Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Khoá luận tốt nghiệp thế giới nghệ thuật thơ thanh thảo qua hai tập dấu chân qua trảng cỏ và khối vuông rubic

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

ĐOÀN VĂN Sĩ

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ
THANH THẢO QUA HAI TẬP
DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ
VÀ KHÓI VUÔNG RUBIC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
ThS. D Ư ƠN G THỊ THỦY HẰNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô
giáo: ThS. Dương Thị Thúy Hằng - người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo


để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ Văn,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi được thực hiện khóa
luận này, đây là một cơ hội tốt để tôi bước đầu hình thành các kĩ năng nghiên cứu
khoa học.
Mặc dù đã có những cố gắng song chắc chắn khóa luận không thế tránh khỏi
những thiếu sót, tôi mong rằng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô
và các bạn để khoá luận hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 01 tháng 05 năm 2015
Tác giả khóa luận

Đoàn Văn Sĩ


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận này là kết quả của bản thân tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu. Bên cạnh đó, tôi nhận được sự quan tâm của các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ
Văn, đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo: ThS. Dương Thị Thúy
Hằng.

Hà Nội, ngày 01 tháng 05 năm 2015
Tác giả khóa luận

Đoàn Văn Sĩ


M Ụ C LỤ C


MỞ Đ Ầ U ......................................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề t à i ...................................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đ ề ....................................................................................................................... 1
3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên c ứ u ....................................................................................3
4. Phương pháp nghiên c ứ u ...................................................................................................3
5. Cấu trúc khóa lu ậ n .............................................................................................................. 3
NỘI D U N G ................................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT C H U N G ................................................................................. 4
1.1. Thế giới nghệ thuật th ơ .................................................................................................. 4
1.2. Thơ Việt Nam thời hậu chiến (19 75-19 85 )...............................................................5
1.3. Thanh Thảo: Tiểu sử - Hành trình sáng tác - Quan niệm nghệ thuật................. 7
1.3.1. Tiếu s ử .........................................................................................................................7
1.3.2. Hành trình sáng tá c ..................................................................................................8
1.3.3. Quan niệm nghệ th u ậ t........................................................................................... 19
1.4. Hai tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ và Khối vuông R ubic..................................18
1.4.1. Dấu chân qua trảng cỏ (1 978)............................................................................ 18
1.4.2. Khối vuông Rubic ( Ị 9 8 5 ) ..................................................................................... 19
CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG NGHỆ THẬT CHỦ ĐẠO TRONG DẤU CHẤN QUA
TRẢNG CỎ VÀ KHÔI VUÔNG R U B Ỉ C ............................................................................. 21
2.1. Cảm hứng sử thi............................................................................................................. 21
2.1.1. Cảm hứng về chiến tranh bi

tráng.................................................................. 22

2.1.2. Cảm hứng về cái tôi thê h ệ .................................................................................. 23
2.2. Cảm hứng thế sự - đời t ư .............................................................................................30
2.2.1. Triết luận về đời sổng (đời thường, tình yêu và hạnh p h ú c . .. ) ...................31
2.2.2. Đổi thoại với quá k h ứ ............................................................................................34
CHƯƠNG 3: M ỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN HÌNH THỨC NGHỆ TH U ẬT TRONG

DẤU CHẦN QUA TRẢNG CỎ VÀ KH ÓI VUÔNG R Ư B I C ..........................................37


3.1. Thể t h ơ ............................................................................................................................. 37
3.1.1. Thơ lục bá t................................................................................................................37
3.1.2. Thơ tự d o .................................................................................................................. 38
3.1.3. Thơ văn x u ô i ............................................................................................................40
3.2. Biểu tượng t h ơ ................................................................................................................ 41
3.2.1. Biêu tượng c ỏ ..........................................................................................................42
3.2.2. Biêu tượng ngọn lử a ..............................................................................................44
3.3. Ngôn ngữ t h ơ ..................................................................................................................47
3.3.1. Ngôn ngữ đậm chât đời thường............................................................................47
3.3.2. Ngôn ngữ thơ nhiêu khoảng t r ô n g ...................................................................... 49
KẾT L U Ậ N ................................................................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thanh Thảo là một gương mặt cá tính, khó nhầm lẫn trong đội ngũ các nhà
thơ trẻ thời kì chống Mĩ, một cây bút luôn biết tự làm mới mình bằng những sáng
tạo và cách tân độc đáo. Ỏ ông, hiện lên một người nghệ sĩ kiên trì, quyết liệt, sống
hết mình với thơ, với cái đẹp. Ông luôn luôn tìm tòi, đối mới hình thức nghệ thuật,
mở rộng biên độ sáng tác.
Trưởng thành từ trong phong trào thơ trẻ những năm cuối của cuộc kháng
chiến chống M ĩ cứu nước, tiếng thơ Thanh Thảo là một tiếng nói riêng, khó nhầm
lẫn, một tiếng nói trung thực của một thế hệ cầm súng đứng trước vận mệnh của dân
tộc và lịch sử. Sau 1975, đặc biệt trong giai đoạn hậu chiến (1975 - 1985), Thanh
Thảo đã dành nhiều tâm huyết cho việc đổi mới thơ ca, làm mới hình thức biểu đạt
của thơ, cách tân cấu trúc thơ với những cảm hứng nghệ thuật đậm chất nhân sinh.

