởng ngay cả trong ngắn hạn. Nhng
mục tiêu duy trì trạng thái cân bằng tơng đối (cho phép) kiểm soát đợc cũng
không đơn giản chút naò. Ngoài việc điều tiết của chính phủ Nhà nớc với bàn
tay hữu hình thì sự đóng góp không nhỏ thuộc về bàn tay vô hình mà nổi trội
là quy luật cạnh tranh.
Nhờ có quy luật cạnh tranh mà các chủ thể kinh doanh biết ứng xử linh
hoạt khi có sự biến động thất thờng về cung cầu một loại hàng hoá dịch vụ
trong lĩnh vực nào đó. Bởi theo lý thuyết cạnh tranh đã nêu, cũng nh trên thực
tế hoạt động kinh doanh. Nếu xảy ra hiện tợng cung nhỏ hơn cầu thì tực khắc
các chủ thể cung ứng sẽ thể hiện sự năng động của mình bằng việc đầu t để
duy trì thị phần hoặc giãn ra đi tìm thị trờng mới (nếu chu kỳ sống sản phẩm
vẫn còn) hay mặt hàng mới (khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã tới hạn) để
tiếp tục công việc kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận tại những thị trờng về mặt
lý thuyết các chủ thể đó chỉ có thể đến với những thị trờng mà lợng cung nhỏ
hơn cầu. Điều này đồng nghĩa với hoạt động điều chỉnh thị trờng thiếu hụt
cung để cùng lúc đạt đợc sự cân bằng tơng đối giữa cung và cầu trong toàn
bộ nền kinh tế.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các nhà kinh doanh thực ra
không nhằm mục đích để cân bằng cung cầu (khi đó lợi nhuận kinh doanh sẽ
giảm, thậm chí phải bỏ cuộc) mà vì tối đa hoá lợi nhuận do bản chất kinh tế
của cạnh tranh. Để điều này thành hiện thực chắc chắn doanh nghiệp phải tìm
đến thị trờng có sức lao động. ở đó mức độ cạnh tranh thấp, đối thủ ít , thị tr-
ờng còn bỏ ngỏ nên chi phí kinh doanh thấp tạo điều kiện nâng cao lợi
nhuận. Nhng rồi cũng đến lúc thị trờng sẽ bão hoà cung cầu và quá trình cân
bằng lại tiếp tục diễn ra.

Thông qua quá trình cân bằng động đó, ngời hởng lợi nhuận hơn cả
chính là khách hàng (phía cầu). Có cạnh tranh tự do sẽ hạn chế đợc độc
quyền nhóm cũng nh cá nhân trong kinh doanh. Do đó, ngời tiêu dùng nói
chung sẽ tiết kiệm đợc một khoản chi tài chính nhất định để dùng cho việc
khác (tiết kiệm, đầu t..) và trên tổng thể nền kinh tế sẽ có thêm nguồn lực để
thực hiện tái đầu t sản xuất mở rộng tốt hơn nhằm phục vụ cho chu kỳ cân
bằng tiếp sau đó.
Điều tiết việc phân bổ và sử dụng nguồn lực sản xuất hiệu quả hơn : Bản
chất kinh tế của cạnh tranh sẽ dẫn nhà kinh doanh tìm và sử dụng nguồn lực
tối u để tăng hiệu quả kinh tế. Cạnh tranh sẽ điều phối nguồn lực của nền
kinh tế từ chỗ d thừa đến nơi thiếu hụt. Theo đó, doanh nghiệp sẽ định hớng
khai thác mở rộng thị trờng cha bão hoà đồng thời sẽ duy trì cơ cấu với
những thị trờng đi vào ổn định hoạt động này cùng lúc tối u hoá lợi ích nhà
kinh doanh và giảm thiểu chi phí mua sắm cho ngời tiêu dùng cả về thời gian
và tiền bạc.
