Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Khai thác lợi thế cạnh tranh cho áo sơ mi Việt Tiến trong thị trường nội địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.97 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................1
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2015-2020………..........12
Bảng 2. Năng lực sản xuất của Tổng công ty may Việt Tiến
........................................ ........................................ Error: Reference source not found
Bảng 3. Chỉ tiêu 6 tháng đầu 2010 của Tổng công ty cổ phần may Việt
Tiến……….. Error: Reference source not found
Bảng 4. Ma trận hình ảnh cạnh
tranh........................................................ ..................... Error: Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình quốc tế hóa và xu thế hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ và trở thành một
xu hướng phát triển trong tương lai. Chúng ta đã và đang ngày càng tích cực tham gia
vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới, mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc gia, đem
lại triển vọng tốt đẹp cùng những thách thức lớn cho sự phát triển của nền kinh tế nước
nhà. Trong đó thách thức lớn nhất có lẽ là sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài ở mọi ngành kinh tế.
Ngành dệt may vốn là một ngành truyền thống của dân tộc ta. Tuy nhiên, trong
nhiều năm dệt may dường như chỉ chú trọng tới thị trường xuất khẩu mà bỏ quên thị
trường trong nước, để cho hàng hóa nước ngoài chiếm lĩnh phần lớn thị trường. Mặc dù
môi trường nội địa được đánh giá là tiềm năng, 86 triệu dân với nhu cầu tiêu dùng các
sản phẩm may mặc là rất lớn nhưng tỷ lệ nội địa hóa chỉ chiếm 25%. Thời gian gần đây,
các doanh nghiệp dệt may trong nước đang quay trở lại và xây dựng những chiến lược
nội địa hóa cho riêng mình. Cuộc cạnh tranh trong nước cũng diễn ra không kém phần
gay gắt.
Tổng công ty Cổ phần may Việt Tiến (gọi tắt là May Việt Tiến) là một trong
những doanh nghiệp dệt may trong nước cũng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc
liệt đó. Với phương châm hoạt động “cam kết không ngừng nâng cao sự thỏa mãn của
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


khách hàng và người lao động” và mục tiêu chiếm lĩnh thị trường nội địa, May Việt Tiến
cần nắm bắt được các lợi thế của mình để khai thác một cách tối đa, có hiệu quả nhất .
Chính vì vậy, em chọn đề tài “Khai thác lợi thế cạnh tranh cho áo sơ mi Việt Tiến trong
thị trường nội địa”. Qua đề tài này, dựa trên các vấn đề lý thuyết về cạnh tranh và các
yếu tố liên quan, em áp dụng đánh giá, phân tích các cơ sở để sản phẩm của May Việt
Tiến khai thác lợi thế cạnh tranh tại thị trường nội địa và đề xuất một số giải pháp để
khai thác các lợi thế đó.
Do thời gian và trình độ có hạn nên chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót và hạn chế.
Vì vậy em rất mong được sự góp ý và nhận xét của thầy cô để đề tài của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS.TS Ngô Kim Thanh và cô giáo Th.S Tạ
Thu Phương đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH, LỢI THẾ CẠNH TRANH
1.1. Khái niệm về cạnh tranh
1.1.1 Các quan niệm về cạnh tranh
Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận trong mọi hoạt động
kinh tế đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh là môi trường, động lực của sự phát
triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu
quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội.
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh vực
như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao; thường xuyên được
nhắc tới trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các phương tiện thông
tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn
đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về “cạnh tranh”, cụ thể như sau:
Theo C.Mác: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu
được lợi nhuận siêu ngạch ". Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và
cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản
chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí
sản xuất và khả năng có thể bán hành hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi
nhuận.
Các tác giả trong cuốn "Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh
kiểm soát độc quyền kinh doanh, thuộc sự án VIE/97/016 thì cho rằng: Cạnh tranh có thể
được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản
xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt đựơc một
mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh
trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua.
Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt
động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện
sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi nhất.
Theo Michael Porter: Cạnh tranh hiểu theo cấp độ doanh nghiệp là việc đấu tranh
hoặc giành giật từ một số đối thủ về khách hàng, thị phần hay nguồn lực của doanh
nghiệp. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức
lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình
quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có
thể giảm đi. Tuy nhiên, cạnh tranh không phải là tiêu diệt đối thủ mà doanh nghiệp phải
tạo ra và mang lại cho khách hàng những giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn đối
thủ mà họ có thể lựa chọn cho mình.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong
lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào
sự phát triển kinh tế. Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm
bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải
tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản
xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao

năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc
quyền thì thường trì trệ và kém phát triển. Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cho người tiêu dùng. Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất
lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công
nghệ trong đó cao hơn...để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Cạnh tranh là tiền
đề của hệ thống free-enterprise vì càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản
phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Nói cách
khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá trị tối ưu nhất đối với những đồng tiền
mồ hôi công sức của họ.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về
mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa
mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng
các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế
bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như
những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin
phá hoại,…) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi
trường sinh thái.
Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng thời
cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi
người và cho cộng đồng, xã hội.
1.2 Lợi thế cạnh tranh
1.2.1 Khái niệm và quan điểm tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp
Những lợi thế được doanh nghiệp tạo ra và sử dụng cho cạnh tranh thì được gọi
là lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh còn được hiểu như các đặc điểm hay các biến số
của sản phẩm hoặc nhãn hiệu, mà nhờ có chúng doanh nghiệp tạo ra một số tính vượt
trội hơn so với những đối thủ cạnh tranh trực tiếp.
Lợi thế cạnh tranh có được từ bên ngoài khi chúng dựa trên chiến lược phân biệt

sản phẩm, hình thành nên giá trị cho người mua, hoặc bằng cách giảm chi phí sử dụng,
hoặc bằng cách tăng khả năng sử dụng. Lợi thế này tạo cho doanh nghiệp “quyền lực thị
trường” mạnh mẽ. Lợi thế cạnh tranh có được từ bên trong doanh nghiệp dựa trên tính
ưu việt của doanh nghiệp trong việc làm chủ chi phí sản xuất. Nó tạo nên giá trị cho
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người sản xuất bằng cách tạo ra cho doanh nghiệp một giá thành thấp hơn so với đối thủ
cạnh tranh trực tiếp.
Sử dụng lợi thế cạnh tranh để chiến thắng đối thủ doanh nghiệp cần phải đáp ứng
được những yêu cầu nhất định
Một là, phải xác định được chính xác đối thủ cạnh tranh. Yêu cầu này được hiểu
là nắm vững về tiềm lực, khả năng của đối thủ.
Hai là, khi muốn tạo lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp cần lựa chọn vũ khí cạnh
tranh cho phù hợp và tìm ra phương pháp sử dụng tối đa hiệu quả các khí giới đó. Lựa
chọn vũ khí cạnh tranh là bước đầu, song để đạt được kết quả trong cạnh tranh cần phải
có thời gian, công sức để chuẩn bị vũ khí sao cho phát huy được hiệu quả cao nhất của
công cụ đó.
1.2.2 Các vũ khí cạnh tranh chủ yếu
Các doanh nghiệp đang sử dụng công cụ phổ biến trong quá trình cạnh tranh sôi
động hiện nay là:
Thứ nhất, chất lượng của hàng hóa. Trên thị trường nếu nhiều hàng hóa công có
công cụ như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẽ sẵn sàng mua hàng hóa nào
có chất lượng cao hơn. Do đó, đây là công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh
nghiệp sử dụng để chiến thắng các đối thủ cạnh tranh. Công ty dệt Thái Tuấn hiện nay là
một ví dụ. Với chất lượng vải gấm nổi tiếng, công ty đã khẳng định vị trí đối với người
tiêu dùng và không ngừng mở rộng thị phần trong cả nước. Tuy nhiên, chất lượng của
hàng hóa phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng đơn vị sản xuất, từng ngành, từng
vùng và từng quốc gia.
Thứ hai, giá cả hàng hóa. Hai hàng hóa có cùng công dụng, chất lượng như nhau
thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hóa nào có giá rẻ hơn. Giá cả hàng hóa được quyết định