Điều này được thế hiện rõ nét trong thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo. Việc tìm
hiếu thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo chính là việc tìm hiếu sự sáng tạo nghệ
thuật, quan niệm về nghệ thuật, các phương diện hình thức nghệ thuật... của tác giả.
Không chỉ là tác giả thơ định hình phong cách sáng tác khá rõ nét, sáng tác
của Thanh Thảo còn hiện diện trong chương trình giáo dục phổ thông, với thi phẩm
Đàn g h i ta của Lorca. Điều này có thể xem là một bằng chứng về sự ghi nhận
những đóng góp của Thanh Thảo đối với nền thơ hiện đại Việt Nam.
Trong hệ thống tác phẩm khá bề thế của Thanh Thảo, hai tập Dấu chân qua
tràng cỏ và K h ối vuông Rubỉc được xem là hai tập thơ tiêu biểu hơn cả. Chúng tôi
cho rằng, việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong hai tập thơ này sẽ góp phần quan
trọng trong việc hình dung rõ nét về phong cách nghệ thuật thơ Thanh Thảo.
Trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn đề tài: “T h ế giới n g h ệ th u ậ t th ơ Thanh
Thảo qua h ai tập D ấu chân qua trảng cỏ và Khối vuông R ubỉc
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, đã có rất nhiều các ý kiến, bài viết, chuyên luận, luận văn, luận
án... bàn về thơ Thanh Thảo. Đa số các nhà nghiên cứu khi đánh giá về Thanh Thảo

1


đều đánh giá thơ ông “mớ/” và “lạ”, một bản lĩnh thơ luôn táo bạo, quyết liệt với sự
cách tân thơ ca rõ rệt.
Trong bài Tha nh Thảo - nghĩa k h í và cách tân {2004), TS. Chu Văn Sơn
khẳng định: “ Fđ đến nay, dấu ẩn mạnh m ẽ anh gieo vào lòng người đọc cũng là
những táo bạo của một bản lĩnh dám dấn thân, dám tiên phong. Đó không p hả i là
những dấu chân thảm cỏ thời gian hiền lành mà những dấu chân m ở loi giữa chông
gai nhiều khi rớm m á u”.
Ớ T ha nh Thảo - g ư ơ n g m ặt tiêu biếu sau 1975, nhà nghiên cứu PGS.TS.
Bích Thu đã đưa ra ý kiến sắc sảo: “Thanh Thảo đã đem đên cho người đọc một
thực đơn tỉnh thân mới mẻ và độc đáo, làm p hong p h ủ tiêng nói của thơ hôm nay”.

PGS.TS. Mai Hương trong bài “N g h ĩ về đóng góp của đội ngũ trẻ trong th ơ
chốn g M F’ in trên Tạp chí Văn học số 1 năm 1981, đã đánh giá “ Thanh Thảo là một
trong những cây bút tiêu biêu cho khuynh hướng tăng cường chất chính luận khái
quát trong thơ ca chong M 7 \
Trong bài viết T hanh Thảo - N h à th ơ của n h ữ n g cách tân đầy sáng tạo,
tác giả Đỗ Quang Vinh cho rằng “Thanh Thảo đặc biệt chủ ỷ đến việc xây dựng các
hệ thông hình tượng được kêt câu theo kiêu phức điệu của âm nhạc giao hưởng
nhằm tạo ra nhiều tầng ngữ nghĩa đa dạng và độc đảo. Có khi anh sử dụng thủ
pháp đong hiện - so sánh của điện ảnh, có khi là thủ phảp giản cách, ước lệ của
sân khâu hiện đại, có khỉ anh mô phỏng lôi nói của nhà thơ dấn gian Việt Nam
nhưng thôi vào đó tâm hồn của thời đại mình đang sông. Thơ anh trong những
trường hợp này luôn giàu nhạc tỉnh và trùng điệp hình tượng, câu trúc cấu thơ, bài
thơ biên hóa một cách thông minh, kì ảo”.
Và rất nhiều nhà nghiên cứu khác cũng quan tâm đến thơ Thanh Thảo như
Mai Bá Ãn, Lại Nguyên Ân, Bửu N am ... Tuy vậy, các tác giả này mới chỉ dừng lại
ở việc chỉ ra những nét đặc trưng trong thơ và trường ca Thanh Thảo.
Từ đây, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “T h ế giới n g h ệ th u ậ t thơ
T hanh Thảo qua hai tập D ấu chân qua trảng cỏ và K hối vuông Rubic

2


3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. N hiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận này là đi sâu vào thế giới nghệ thuật thơ
Thanh Thảo trong tương quan giữa nội dung và hình thức biêu hiện trong hai tập
Dấu chân qua trảng cỏ và Khối vuông R ubỉc và toàn bộ sáng tác của ông. Qua đó,
thấy được giá trị độc đáo của thơ Thanh Thảo và vị trí của ông trong nền thơ ca Việt
Nam.
3.2. Phạm vỉ nghiên cứu

Do hạn chế về thời gian cũng như khả năng của người bước đầu tập làm
nghiên cứu khoa học, nên ở khóa luận này, chúng tôi đi sâu vào việc tìm hiểu thế
giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo qua hai tập Dấu chân qua trảng cỏ và K hối vuông
Rubỉc trên các phương diện: cảm hứng nghệ thuật và hình thức nghệ thuật (thể thơ,
biểu tượng thơ, ngôn ngữ thơ).
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành so sánh với các sáng tác của
ông bên cạnh các tập thơ, tập trường ca khác đê khóa luận được chuyên sâu hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đe thực hiện đề tài, khóa luận kết hợp, vận dụng các phương pháp nghiên
cứu:
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
5. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần M ở đầu và Ket luận, khóa luận được tổ chức theo ba chương là:
Chương 1: Giới thuyết chung.
Chương 2: Cảm hứng nghệ thuật chủ đạo trong Dấu chân qua tráng cỏ và
Khối vuông R ubỉc.
Chương 3: Một số phương diện hình thức nghệ thuật trong D ấu chân qua
trảng cỏ và K hối vuông Rubic.
Cuối cùng là Tài liệu tham khảo.