Nh vậy, quy luật cạnh tranh thực sự là bàn tay vô hình mà hữu hiệu
trong việc phân bổ nguồn lực nền kinh tế quốc dân. Cùng với lợi nhuận bình
quân (giữa các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau) đã điều chỉnh
các doanh nghiệp trong quyết định vào ra thị trờng và phát triển thị phần của
mình một cách thích hợp. Từ đó nó sẽ gia tăng nguồn lực cần thiết cho những
thị trờng triển vọng mới và điều chỉnh hợp lý cơ cấu thị trờng đã phát triển
ổn định trong nền kinh tế.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cạnh tranh không chỉ điều tiết việc phân bổ sử dụng nguồn lực xã hội
một cách hiệu quả mà còn ảnh hởng tích cực đến quá trình phân phối thu
nhập trong xã hội. Thông qua cạnh tranh lành mạnh hoạt động sản xuất kinh
doanh ngày một phát triển hoàn thiện hơn. Hiện tợng độc quyền trong kinh
doanh đợc giảm thiểu. Nhờ đó các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tìm kiếm
lợi nhuận, cải thiện vị thế doanh nghiệp cũng nh nâng cao mức sống của ngời
lao động. Bởi khi đó, quyền lực thị trờng và lợi nhuận không còn tập trung

vào một hoặc một số ít kẻ quen thao túng thị trờng .
Cạnh tranh lành mạnh còn tạo ra cơ hội bình đẳng hơn cho ngời lao
động trong việc tìm kiếm, lựa chọn việc làm và thu nhập. Nhìn chung, sức lao
động sẽ đợc đánh giá đúng mức trong thị trờng lao động tự do. Tiền công mà
họ nhận đợc sẽ phản ánh tơng đối chính xác giá trị họ bỏ ra mà không chịu
sự chi phối, ép buộc nào. Thậm chí họ có quyền lựa chọn việc làm có mức
thu nhập cao và môi trờng lao động phải đảm bảo
Theo quan điểm này thì cạnh tranh phần nào đã thực hiện đợc vai trò với
xã hội trong việc chống lại sự phân hoá giàu nghèo. Đồng thời thúc đẩy sự
phát triển hơn nữa với ngời lao động nói riêng và xã hội nói chung.
Ngoài những vai trò kể trên cạnh tranh còn làm lạnh mạnh hoá sự phát
triển của hệ thống doanh nghiệp. Đây có thể nói là vai trò khá nổi trội và đợc
thể hiện rõ nét trong thực tế.
Chúng ta đều biết rằng cạnh tranh là sự ganh đua loại trừ nhau theo quy
luật của riêng nói nhng cũng đồng thời thúc đẩy các chủ thể cùng nhau phát
triển vơn lên. Trong cuộc đua đó nếu doanh nghiệp nào yếu kém đến mức
không theo nổi thì tự khắc sẽ bị diệt vong. Khoảng trống đó sẽ giành cho các
doanh nghiệp đủ mạnh sử dụng và khai thác nó. Việc hình thành, phát triển
rồi diệt vong của một doanh nghiệp là hiện tợng tự nhiên, cũng giống nh con
ngời không tránh khỏi vòng đời sinh - lão bệnh tử. Doanh nghiệp cũng
là một thực thể nên nó cũng có một chu kỳ sống nhất định.
Cạnh tranh sẽ làm cho chu kỳ sống của doanh nghiệp ngắn đi . Điều này
đồng nghĩa với việc khai thác tốt hơn quãng đời khoẻ mạnh của doanh nghiệp
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
để phục vụ cho nền kinh tế và mau chóng loại bỏ khi nó đi vào già yếu. Vì
vậy hệ thống doanh nghiệp sẽ phát triển tốt hơn và nền kinh tế sẽ tập trung đ-
ợc nguồn lực cho đổi mới phát triển mũi nhọn.