bởi giá trị hàng hóa. Song sự vận động của giá cả còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán
của người tiêu dùng. Mức sống còn thấp, người tiêu dùng tìm mua những hàng hóa có
giá rẻ. Thực tế cho thấy phần lớn hàng tiêu dùng Trung Quốc được tiêu thụ mạnh tại
Việt Nam. Các nhà sản xuất đã thực hiện một chiến lược khách hàng là sản xuất các loại
hàng hóa có khả năng thanh toán thấp về phía mình. Trong khi doanh nghiệp để cạnh
tranh về giá, một số doanh nghiệp chấp nhận lời ít bán giá thấp, nhưng dùng số nhiều để
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thu lại lợi nhuận. Ngược lại khi có mức sống cao hơn người tiêu dùng sẽ quan tâm nhiều
đến những hàng hóa có chất lượng tốt chấp nhận mức giá cao.
Thứ ba, áp dụng khoa học – kỹ thuật và quản lý hiện đại. Sức cạnh tranh hàng
hóa của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng hóa cá biệt của họ thấp hơn giá cả
trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung các
nguồn lực để tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng
hóa nhằm làm cho giá trị hàng hóa cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy,
các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp tác hóa sản xuất,
nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật và quản lý hiện đại vào quá
trình sản xuất kinh doanh. Thực tiễn đã chứng minh các doanh nghiệp tồn tại và phát
triển được cần có dây chuyền công nghệ mới, hiện đại có phương pháp tổ chức quản lý
khoa học.
Thứ tư, lợi thế về thông tin. Thông tin là một công cụ cạnh tranh lợi hại của
doanh nghiệp. Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng,
về giá cả, đối thủ cạnh tranh,… có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Đủ
thông tin và sử dụng thông tin, một mặt, giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong kinh
doanh; mặt khác, qua thông tin có thể tìm ra và tạo ra “lợi thế so sánh” của doanh nghiệp
trên thương trường, chuẩn bị và đưa ra đúng thời điểm những sản phẩm mới thay thế để
tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa. Thông tin đủ, đúng lúc hoặc tạo ra những nhu
cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai trái làm biến dạng thị trường. Vì thế, không ngạc
nhiên khi tình trạng quảng cáo sản phẩm hiện nay của các doanh nghiệp xuất hiện ngày
càng nhiều hơn trên phương tiện truyền thông đại chúng, chi phí cho hoạt động quảng