3


NỘI DUNG

CHƯƠNG I: GIỚI THUYÉT CHUNG

1.1. Thế giới nghệ thuật thơ

Năm 1985 trong luận án tiến sĩ khoa học: “S«’ h ình thành và n h ữ n g vấn đề
của ch ủ nghĩa hiện thực x ã hội ch ủ nghĩa trong văn học Việt N am hiện đạV\
PGS.TS Nguyễn Nghĩa Trọng đã xác định hàm nghĩa khái niệm thế giới nghệ thuật
như sau:
“ 77zé giới nghệ thuật là một phạm trù m ỹ học bao gồm tât cả các yêu tô của
quá trình sáng tạo nghệ thuật và tât cả kêt quả của quá trình hoạt động nghệ thuật
của nhà văn. Nó là một chỉnh thê nghệ thuật và một giá trị thẩm mỹ. (...) Thế giới
nghệ thuật là thiên nhiên thứ hai được người nghệ s ĩ tạo dựng trong đó chứa đựng
hiện thực và quan niệm về hiện thực, tự nhiên và con người... là thê giới sinh động
và đa dạng vố cùng, môi nhà vãn, môi trào lưu vãn học, môi dân tộc, môi thời kì
lịch sử đều có thế giới nghệ thuật riêng của m ình” [17, 63].
Trong cuốn “T ừ điến th uật n g ữ văn họ c” , nhóm tác giả Lê Bá Hán -Trần
Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) định nghĩa “ 77zể giới nghệ thuật là một khái
niệm chỉ tính chỉnh thê của sáng tạo nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác
phẩm, một tác giả, một trào lưu) ” [9, 302 - 303].
Nghiên cứu cụ thế loại thơ trữ tình, trong cuốn “Thơ trữ tình Việt N am 1975
- 1990” (1998), tác giả Lê Lưu Oanh đã chi tiết hóa khái niệm này qua hình tượng
cái tôi trữ tình. Tác giả viết: “Gọi cái tôi trữ tình là một thế giới nghệ thuật bởi thế
giới nội cảm này là một thê thông nhât có ngôn ngữ và quy luật riêng phụ thuộc vào
lịch sử cá nhân, thời đại... Đi sâu vào thế giới riêng được coi như một kênh giao tiêp
với những mã sỏ, ký hiệu, giọng nói, chương trình riêng cẩn có thao tác phù hợp. Thê
giới nghệ thuật của cái tôi trữ tình là thế giới mang giá trị thẩm m ỹ” [18, 33 - 35].
Cách hiểu của tác giả cũng giúp chúng tôi định hướng một cách cụ thể trong
việc khám phá thế giới nghệ thuật.

4


Ngoài ra, còn có một số công trình của các tác giả cũng đề cập đến khái niệm
này như: GS. Nguyễn Đăng Mạnh với “ Con đ ư ờ n g đi vào th ế giới n g h ệ thu ật của

nhà v ă n ”(1996), GS. Trần Đình Sử với “N h ữ n g th ế giới n gh ệ th u ậ t t h ơ ”( l 997) ...
Chúng tôi nhận thấy đây là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều yếu tố, nên
việc tìm hiếu kĩ trong khóa luận này là rất khó. Vì thế, trong khóa luận này, chúng
tôi chỉ khái quát các yếu tố cơ bản của khái niệm thế giới nghệ thuật trên cơ sở tập
trung làm rõ một số vấn đề như: Cảm hứng nghệ thuật, thế thơ, ngôn ngữ thơ, biếu
tượng thơ... từ đó sẽ vận dụng vào việc tìm hiếu thế giới nghệ thuật thơ Thanh
Thảo qua hai tập D ấu chân qua trảng cỏ và K hối vu ôn g Rubic.
1.2. Tho’ Việt Nam thời hậu chiến (1975-1985)
Năm 1975, cuộc kháng chiến chống M ĩ kết thúc, lịch sử dân tộc Việt Nam
mở sang trang mới đồng nghĩa với việc một nền văn học mới cũng ra đời và có
những biến đổi sâu sắc, toàn diện với những đặc điểm, quy luật vận động của nó.
Những năm đầu của thời kỳ hậu chiến, dư âm của cuộc chiến tranh trường kỳ vẫn
còn in đậm trong sáng tác của các nhà thơ chiến sĩ nên văn học giai đoạn này vẫn
mang màu sắc, âm hưởng của văn học thời kỳ chống Mĩ. Càng về sau, những
người cầm bút đã có sự thay đổi trong tư duy, có cái nhìn và cách tiếp cận hiện
thực đời sống mới mẻ. Cái tôi sử thi dần chuyển sang cái tôi thế sự, đời tư. Sự vận
động của các thế loại văn học như: thơ, văn xuôi, kịch đã góp phần tạo nên những
thành công bước đầu, tạo đà cho bước nhảy vọt của văn học sau 1986.
Mười năm sau chiến tranh, thơ ca Việt Nam được viết theo cảm hứng mới,
hình thức mới. Tiêu biểu cho kiểu sáng tác này là D ấu chân qua trảng cỏ và Khối
vuông R u b ỉc của Thanh Thảo, Đ ư ờ n g đến th à n h p h ố của Hữu Thỉnh, B à i th ơ
k h ô n g năm thá ng của Lâm Thị M ỹ Dạ, T ự h á t của Xuân Quỳnh, Á n h trăng của
Nguyễn Duy, N g ư ờ i đàn bà ngồi đan của Ý Nhi, N g ôi n hà có ngọn lửa ẩm của
Nguyễn Khoa Đ iềm ... Như vậy, đề tài thơ ca thời kì này đã có sự thay đổi, từ đề
tài cuộc chiến tranh, đề tài về nhân dân anh hùng, quật khởi đã được chuyến dần
sang đề tài cuộc sống đời thường, đi sâu phản ánh những vấn đề nhân sinh, tâm
trạng của cái tôi cá nhân sau cuộc chiến với nhiều tìm tòi phong phú, thể hiện