III. Năng lực cạnh tranh
1. Khái niệm
Để cạnh tranh có hiệu quả các doanh nghiệp không chỉ dừng ở việc vận

dụng những thuyết về lợi thế so sánh với các mô hình của Ricarđo và
Reckcher Ohlin mà trong những năm gần đây ngời ta còn lu ý sử dụng
khái niệm lợi thế cạnh tranh. Họ coi đây là khái niệm rộng hơn so với khái
niệm về lợi thế so sánh trong việc lý giải các hiện tợng và quá trình diễn ra ở
Thơng mại quốc nội cũng nh quốc tế. Lợi thế cạnh tranh chính là sức mạnh
tổng hợp của các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của sản phẩm. Đó là chi
phí cơ hội thấp, năng suất lao động cao (lợi thế so sánh), chất lợng sản phẩm
đảm bảo, nguồn cung cấp ổn định, chi phí vận chuyển và bảo quản thấp,
môi trờng thơng mại thông thoáng, thuận lợi Từ đó, yêu cầu với mỗi doanh
nghiệp phải phát huy đợc lợi thế cạnh tranh hay nói khác đi là cần thiết nâng
cao năng lực cạnh tranh trong quá trình kinh doanh để bảo đảm vị thế và lợi
ích của doanh nghiệp trên thị trờng.
Mặc dù thuật ngữ năng lực cạnh tranh đợc sử dụng rộng rãi trong lĩnh
vực kinh tế cũng nh nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống nhng đến nay vẫn
cha có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm
và cách thức đo lờng, phân tích năng lực cạnh tranh ở cả cấp quốc gia lẫn cấp
ngành cũng nh doanh nghiệp. Bởi có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực
cạnh tranh. Theo nghĩa hẹp, nó đợc thể hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực
trong mối quan hệ thơng mại còn rộng hơn, nó bao gồm cả khả năng sản xuất
hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh. Với Krugmar
(1994) thì lại cho rằng khái niệm về năng lực cạnh tranh chỉ phù hợp với cấp
độ Công ty, đơn giản là vì nếu một Công ty nào đó không đủ khả năng bù
đắp chi phí của mình thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vậy khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể đợc hiểu
nh sau : Năng lực cạnh tranh phản ánh mức độ đạt đợc lợi thế cạnh tranh và
các đặc trng kinh tế khác cuả doanh nghiệp nay so với doanh nghiệp khác.
Hay theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh của một
doanh nghiệp là khả năng đạt và duy trì đợc mức tăng trởng cao trên cơ sở
các chính sách, chiến lợc vững bền tơng đối và các đặc trng kinh tế khác.

Nh vậy mặc dù thuật ngữ năng lực cạnh tranh đợc sử dụng phổ biến nh-
ng nội dung, cách thức nghiên cứu nó cho từng đối tợng khác nhau là không
giống nhau. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động cụ thể của đối t-
ợng nghiên cứu.
2. Những yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thơng mại
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp thì tiêu chí
chung cho các nhà phân tích sẽ định hớng vào năng suất lao động, chi phí
đơn vị bình quân, vốn, cấu trúc tổ chức quản lýgọi chung thành bốn nhóm :
sản phẩm, lao động, vốn, công nghệ. Với doanh nghiệp thơng mại chuyên
hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực lu thông hàng hoá, dịch vụ, bốn nhóm nhân
tố này sẽ đóng vai trò nhất định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Sản phẩm : Nó nắm vai trò quan trọng vừa là đối tợng, vừa là công cụ
phơng tiện chính để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Sản
phẩm với doanh nghiệp thơng mại cũng có thể là hữu hình hoặc vô hình thậm
chí cùng lúc có cả hai. Có thể nói, sản phẩm là chiến sĩ tiên phong của
doanh nghiệp sản phẩm có tốt, có phù hợp với ngời tiêu dùng thì hàng mới có
cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt phải
thể hiện ở sản phẩm của doanh nghiệp đợc tiêu thụ nhiều, mang lại lợi nhuận
cao và ổn định.