cáo, giới thiệu, trưng bày sản phẩm chiếm tất yếu nhất định trong chi phí chung của cả
doanh nghiệp.
Thứ năm, phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Phương thức phục vụ và thanh toán là công cụ cạnh tranh khá quan trọng.
Ai nắm giữ được công cụ này sẽ thắng trong cạnh tranh. Bởi vì, công cụ này tạo được sự
tiện lợi cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh toán trước hết được thể hiện ở ba
giai đoạnh của quá trình bán hàng: trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau
khi bán hàng.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trước khi bán hàng, các doanh nghiệp thực hiện các động tác như: quảng cáo,
giới thiệu, hướng dẫn thị hiếu khác hàng, cách triển lãm, trừng bày hàng hóa. Những
động tác này nhằm hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp
mình. Trong quá trình bán hàng, khâu quan trọng nhất là nghệ thuật chào mời khách
hàng. Điều này đòi hỏi người bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng, lịch sự, ân cần
và chu đáo. Sau khi bán hàng phải có những dịch vụ như bao bì và giao hàng hóa đến tận
tay người mua, các dịch vụ trên sẽ phát huy tác dụng khi được bảo đảm các yêu cầu sau:
các dịch vụ phải nhanh, chính xác,… phương thức thanh toán một lần, thanh toán chậm
(bán chịu), bán trả góp, bán có thưởng, thanh toán linh hoạt khi trả bằng ngoại tệ.
Thứ sáu, tính độc đáo của sản phẩm. Mọi sản phẩm khi xuất hiện trên thương
trường đều mang một chu kỳ sống nhất định, đặc biệt “vòng đời” của nó sẽ rút ngắn khi
xuất hiện sự cạnh tranh. Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, các doanh nghiệp dùng
nhiều biện pháp trong đó có biện pháp thường xuyên cải tiến một mặt sản phẩm, tạo ra
nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trường những sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ.
Trong điều kiện doanh nghiệp chưa đủ sức tạo ra tính tương lai độc đáo của sản phẩm
đang được uy tín trên thị trường thông qua hình thức liên doanh. Sự thay đổi thường
xuyên về mẫu mã, nhãn hiệu hàng hóa cũng như việc không ngừng nâng cao chất lượng,
tính năng hàng hóa sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp
hiện nay.
Thứ bảy, chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong quá trình

điều kiện các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm giành giật khách hàng vè phía
mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toán như quy ước về giá
cả, số lượng, kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản hoặc bằng miệng hay việc thanh toán với
các hình thức như bán trả góp, bán chịu, bán gối đầu,… Những hành vi này sẽ thực hiện
được tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và khác hàng có lòng itn với nhau. Do vậy, chữ tín
trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh
chóng, tiện lợi. Mặt khác, công cụ này còn tạo ra cơ hội cho những người vốn ít có điều
kiện tham gia kinh doanh, do đó mở rộng được thị phần hàng hóa…, tạo sức mạnh cho
doanh nghiệp. Những ưu điểm đó giải thích vì sao trong cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì doanh nghiệp ngoài quốc
doanh thường linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Tuy
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhiên, sử dụng công cụ này đòi hỏi các chủ thể cạnh tranh phải có bản lĩnh. Bởi vì, có
nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh như tình trạng “chụp giật”, “bể bụi”, đối tác làm ăn có ý
đồ đen tối.
Thứ tám, lợi thế của các yếu tố mới sáng tạo và sự mạo hiểm, rủi ro. Trong kinh
doanh, lợi nhuận doanh nghiệp thường tỉ lệ thuận với sự mạo hiểm, rủi ro. Các chủ thể
kinh doanh có khuynh hướng đầu tư kinh doanh (kể cả đầu tư nghiên cứu khoa học) vào
những mặt hàng mới, những lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thường cao. Đây cũng là
khuynh hướng khách quan, vì nó hy vọng thu được lợi nhuận trong tương lai. Mặt khác,
nó giảm được áp lực từ phái các đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo hiểm chấp nhận rủi
ro nhằm thu được lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh tranh
cực kỳ hiệu quả, nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm trong quá trình cạnh tranh. Việc sử dụng
hiệu quả công cụ này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài năng và bản lĩnh.
1.3 Xây dựng và củng cố năng lực cốt lõi của doanh nghiệp
Năng lực cốt lõi là nền tảng cho mọi chiến lược mới hoặc chiến lược được điều
chỉnh. Thuật ngữ năng lực cốt lõi nhằm chỉ sự thành thạo chuyên môn hay các kỹ năng
của công ty trong các lĩnh vực chính trực tiếp đem lại hiệu suất cao. Ví dụ trong những
năng lực cốt lõi của Sony là khả năng kết hợp vi điện tử với những thiết kế đầy sáng tạo