5



những suy nghĩ thấm thìa về cuộc đời, con người: “Sau chiến tranh và những năm
gần đây, thơ bắt nhịp cuộc sống đa chiều hơn, p h ứ c tạp hơn. Cảm hứng ngợi ca
trong thơ hôm nay dường như lẳng lại, thaỵ vào đó là những dòng thơ mang chính
nội tâm tác giả, trước sự bề bộn, lo toan đời thường. Nhà thơ hướng vào nội tâm
lấy cái tôi làm chủ đạo. Sự đôi mới trong thơ hôm nay là trở về với bản chất vốn
có của thơ, tạo ra giọng điệu thích hợp với thời đại mình song” ( S ự đối m ớ i trong
th ơ - N g u y ễ n Đ ức M ậu). Cũng trong thời hậu chiến này, nhiều nhà thơ đã dồn
sức cho việc hoàn thành trường ca để nói lên những vấn đề mới, bao quát hiện
thực của đất nước và nhân dân. Có thể nói, đây là giai đoạn nở rộ của trường ca,
trong đó tiêu biểu nhất là các trường ca: N h ữ n g n g ư ờ i đi tới biến của Thanh
Thảo, Ngọn giáo búp đa của Ngô Văn Phú, Đ ư ờ n g tới th à n h p h ố của Hữu Thỉnh,
Trường ca s ư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Đ ấ t n ư ớ c h ìn h tia chớp của Trần
Mạnh H ảo...
Có thế nói, phong trào sáng tác thơ dần trở lại gắn bó với cuộc sống hiện
tại. Những vấn đề trong chiến tranh không được đụng chạm đến thì nay đã được
khơi sâu, nhấn mạnh. Đó là những vấn đề về thân phận cá nhân, về cuộc mưu sinh,
vật lộn của con người sau cuộc chiến, về những phía chìm, mặt khuất của thế giới
nội tâm con người... Thơ giai đoạn hậu chiến đã vượt qua ranh giới, khuôn khổ
của giai đoạn trước, để đi vào tầng sâu, vùng xa của tình cảm con người.
Trong lúc này, cả thế hệ nhà thơ cùng đứng vào dàn đồng ca thế hệ, ca ngợi
để giữ vững niềm tin vào non sông, đất nước và định hướng cuộc sống:
“Ta sông thật đây, gian khô đêm ngày
Mà cứ tưởng bay trong mơ ước
Bữa cơm khoai, ít cá nhiều rau
Mà ngăn sống làm điện, khoan biên làm dầu
Chân dép lốp
Mà lên tàu vũ trụ ”
(M ột n h à n h x u â n - Tố H ữ u )


6


Cùng với cảm hứng ngợi ca đó, trong thơ bắt đầy xuất hiện những giọng
trầm có dư vang, mang cảm hứng thế sự. Thơ chuyển từ hiện thực cách mạng,
hiên thực chiến tranh sang những vấn đề riêng tư thường nhật: cô đơn, sự suy tư,
triết lí về thân phận cá nhân, cuộc đời. Chế Lan Viên đã sớm nhận ra sự thay đổi
cảm hứng, sự thay đổi đối tượng mà cất lên:
“Những nhà thơ bỏ các đề tài khoáng đạt

về trong phòng con ngột ngạt
Như con hổ đại ngàn
Hoá chú mèo con ”
(Đe tài)
Neu như các bài thơ khác mang cảm hứng ngợi ca, con người được nhìn
nhận nghiêng về bề nổi thì cảm hứng thế sự, thơ chú ý phân tích, lí giải con người
trên nhiều bình diện, cả bề nối lẫn bề chìm. Các tác giả đã viết lên những vần thơ
khao khát tìm lại mình, tìm lại những giá trị đích thực trong cuộc đời, trong tình
yêu bằng những rung động chân thành:
“Em trở về đủng nghĩa trái tim em
Biêt khao khát những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biêt yêu anh và biêt được anh yêu ”
( T ự há t - X u â n Q uỳnh)
Qua khảo sát thơ mười năm thời hậu chiến, mặc dù cảm hứng ngợi ca vẫn
là nổi trội nhưng mạch ngầm ẩn sâu trong đó là cảm hứng thế sự đời tư, giai đoạn
khởi động để chuân bị cho những bứt phá mạnh mẽ sau 1985.
Tìm hiểu thơ Việt Nam thời kỳ hậu chiến không chỉ có ý nghĩa khoa học mà
còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc nghiên cứu, giảng dạy về tác giả và tác phẩm thơ
thời kỳ hiện đại.

1.3. Thanh Thảo: Tiểu sử - Hành trình sáng tác - Quan niệm nghệ thuật
1.3.1. Tiểu s ử
Nhà thơ Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công sinh năm 1946, quê gốc xã
Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Tốt nghiệp khoa Ngữ Văn, trường Đại

7


học Tống hợp Hà Nội, Thanh Thảo tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam.
Sau 1975, ông hoạt động trong lĩnh vực văn nghệ và báo chí. Ông giữ chức vụ Phó
chủ tịch Hội đồng thơ, Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật
Quảng Ngãi.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông viết tới 9 trường ca: N h ữ n g người
đi tới biển (1976), Trẻ con ở Sơn M ỹ (1976 - 1978), N h ữ n g nghĩa s ĩ c ầ n Giuộc
(1978 -1980), B ù n g n ỗ của m ù a x u â n (1980 - 1981), Đêm trên cát (1982), Trò
chuyện với n h â n vật của m ìn h (1983), c ỏ vẫn m ọc (1983), Khối vuông Rubic
(1985), M êtrô (2009) và 5 tập thơ: Tàu sắp vào ga (1986), Bạch đàn gởi bạch
dư ơng (1987), T ừ m ộ t đến m ộ t trăm (1988), T ha nh Thảo ly 2, 3 (2007), T ha nh
Thảo 70 (2008). Ngoài thơ ca, ông còn viết tiểu luận, phê bình văn học... với
những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam giai đoạn hiện đại sau 1975.
Năm 1979, Thanh Thảo được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam
cho tập thơ D ấu chân qua trảng cỏ và giải thưởng của Ban Văn học Quốc phòng
An ninh cho tập trường ca N h ữ n g ngọn sóng m ặ t trời vào năm 1995. Vinh dự hơn
cả, năm 2001, ông được nhận giải thưởng Nhà nước (đợt 1) về văn học - nghệ thuật
và giải thưởng của Hội âm nhạc Việt Nam cho tập Trường ca chân đất.
Những năm gần đây, Thanh Thảo vẫn tiếp tục làm thơ đồng thời viết báo,
tiểu luận phê bình và nhiều thể loại, nhưng đóng góp quan trọng và đặc sắc nhất của
ông vẫn là thơ ca.
1.3.2. H à n h trình sáng tác
• Tho’ Thanh Thảo trước 1975

Khi “ cả đât nước dàn hàng gánh đât nước trên vaV\ Thanh Thảo cùng bạn
bè của mình gác bút nghiên, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, tham gia
chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Vào chiến trường, người chiến sĩ ấy đã đến với
thơ văn bằng không khí sục sôi của cuộc chiến ác liệt, bằng cả bầu nhiệt huyết của
một người thanh niên cộng sản. Bên cạnh nhiệm vụ chiến đấu, Thanh Thảo đã cho
ra đời những “quả đầu mứa” đã chinh phục được đông đảo độc giả lúc bấy giờ.
Đúng như Thiếu Mai nhận xét trong “T h anh Thảo, th ơ và trường ca”: “Thanh