Không phải tự nhiên mà yếu tố sản phẩm đợc xem xét khi phân tích
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Mà vì kinh doanh hiện đại doanh
nghiệp phải định kỳ vào khách hàng thoả mãn khách hàng bằng sản phẩm.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nếu không thực hiện đợc điều này coi nh doanh nghiệp bị khách hàng bỏ
qua. Lúc đó, chẳng những lợi nhuận không có mà nguy cơ phá sản sẽ đến gần
hơn (ngay cả khi các nhân tố khác vẫn dồi dào).
Lao động : Các yếu tố và công nghệ đợc xem là rất quan trọng với
doanh nghiệp dù hoạt động trong sản xuất hay thơng mại. Song lao động mới

là yếu tố quyết định hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi
suy cho cùng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra là do con ngời và vì con
ngời. Hơn thế học thuyết về giá trị thặng d của C.Mác đã làm rõ và khẳng
định giá trị thặng d có đợc là do lao động sống (con ngời) tạo ra trong quá
trình lao động.
Trong doanh nghiệp đánh giá khả năng cạnh tranh trên phơng diện lao
động, họ có thể xem xét đến trình độ, khả năng nghiệp vụ của nhân viên với
doanh nghiệp thơng mại thì tỷ lệ lao động trực tiếp và gián tiếp cũng đợc
phân tích đánh giá. Nhng dù là loại hình doanh nghiệp nào đi nữa thì thớc đo
cuối cùng chuẩn xác hơn cả vẫn là năng suất lao động. Đó là khả năng thực
hiện khối lợng công việc trong một đơn vị thời gian, hay nói khác đi trong
cùng một thời gian lao động đó thực hiện đợc bao nhiêu công việc (ở dạng
hiện vật hoặc giá trị bằng tiền). Với doanh nghiệp Thơng mại thờng đợc quy
về dạng doanh số bán/ một lao động.
Thớc đo năng suất lao động của nhân công rất có ý nghĩa trong hoạt
động quản trị doanh nghiệp. Nó là cơ sở để thực hiện các chế độ đãi ngộ với
ngời làm công đồng thời là cách thức chủ yếu để hãng thực hiện giảm giá
thành nâng cao khả năng cạnh tranh với đối thủ, phục vụ tốt hơn cho khách
hàng.
Do vậy, lao động là một vấn đề quan trọng của doanh nghiệp nhng cũng
đầy phức tạp. Việc đánh giá phân tích nó không chỉ dừng ở mặt lợng mà phải
quan tâm, chú trọng vào mặt chất. Từ đó mới có đánh giá sát thực để phục vụ
cho lợi ích lâu dài của Công ty.
Vốn trong doanh nghiệp : Có lẽ từ rất lâu rồi, giới kinh doanh đã ý
thức đợc tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động kinh doanh : buôn tài
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
không bằng dài vốn hay T bản vẫn thờng nói : Vốn sinh ra lờigần ấy thôi
đã cho ta thấy vẫn ảnh hởng đến năng lực cạnh tranh nh thế nào?
Cũng nh lao động, đồng vốn trong doanh nghiệp đợc xem là cạnh tranh
cao chỉ khi nó đạt đợc hiệu suất cao (một đồng vốn đầu t sẽ mang lại bao

nhiêu đồng lợi nhuận) đồng thời quy mô vốn phải đủ mạnh với doanh nghiệp.
Các thớc đo này đều phải xem xét thực hiện trong thời kỳ chứ nhất thiết
không đợc xét thời điểm. Thậm chí phải đánh giá trong dài hạn để đảm bảo
tính chính xác, khách quan và tính lôgíc, biến chứng trong tiến trình phát
triển.