trong một loạt các sản phẩm tiêu dùng hữu ích. Trong nhiều năm liền, Corning đã tạo ra
các dòng sản phẩm thành công, từ đĩa chịu nhiệt Pyrex dùng trong lò nướng đến đèn
hình ti vi hay sợi quang học từ năng lực cốt lõi liên quan đến vật liệu thủy tinh và gốm
sứ…
Như vậy, năng lực cốt lõi của doanh nghiệp thường được hiểu là những khả
năng mà doanh nghiệp có thể làm tốt, nhưng phải đồng thời thỏa mãn 3 điều kiện:
- Khả năng đó đem lại lợi ích cho khách hàng;
- Khả năng đó đối thủ cạnh tranh rất khó bắt chước
- Có thể vận dụng khả năng đó để mở rộng cho nhiều sản phẩm và thị trường
khác.
Năng lực cốt lõi có thể là công nghệ, bí quyết kỹ thuật, mối quan hệ thân thiết
với khách hàng, hệ thống phân phối, thương hiệu mạnh. Năng lực cốt lõi tạo nên lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong kinh doanh,
khi phát triển sản phẩm, dịch vụ mới doanh nghiệp thường dựa vào năng lực cốt lõi, tức
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những thế mạnh sẵn có của mình. Đây được xem là ưu tiên hàng đầu đối với nhiều
doanh nghiệp khi xem xét các quyết định phát triển sản phẩm, dịch vụ mới bổ sung cho
sản phẩm, dịch vụ hiện có. Năng lực cốt lõi sẽ tạo cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh,
giúp giảm thiểu rủi ro trong việc xây dựng mục tiêu và hoạch định chiến lược, góp phần
quyết định vào sự thành bại của các dự án. Các doanh nghiệp cần chú ý rằng :
- Thứ nhất, năng lực cốt lõi không phải tự nhiên mà có. Nó được hình thành và
phát triển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, sau khi doanh nghiệp đã mày mò thử, sai
nhiều lần. Thế mạnh cũng từ đó hình thành và được củng cố dần. Năng lực được sinh ra
trong quá trình phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới và dần dần hoàn thiện để trở thành
“cốt lõi”, mang lại thế mạnh và lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Thứ hai, năng lực cốt lõi khi đã có thì không có nghĩa là sẽ dừng lại. Chúng cần
phải được tiếp tục xây dựng, phát triển thêm cả về chất lượng lẫn số lượng. Muốn mở
rộng, xây dựng năng lực cốt lõi mới, có khi doanh nghiệp phải bắt đầu từ một năng lực
thông thường, thậm chí từ con số không.

- Thứ ba, nếu chỉ phát triển sản phẩm, dịch vụ mới dựa trên năng lực cốt lõi thì
cũng có nghĩa là chỉ tìm bán cái chúng ta có (hoặc có thể làm được), chứ không phải cái
thị trường cần – điều này trái với nguyên lý marketing thông thường. Vấn đề là phải biết
tận dụng cơ hội từ thị trường, dám chấp nhận rủi ro. An toàn hơn, nhiều doanh nghiệp đã
liên kết, liên doanh để tận dụng năng lực cốt lõi của nhau. Cơ hội thị trường nhiều khi
mang yếu tố khách quan, không phụ thuộc vào năng lực cốt lõi của doanh nghiệp nào,
nếu cứ nhất nhất dựa vào năng lực cốt lõi của mình, có khi sẽ đánh mất cơ hội.
Hợp tác, liên kết, liên doanh, dựa vào thế mạnh của đối tác, rồi dần dần xây
dựng năng lực cốt lõi cho mình là một trong những quyết sách khôn ngoan, đem lại sự
thành công vượt bậc cho nhiều doanh nghiệp trong thời gian gần đây.
1.4 Phân tích môi trường vĩ mô của ngành may Việt Nam
1.4.1 Vị trí của ngành may trong nền kinh tế
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các sản phẩm về may mặc ngày
càng hoàn thiện, các sản phẩm may mặc ngày càng phổ biến. Cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật cùng với những phát minh khoa học trong lĩnh vực công nghiệp đa giúp cho
ngành dệt may có sự phát triển vượt bậc.
9

×