8


Thảo đã đem đến cho độc giả một thực đơn tinh thần mới mẻ và độc đáo”, “Thơ
Thanh Thảo có dáng riêng” đã làm phong phú thêm cho tiếng nói chung của thi đàn
thời chống Mĩ.
Sự mới mẻ, độc đáo của thơ Thanh Thảo trước 1975 không phải ở đề tài hay
cảm hứng, mà các sáng tác của ông giai đoạn này vẫn hướng về vùng hiện thực mà
văn học của cả thời đại này quan tâm: hiện thực chiến tranh cùng với những vấn đề
nhân sinh mới mẻ. Cái riêng của Thanh Thảo là ông đã phản ánh hiện thực với điểm
nhìn, giọng điệu riêng, không hoà lẫn. Là một người trung thực, có nghĩa khí, có
lòng yêu mến quê hương, đất nước, nhân dân, nhà thơ Thanh Thảo đã chọn cho
mình giọng thơ trữ tình đằm thắm, giàu “hiện thực” và “c/za/ n g h ĩ ’ (Chu Văn Sơn).
Nhiều vần thơ của Thanh Thảo đậm chất suy tư và trăn trở: “Chúng tôi không muốn
chêt về hư danh/ Không thế chết vì tiền bạc/ Chứng tôi xa lạ với những tin tưởng
điên cuồng/ Những liều thân vô ích/ Đất nước đẹp mênh m ang/ Đất nước thẩm tự
nhiên đên tận cùng máu thịt/ Chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chêtỉ/ Đêm nay ai
cẩm tay nhau vào tiệc cưới/ Ai thức trắng lội sình ai trầm ngâm viêt những câu thơ
thông m inh/ A i trả nghĩa đời mình bằng máu ” ịThủ' nói về hạ n h p h ú c )
Giai đoạn này chính là bước chuẩn bị quan trọng cho những giai đoạn sáng
tác sau này của nhà thơ.
• Thơ Thanh Thảo từ 1975 - 1985

Đây có thê coi là giai đoạn nở rộ trong cuộc đời thơ Thanh Thảo với hàng
loạt các trường ca ra đời đã đưa ông trở thành “ông vua trường ca” (Chu Văn Sơn).
Trường ca đầu tiên gây được tiếng vang lớn đó là trường ca N h ữ n g n gư ờ i đì tới
biến (1976). Sau đó là hàng loạt các trường ca ra đời trong thời gian rất ngắn: Trẻ
con ở Sơn M ỹ (1976 - 1978), N h ữ n g nghĩa s ĩ c ầ n Giuộc (1978 - 1980), B ù n g n ỗ
của m ù a x u â n (1980 - 1981), Đêm trên cát (1982), Trò chuyện với n hân vật của
m ìn h (1983), Cỏ vẫn m ọc (1983), K hối vuông Rubic (1985)...
Ở thời kì này, đóng góp mới mẻ của Thanh Thảo trước hết thể hiện ở phương
diện nội dung. Thanh Thảo là nhà thơ của “nghĩa khỉ và cách tân”, là nhà thơ ''Чар
lánh chất người” (Chu Văn Sơn). Ông đam mê tìm kiếm chất người trong những

9


con người có nghĩa khí. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà ông viết nhiều và viết
rất hay về nhân dân, về thế hệ mình, về mẹ, về những nhân vật đã làm nên lịch sử,
văn hoá của dân tộc, nhân loại. Đó là những N g ư ờ i m ẹ B à n g Long, M ẹ Q uảng
B ình, N h ữ n g bà m ẹ K h ơ -m e... Đó là nhà thơ “ làm loạn” Chu Thần Cao Bá Quát.
Đó là Lorca của đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp... Họ dù ở đâu, làm gì vẫn gặp
nhau ở chất người “lấp lánh ” ...
Cùng với những đóng góp về nội dung, thơ Thanh Thảo giai đoạn này luôn
thể hiện những đột phá táo bạo trong cách tân nghệ thuật. Điều này góp phần làm
nên nét độc đáo trong phong cách thơ Thanh Thảo. Sự đổi mới trong cấu trúc thơ
của ông là nét tiêu biểu trong cách tân nghệ thuật. Đó là kiểu kết cấu Rubic, kết cấu
giao hưởng, kết cấu điện ảnh... làm cho trường ca Thanh Thảo không thiên về kể lể,
chi tiết vụn vặt mà đào sâu vào tư duy, mang tính triết luận sâu sắc.


Thơ Thanh Thảo từ 1986 đến nay


So với giai đoạn trước, giai đoạn này, thơ ông có phần dịu lắng, nhưng ông
vẫn âm thầm đổi mới cho thơ ca. Với năm tập thơ được xuất bản (gồm cả một số
sáng tác trước 1975): Tàu sắp vào ga (1986), B ạ ch đàn gởi bạch dư ơ ng (1987), T ừ
m ộ t đến m ộ t trăm (1988), T ha nh Thảo 1 2 3 (2007), T han h Thảo 70 (2008) và
một trường ca viết về Trường Sơn vừa ra mắt bạn đọc - trường ca Mêtrô (2009),
Thanh Thảo tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho nền văn học của dân tộc.
Ngoài thơ ca, ở giai đoạn này Thanh Thảo còn viêt tiêu luận, phê bình văn học. Ba
tập tiểu luận phê bình: N gón th ứ sáu của bàn tay (1995), M ã i m ãi là b í m ậ t (2004),
Trò chuyện với dòng sông (2009) là minh chứng hùng hồn cho quá trình lao động
nghệ thuật không biết mệt mỏi của Thanh Thảo... Người chiến sĩ khí tiết ấy đã,
đang và sẽ cống hiến hết mình cho sự nghiệp văn học nước nhà.
1.3.3. Quan niệm nghệ thuật
* Quan niệm về thơ
Thanh Thảo đã không ít lần phát biểu quan niệm của mình về thơ trong các
bài trả lời phỏng vấn, các bài tản văn, tiểu luận - phê bình... Nỗ lực định nghĩa thơ,
gọi tên thơ Thanh Thảo cũng là khát khao chính đáng của bất kỳ người cầm bút nào.