Yếu tố vốn đợc phân tích ở đây sẽ là vốn tài chính của doanh nghiệp
(vốn tiền mặt và hiện vật có khả năng chuyển đổi thành tiền). Trong doanh
nghiệp Thơng mại do đặc thù của lĩnh vực hoạt động nên ở phần sau chỉ d đề
cập đén vốn bằng tiền hoặc tài sản chuyển đổi nhanh thành tiền (vốn hàng
hoá, hoá đơn quyền thu)
Vốn thật là quan trọng, song không phải là tất cả. Để sản xuất kinh
doanh có kết quả tốt cần phải kết hợp với nhiều yếu tố khác. Trong đó phải
kể đến công nghệ : Là tập hợp các tri thức phơng pháp quy trình, quy tầm kỹ
năng và kỹ xảo đợc sử dụng trong quá trình tác động vào đối tợng lao động
nhằm tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần phục vụ cho nhu cầu của đời
sống con ngời. Hay nó chính là tập hợp các phơng pháp nhằm tổ chức hoạt
động cung ứng sản phẩm cho khách hàng dựa trên kỹ năng kỹ xảo và cơ sở
hạ tầng, thiết bị đang có và sẽ có của một doanh nghiệp.
Yếu tố công nghệ thể hiện khả năng cạnh tranh của nó không chỉ nằm ở
mức độ tiên tiến hiện đại của dây truyền tổ chức mà còn ở tính hợp lý thích
ứng của nó với các yếu tố khác (nhất là con ngời). Bởi suy đến cùng thì mọi
hoạt động đầu t đều phải tính đến hiệu quả. Công nghệ kinh doanh của
DNTM ngoài cấu trúc tổ chức nhân sự ra còn phải kể tới phơng thức, hình
thức tổ chức sắp xếp giao dịch và bán sản phẩm. Nó chỉ có khả năng cạnh
tranh đợc với đối thủ khi công nghệ áp dụng phù hợp với hoạt động, đối tợng
của doanh nghiệp.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sơ đồ : Mối quan hệ 4 nhân tố đến năng lực cạnh tranh một doanh nghiệp
Lao động
Vốn Sản phẩm

Công nghệ
3. Các yếu tố ảnh hởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Ngoài bốn nhóm yếu tố đợc xem là nội sinh của năng lực cạnh tranh
trong doanh nghiệp đợc đề cập ở mục II
2
. Chúng thuộc về chiến lợc, cơ cấu tổ
chức của Công ty thì còn rất nhiều các tác động từ phía môi trờng bên ngoài
của Công ty. Chẳng hạn, chính sách, định hớng phát triển vĩ mô của chính
phủ nớc sở tại, văn hoá truyền thống của thị trờng, nhu cầu thị hiếu của
khách hàng và đặc biệt là chính sách chiến lợc cũng nh là số lợng đối thủ
cạnh tranh nhà cung ứng của Công ty sẽ ảnh hởng rất lớn đến sức cạnh tranh
của hãng, đến đầu t cho cạnh tranh để lôi kéo khách hàng, duy trì và phát
triển thị phần.
Về vấn đề này nhà kinh tế học M. Porter đã khẳng định rằng Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện trên chỉ số năng suất. Còn chỉ số này
lại phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của các Công ty.
Chính vì vậy, năng lực cạnh tranh của một quốc gia hay Công ty phụ thuộc
vào các yếu tố nào trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết định cho
phép các Công ty sáng tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh trên một lĩnh vực cụ
thể. Theo đó, M. Porter đã đa ra một khung khổ các yếu tố tạo nên lợi thế
cạnh tranh và duy trì năng lực cạnh tranh mà ông gọi là khối kim cơng các
lợi thế cạnh tranh. Trong đó các yếu tố này đợc ông phân chia một cách t-
ơng đối thành 4 nhóm :
NLCT của DN
Chiến lợc, cơ cấu của Công ty
và đối thủ cạnh tranh
Các điều kiện về
nhân tố sản xuất
Các điều kiện
về cầu

Các ngành bổ trợ và
các ngành liên quan
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sơ đồ 2 : Khối kim cơng các lợi thế cạnh tranh
Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất thể hiện vị thế của một quốc
gia (Công ty) về nguồn lao động có đào tạo, vốn, hạ tầng, tiềm năng khoa
học công nghệ
Nhóm các điều kiện về cầu phản ánh bản chất của nhu cầu thị trờng đối
với sản phẩm của doanh nghiệp.
Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có khả
năng cạnh tranh quốc tế.
Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lợc của Công ty và các đối
thủ cạnh tranh.
Ngoài ra, Porter còn nhấn mạnh đến vai trò chất xúc tác của Chính phủ
trong việc tạo lập, thúc đẩy và phổ biến điều kiện thuận lợi trong khối Kim
cơng.
4. Sự cần thiết khách quan nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
a. Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng
hoá.
Nó là đặc trng căn bản của sản xuất hàng hoá, chịu sự chi phối của quan
hệ cung cầu về hàng hoá. Khi cung lớn hơn cầu thì cạnh tranh càng gay gắt.
Cạnh tranh vận động theo sự biến đổi của quan hệ cung cầu, chịu tác động
bởi quy luật giá trị, quy luật hình thành giá cả và các quy luật kinh tế khách
quan khác. Dới tác động của các quy luật đó sự cạnh tranh trên thị trờng càng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mang tính quy luật. Một mặt, quy luật cạnh tranh không lệ thuộc vào ý muốn
chủ quan của ngời kinh doanh. Cùng với quy luật kinh tế khác quản lý cạnh
tranh buộc những hãng kinh doanh phải cạnh tranh với nhau trên thị trờng
bằng chính tiềm lực thực có của mình để tồn tại và phát triển trong nền kinh

tế thị trờng.
Quy luật cạnh tranh có tác động trực tiếp vào sự thay đổi tiềm lực nội tại
và phơng thức cạnh tranh của những doanh nghiệp. Nó buộc họ phải thay đổi
công nghệ, giảm giá thành, nâng cao chất lợng sản phẩm, mở rộng khả năng
phạm vi tiếp thị, tăng năng suất, đổi mới phơng pháp và bí quyết cạnh tranh
để tạo thế cũng nh lực cạnh tranh tốt hơn các đối thủ.
Vì vậy, không chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nớc cũng vận dụng quy
luật này trong việc hoạch định các chiến lợc, chính sách kinh tế - xã hội, xây
dựng pháp luật để điều tiết các quan hệ cạnh tranh trong nền kinh tế nhằm
đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia cũng nh ngời tiêu dùng và toàn xã hội
dựa trên tính u việt của cạnh tranh. Việc bất chấp quy luật cạnh tranh hoặc
vận dụng không đúng từ phía chính phủ đều phải trả giá hoặc là thủ tiêu cạnh
tranh, mất động lực phát triển tạo xu thế độc quyền hoặc là tạo môi trờng cho
cạnh tranh lành mạnh.
Ngoài ra quy luật này còn gắn liền với quy luật phát triển các loại thị tr-
ờng nội địa với mức độ gắn bó thị trờng nôị địa với thị trờng khu vực và thế
giới. Thị trờng phát triển đến đây thị trờng cạnh tranh phát triển đến đó. Nó
tùy vào điều kiện cạnh tranh do thị trờng tạo ra. Mức độ phát triển thực tế
trên của từng loại thị trờng và khả năng tiếp cận sức cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện có của Việt Nam mức độ và phạm vi
phát triển của thị trờng vốn, công nghệ, sức lao động là khác nhau. Sức
cạnh tranh của hàng hoá, doanh nghiệp cũng không giống nhau do khả năng
tiếp cận thị trờng và năng lực nội tại của doanh nghiệp quy định.
b. Tính tất yếu của nền kinh tế quá độ nhiều thành phần ở nớc ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của ĐCSVN đã đề ra chủ trơng phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Điều này phù hợp với luận điểm cho rằng : Trong thời kỳ quá độ lên CNXH
tất yếu phải tồn tại nền kinh tế đa thành phần. Hơn thế trong tác phẩm Bàn
về thuế lơng thực, Lênin đã viết : Danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận dụng

vào kinh tế có phải là trong chế độ hiện nay có những thành phần, bộ phận,
những mảnh của CNTB & CNXH không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là
có (VI. Lênin : toàn tập, NXB Tiến bộ Matxơcơva, t.43, trang 248) .