10


Biết bao thế hệ thi sĩ tự cố chí kim đã không ngừng dằn vặt suốt cuộc đời mình để
đi tìm chân dung đích thực của nàng thơ, mà muôn đời đó vẫn là một bí mật lớn
không dễ gì hoá giải. Với Thanh Thảo, nói về thơ cũng là một cách đế giãi bày
nguồn năng lượng sáng tạo chưa kịp chuyến hoá thành thơ, là con đường đế người
nghệ sĩ tỏ bày những suy tư của mình lên trang giấy một cách trực diện nhất.
Theo Thanh Thảo, thơ là một thế giới bí ẩn. Đó là “tiếng nổi của tâm linh,
tiếng nói của sự chiêm nghiêm nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người
(T hanh Thảo), là “Ấ:m/z thánh của tâm hổn”, là “thứ không thê mua và không thê
bán” [25, 233]. Thơ “cao hơn bản năng. Đó là tiêng gọi từ một thiên năng” [25,
299], do đó không phải lúc nào cũng nằm trong tầm nắm bắt của con người: “Thơ

vân là cái gì mờ m ờ ảo ảo, vân là cái gì ta vừa băt được đó lại vừa tuột mât. Thơ
vân là hình bỏng, đôi khi là bóng của bóng nữ ” (T h anh Thảo). Trong ánh nhìn của
Thanh Thảo, thơ có vẻ nghiêng về phía của vô thức, nó xuất phát từ nguồn nội lực
sâu thẳm dồn nén tận sâu bên trong con người: “Thơ là tiếng thét trong im lặng, là
những dồn nén tận cùng dưới một vẻ bình thản như đất” (Trần H ữ u N ghiễm - Thơ
vẫn âm thầm tự hát). Đen với thơ ca, con người đang làm một cuộc hành trình đi
tìm mình, đi khám phá những bí mật vô tận ẩn náu trong những vùng tối tăm của
tâm hồn mình, bởi thơ “buộc tiềm thức, vố thức của ta phải làm việc, buộc ta phải
ngụp lặn xuông lòng nước toi, ngụp lặn vào chính những giấc mơ của ta” (Tản m ạn
về thơ ).
Chính vì vậy, theo Thanh Thảo, thơ là tiếng nói bí mật dành cho từng cá
nhân, là “thảnh đường dành cho một người, cho từng người một”. Ông cho răng:
“Thơ có thê cùng một lúc kích động được nhiều người, nhưng thơ lại chỉ dành cho
từng con người riêng biệt, từng con người muôn qua cảm nhận thơ đê cảm nhận
chính con người mình, và qua chính con người mình mà cảm nhận thế gỉớỉ” [1, 13].
Nói cách khác, thơ là con đường tương thông đi từ thế giới tinh thần của mỗi cá thế
ra thế giới bao la của vũ trụ. Mỗi người thông qua thơ đế khám phá chính mình,
hiểu và sống trọn vẹn với mình, với đời. Thơ thì thầm từng phận người, đồng cảm
với từng cá thể. Trong lãnh địa của thơ ca, mỗi cá nhân là một thế giới, mỗi con

11


người mất đi là không sao bù đắp, không sao cứu chuộc. Bởi, “Thơ đọc giữa quảng
trường thì cũng như thơ đọc trong xà-lim, cái chính là thơ chứ không phải nơi đọc
thơ. Cái chỉnh là từng người một tiêp nhận thơ, chứ không phải vạn người như một
tiếp nhận thơ” [1, 17].
Thơ gắn liền với số phận cá nhân của con người. Dù viết về vấn đề gì, dù
cách tân đến đâu, thơ muôn đời vẫn không đi ra khỏi tiếng nói của số phận. Thơ
trước hết là những ký thác của người nghệ sĩ, sau nữa là sự cộng hưởng của tâm hồn

thi nhân với những thân phận khác người trong cuộc đời.

thơ từ xưa tới giờ

luôn là kinh cẩu nguyện cho tâm hồn con người, nơi con người có thế sám hối, có
thê khăc khoải, có thê khao khát và công khai bày tỏ những khát khao thầm kín
nhât, nơi bât cứ một ảnh nhìn nào cũng đêu được “trong trẻo hoá ”, đêu thăng hoa,
hưởng thượng” (Ở giữa m ù a trăng). Theo đó, thơ không chỉ giải toả mà còn phản
ánh, không chỉ phản ánh mà còn thanh lọc. Thơ vừa mang hơi hướng độc thoại, vừa
có thế động đến những khoảng nhỏ rất riêng của tâm hồn mình. Sự đồng điệu không
chỉ đến từ những bài ca tập thể, nó là giai đoạn ngây thơ hồn nhiên ban đầu.
Mặt khác, thơ trong quan niệm của Thanh Thảo còn được nhấn mạnh ở khả
năng thức tỉnh. Trước hết đó là sự thức tỉnh của bản thân người cầm bút trước một
hình ảnh nào đó trong đời sống gọi dậy một tứ thơ đã ấp ủ. Sự thức tỉnh ấy không
phải là một tình trạng, mà là một trạng thái tinh thần đột hiện có nguồn gốc sâu xa
từ quá trình chiêm nghiệm lâu dài của nhà thơ về đời sống. Nói như Thanh Thảo:
“Con đường tới với thơ không phải là con đường phân tích, mà là con đường cảm
nhận, con đường của sự đột nhiên, của một bức thư tình từ một hình ảnh ít gặp,
hoặc chưa gặp nào đ ó Cái đột nhiên mà Thanh Thảo đề cập ở đây rất gần với sự
bừng ngộ của thiền gia. Kinh nghiệm tâm linh mà con người tích luỹ từ hành trình
tu chứng lâu dài đến khi chín muồi, chỉ cần bắt gặp một hình tượng ngẫu nhiên nào
đó cũng đều có thể khơi dẫn đến cảnh giới giác ngộ. Tương tự, những suy tư chất
chứa trong tâm tưởng nhà thơ bắt gặp một hình ảnh nào đưa đẩy, gợi nhắc, sẽ bùng
phát thành cảm hứng sáng tạo. Điều này Chu Quang Tiềm từng gọi là “sự phát sinh
của lỉnh cảm ’'': “Linh cảm phát sinh do sự uân nhưỡng của tiềm thức nên nó xuất