Vấn đề trong thời kỳ quá độ là phải phát huy và tận dụng tối đa tiềm
năng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phi XHCN để phát triển
kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân và phục vụ bớc quá độ lên CNXH.
Chấp nhận xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần cũng có nghĩa nhiều loại
hình sở hữu khác nhau đợc thừa nhận đặc biệt là sở hữu cá thể. Đây chính là
ngọn nguồn của những nỗ lực cạnh tranh, giành giật về lợi ích của mỗi chủ
thể sở hữu khác nhau. Qua đó làm gia tăng mức độ cạnh tranh của mọi chủ
thể trong cuộc sống. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh doanh thơng mại nó trở
nên gay gắt và quyết liệt theo đúng bản chất kinh tế thị trờng : mọi mối
quan hệ kinh tế đều đợc tiền tệ hoá.
c. Trớc những hiện thực khách quan đó, việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thơng mại Việt Nam nói
riêng là hết sức cần thiết. Nó trở thành điều kiện cần và đủ để doanh nghiệp
tồn tại, phát triển trong xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc cũng
nh tiến trình thơng mại hoá khu vực và thế giới. Bởi trên thế giới ngày nay,
kinh tế trở nên nổi trội, cuộc chiến để giành thắng lợi trong lĩnh vực kinh tế
đang diễn ra quyết liệt. Chiến trờng trong chiến tranh kinh tế là thơng trờng.
Chiến tranh thơng mại là trận chiến khách hàng. Ai muốn giành quyền kiểm
soát thị trờng phải thắng đối thủ về chất lợng, giá cả. Ai nắm đợc nhu cầu
khách hàng, sớm đa ra mặt hàng mới tốt hơn và sử dụng chiến lợc tiêu thụ
đúng đấn thì ngời đó sẽ chiến thắng đối thủ (V.I Lênin phần nói về chủ nghĩa
T bản). Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo lập sự thích ứng linh hoạt
có điều kiện cho doanh nghiệp để xây dựng vị thế tốt trên thị trờng mang ý
nghĩa vô cùng to lớn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần 2
Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh

của các doanh nghiệp thơng mại
I. Chính sách cạnh tranh của Việt Nam
1. Quan điểm về cạnh tranh trong nền kinh tế
Cả thời kỳ dài trớc đây, điều kiện vận hành cơ chế quản lý trong bao cấp
ở Việt Nam tồn tại dai dẳng. Sự độc quyền tuyệt đối của khu vực kinh tế
quốc doanh, không có cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Việc sản xuất
lu thông hàng hoá đều đợc thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nớc và mệnh
lệnh hành chính của cơ quan quản lý cấp trên. Hậu quả là nền kinh tế không
có động lực phát triển, chỉ chạy theo báo cáo h danh làm cho cơ chế kinh tế
thị trờng bị thủ tiêu môi trờng vận động.
Kể từ khi đổi mới Việt Nam từng bớc thừa nhận sự tồn tại của nhiều
thành phần kinh tế khác nhau. Đây đợc xem là động thái tích cực trong việc
chấp nhận sự cạnh tranh trong kinh tế của Nhà nớc và nhiều chủ thể kinh
doanh. Không dừng ở bớc khởi đầu đó, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng luật
khuyến khích cạnh tranh và hạn chế độc quyền, dự định sẽ hoàn thành và áp
dụng trong năm 2002. Điều này cho thấy sự thống nhất giữa cơ quan quản lý
và chủ thể kinh doanh trong việc tôn trọng quy luật cạnh tranh hay cụ thể
hơn là cạnh tranh lành mạnh ở lĩnh vực kinh tế.