12


hiện bât thình lình, nhưng không phải là không có sự chuân bị (...) Gọi là linh cảm,

chính là tích luỹ ân dấu cả một kho thuốc nổ đế gặp có mồi lửa là nô bùng”. Như
vậy, cái nhìn thức tỉnh theo quan niệm của Thanh Thảo thực ra là sự bừng tỉnh của
tiềm thức, là cái đột khởi của tư tưởng đã được thai nghén lâu ngày.
Bên cạnh đó, thức tỉnh không chỉ là đặc trưng của hành trình sáng tạo mà còn
là chức năng của thơ ca. “Thơ cỏ ích không phải vì thơ giảo huấn ai, giáo dục ai,
cải tạo ai, mà vì thơ thức tỉnh con người trước cái “trăm năm ”, thơ đặt con người
đôi diện với nghìn năm, thơ cho con người m ột thoáng nhìn lại chính mình một cách
bình thản”. “Thơ luôn ở tầng ngầm, dòng sâu của dòng chảy cuộc sống. Nó chỉ chợt
đền với từng người, rôi chợt đi. Nhưng môi khoảnh khắc tỉêp xúc ây, thơ có thê
khiên con người bừng tỉnh, có thê khiên con người thay đôi (...). Và cải đáng quý
nhất ở thơ, là nó có khả năng khiên người đọc thơ, trong một chớp mắt, tự tách ra
khỏi bản thân mình đế nhìn lại chính mình, như m ặt trăng nhìn trải đất bằng một
ánh nhìn dịu dàng” (Tản m ạn về thơ).
Nhưng thơ không phải chỉ là sự tỉnh táo. Thanh Thảo từng viết: “Tôi xoay
những ô vuông. Cổ nhà thơ than rằng đời bây giờ tỉnh quả. Tôi, ngược lại, tôi
thích: tỉnh táo, tinh khôi, tỉnh bơ, tỉnh như sáoỉ Vì tôi biêt, cái tình đó chỉ là phía
nhìn thấy được của đam m ê ” [24, 25]. Và cũng chính ông, trong một bài viết khác:
“Nhìn tỉnh quả chưa chắc đã cỏ thơ hay. Và không nhìn thấy gì cả cũng chưa hãn
thơ vụt sáng. Thơ vân là cái gì m ờ m ờ ảo ảo, vân là cái gì tôi vừa băt được đó lại
vừa tuột đâu mât. Thơ vân là hình bóng, đôi khỉ là bóng của bóng nữa” (Người
đuổi h ình bắt bóng). Nhìn chung, “thơ là lủc đang rơi”. Thơ hay thường tồn tại
giữa các khái niệm: khả giải và bất khả giải, thân quen và mới lạ, ánh sáng và bóng
tối, mơ màng và thức tỉnh. “Thơ là chữ nghĩa mà cũng không là chữ nghĩa, là ỷ
thức mà không phải là ý thức, là vố thức mà không hăn là vô thức”. “Thơ cần cả
triêt học và phi-triêt-học, cần cả những khám phá của trí tuệ lân những trạng thái
vô lý, vô nghĩa của tâm hồn” (S ự đồng cảm trơng p h ê bình thơ). Cái nhìn của
Thanh Thảo đưa thơ vào thế giới của sự lưỡng lự đầy minh triết, một thế giới im
lặng sâu thẳm ẩn chứa những giá trị đa chiều.

13



Với Thanh Thảo, thơ vừa là nơi gửi gắm niềm vui hứng sáng tạo, đồng thời
cũng là chỗ dựa tinh thần cho con người, mà trước hết là cho chính bản thân người
làm thơ:

thơ lại hay được “đ ẻ ” ra trong những thời điếm khó khăn như vậy, bởi

nó vừa là ngôn chí vừa là cánh cửa giải thoát. Những khi đó, người bạn thân thiêt
nhất của nhà thơ chính là... thơ của mình” “Nơi nào thiệt thòi nhất, lặng thầm nhất,
đẳng cay nhất, nơi ấy cổ thơ như bạn đường, như đồng đội, như những hạt dẻ vô tư
và vô danh” (M iễn là dám bước qua giới hạn của m ình). Một câu thơ hay, một bài
thơ hay là cứu cánh của nghệ thuật, một phần vì nó thoả mãn nhu cầu bức bách của
tình cảm và năng lực sáng tạo, mặt khác vì nó tạo nên sức mạnh tinh thần cho con
người, đưa con người ra khỏi những cái buồn tẻ, tầm thường trong đời sống
“trong phút lâm lôi vô tận
những câu thơ chủng ta
rách tả tơi đói kém xanh xao
gượng dậy sau bao lần mệt lả ”
( n h ớ H .Đ và V.H.Đ)
Một đặc điểm quan trọng nữa của thơ ca theo Thanh Thảo là tính độc đáo.
Mỗi thế giới nghệ thuật thơ phải là một thế giới riêng biệt, mới mẻ, sống động.
“Thơ chăng ai giong ai, chăng ai mong giong ai, và khống có loi đi nào chung cho
cả hai nhà thơ cả. Đó là thách thức, và cũng là cải làm nên sức quyển rũ của thơ”
(M ười năm cõng th ơ leo núi). Phấm chất ấy góp phần quan trọng làm nên sức sống
bền bỉ của thơ ca vượt qua những giới hạn của đời người; ngược lại, nếu thiếu nó,
thơ sẽ không thể nào tồn tại. Đó là cái khắc nghiệt mà nhà thơ phải đối diện trong
hành trình sáng tạo của mình.
* Quan niệm về nhà thơ
Lev Tolestoi từng có một câu nói: “Thân phận nhà thơ cao hơn thân phận

của chính bản thân anh ta”. Bên cạnh sống cuộc đời riêng của mình với tư cách là
một con người bình thường, nhà thơ còn đa mang số phận của nghiệp cầm bút.
Anh ta phải lấy chính đời mình, chính những nghịch cảnh, những buồn đau
của mình làm đối tượng trước tiên đế suy nghiệm, mà mục đích cuối cùng không gì