Theo đối, cạnh tranh đúng pháp luật đợc xem là động lực để phát triển
kinh tế xã hội. Các cá nhân, doanh nghiệp tham gia kinh doanh phải có trách
nhiệm xây dựng môi trờng cạnh tranh lành mạnh, ngăn chặn nguy cơ độc
quyền bất hợp pháp và giảm thiểu độc quyền hợp pháp. Qua đó tự hoàn thiện
mình trớc đối thủ cạnh tranh.
Để ủng hộ quan điểm trên phía Chính phủ đã và đang giảm dần lĩnh vực
mà Nhà nớc nắm giữ độc quyền (do yêu cầu chính trị) đồng thời giám sát
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chặt chẽ các Công ty có vị thế khống chế thị trờng. Đây là việc làm cần thiết
trên phơng diện kinh tế. Bởi còn độc quyền theo kiểu đó thì sự phát triển kinh
tế tiếp tục bị kìm hãm (do không có sân chơi công bằng). Sở dĩ có tiêu cực
nh vậy là do độc quyền ở Việt Nam không theo quy luật phát triển cơ bản -

quá trình tích tụ và phát triển vợt bậc về tiềm lực, năng lực kinh doanh thực
sự mà lại theo con đờng chính trị thừa nhận, lập ra vì nhiều mục tiêu khác
nhau chứ không đơn thuần chỉ mục tiêu kinh tế.
Tuy vậy, ở khía cạnh tích cực thì độc quyền cũng tạo ra động lực nhất
định (nếu đó là độc quyền tự nhiên). Bởi hai trạng thái này có sự chuyển hoá
lẫn nhau khi đủ điều kiện. Sự độc quyền luôn triệt tiêu nguyên tắc cạnh tranh
tự do, công bằng. Song việc phát triển cạnh tranh mạnh mẽ bằng tiềm lực và
sức mạnh của mình hoặc do khả năng hạn chế buộc các đối thủ phải hợp tác,
liên kết với nhau để tạo u thế cạnh tranh đều dẫn đến xu thể độc quyền. Quá
trình này thực chất là phá bỏ những hãng độc quyền cũ và xây dựng độc
quyền mới bằng con đờng cạnh tranh liên kết. Đó cũng là hiện tợng mang
tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển chinh phục.
Thực hiện chủ trơng trên cũng hàm ý chính phủ khuyến khích các chủ
thể kinh doanh tham gia cạnh tranh lành mạnh một cách tự do (trong giới hạn
pháp luật cho phép) lựa chọn cơ hội một cách bình đẳng trên thị trờng. Mọi
hoạt động cạnh tranh lành mạnh của họ sẽ đợc sự bảo trợ của luật pháp. Trái
lại họ sẽ phải trả giá không mấy dễ chịu.
Quan niệm cạnh tranh của Việt Nam cũng giống nh nhiều nớc phát triển
khác. Nó cũng hởng tới bảo vệ cả quyền lợi ngời tiêu dùng - quyền tự do lựa
chọn, quyền khiếu nại với sản phẩm doanh nghiệp thiếu trung thựcMặc dù
hiện tại Việt Nam cha có đợc luật bảo vệ ngời tiêu dùng song nhà nớc cũng
bớc đầu thực thi pháp lệnh bảo vệ ngời tiêu dùng. Đây là bớc tiến quan trọng
trong quá trình xây dựng môi trờng cạnh tranh lành mạnh. Bởi muốn khuyến
khích cạnh tranh đồng thời chống đợc độc quyền thì hành động của phía ngời
tiêu dùng sẽ đóng góp phần không nhỏ cùng sự nỗ lực thực sự của nhà kinh

×