14


khác là sáng tạo cái đẹp và kháng cự lại sự suy tàn. Theo Thanh Thảo: “ VỚ7 người
nghệ sĩ, nhiêu khi những nghịch cảnh lại là những đặc ân của só mệnh mà dâu
muon tránh, cũng không có cách gì tránh khỏi” ( Văn Cao vẫn đằng hà n h với
c h ú n g ta). Nhà thơ, nói đến cùng, luôn luôn và trước hết chỉ hướng sự quan tâm
đến bản thân, thông qua nỗi đau của bản thân để nói về nỗi đau của nhân loại, bởi
hơn ai hết, nhà thơ hiêu rằng: “phàm làm thơ dù viết về ai, về cái gì cuối cùng cũng
nhằm bộc lộ m ình” [25, 470], và “dù thi s ĩ một p h ú t thôi cũng không giấu nôi mình”
[24, 59]. Nhà thơ đi tìm thi hứng ở chính tâm hồn mình với tất cả những biến động
sâu thắm của nó: “Nhà thơ là người đảnh cá thả lưới vào chính mình, vào cái
khoảng biên đen sấu hút trong mình, mong được vài ba con cá, hay một nhánh san
hô, một ít rong rêu nào đó. Nghe được những cơn chân động, dù nhỏ, người làm thơ
sở hữu được một tiếng nói. Biêt chờ nó, lẳng nghe nó, là anh đã có thơ. Chăng có
“linh hồn vãn hoả, thân xác thơ ca ” nào cả, chỉ có một con người cô đơn đang lẳng
nghe mình, sau khi đã “m ở cửa ” cho tất cả thế giới vào mình” [26, 2].
Do đó, đối với thi sĩ, thơ là chốn giãi bày nhưng cũng là một hành trình cô
đơn. Sáng tác thơ tự trong nó hàm ẩn không chỉ là sự rung cảm mà còn là sự nối
loạn, là khiêu khích và tự khiêu khích. Nói cách khác, khi cầm bút nhà thơ đang tự
cứu mình cũng là đang tự làm tổn thương mình. Thanh Thảo từng nói về vấn đề này
như sau: “Thơ đi giữa can trường và hoảng hốt, đi giữa cái liều và nôi sợ... Thơ là
con dao găm “tôi tự ném vào khoảng trỏng” (Văn Cao), nhưng người bị thương lại
chính là tôi”. Quả thực, trang giấy trắng đối với người nghệ sĩ vừa là không gian
thăng hoa vừa là “pháp trường” . Nói như Ranicki: “Thơ là hình thức nhiều rủi ro

nhất”. Đen với thơ người nghệ sĩ phải dấn thân vào cuộc chơi đầy hứng thú nhưng
cũng đầy thách thức:

Một nghệ s ĩ đích thực là người thường phải “đi trên

d â y ’’trong những tác phâm của mình. Sự chênh vênh bập bềnh của ngôn ngữ được
thê hiện trong tác phâm lại là cùng một thước đo đê người ta đánh giá tài năng của
một nghệ s ĩ ngôn từ” (Đọc lại X u â n Diệu). Nhà thơ lúc nào cũng đi trên ranh giới
giữa sự sống và cái chết, giữa cái đẹp và sự tầm thường, giữa nỗi đau tinh thần và
niềm vui hứng sáng tạo:

15


“Có bao nhiêu con đường dân về minh triêt
Anh đã chọn con đường nguy hiêm nhât
Dang tay đi giữa đỉnh cao và vực sâu ”
{Người m ãi võ Sơn Đông)
Nhưng chính ở trạng thái chênh vênh đó mới là thời điểm những áng thơ hay
ra đời: “Không phải trên đỉnh núi hay đáy vực làm nên thơ hay, mà chính là lúc
đang rơi, lúc lơ lửng giữa đỉnh và vực là lúc mà nhà thơ cỏ được những thỉ phâm
xuất thần” (Ba khúc ca ngan về Bích Khê).
Theo Thanh Thảo, thi nhân chỉ có thể sáng tạo trong sự xuất thần, tức là lúc
niềm phấn khích thi ca trở nên bức bách, “đưa người làm thơ vào cách đi của người
mộng du, đi trong mơ với cặp măt m ở to, mở to nhưng như không thây gì, nghe tât
cả mà cuối cùng chỉ là những tiêng văng văng. Thân thê người làm thơ là một bộ
lọc, chỉ khi nào đế yên cho thân thê mình lọc lại đời sông, rồi bất chợt nó bật ra cái
gì, thì đó mới là thơ” [25, 300].
Nội lực tự ngã mạnh mẽ khiến nhà thơ có khả năng “đi trước” về trực giác.
Sự sáng tạo của nhà thơ không chỉ có ý nghĩa như một kiểu phát tiến cảm xúc hay

giải tỏa gánh nặng tinh thần, sứ mệnh cao cả hơn của anh ta là dự cảm. Từ chính
những ám ảnh của bản thân, nhà thơ phải tự hình thành cho mình một lý tưởng thẩm
mỹ, để tác phẩm của anh ta không chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh những gì đang
tồn tại mà còn hình dung về những giá trị có khả năng hình thành hay biến mất.
Năng lực dự cảm ấy của người nghệ sĩ là một yếu tố quan trọng tạo nên tiềm năng
tự tái sinh của nghệ thuật: “Nhà văn không chỉ phản ánh mà còn phải nhìn thây
trước. Tác phâm và nhân vật của họ khống chỉ là tấm gương cô định hay “tâm
gương kéo trên đ ư ờ n g ” mà còn phải là tâm gương có khả năng tái sinh qua thời
gian, do những dự cảm về bản chất nhân vật, bản chất, hiện tượng của nhà văn đã
khiến tác phâm như tự tái sinh trong mat người đọc nhiều thế hệ” (Nhà văn “nhìn
thấy tr ư ớ c ”). Quan điếm này của Thanh Thảo hết sức có ý nghĩa trong việc lý giải
sức sống và khả năng sinh tồn của văn chương giữa một thời đại đầy biến động,
đồng thời nó cũng đặt ra sứ mệnh cho những người cầm bút, không chỉ tâm hồn của

16


họ mà còn với tinh thần của đời sống tinh thần của xã hội. Nhưng dẫu luôn hướng
về tương lai, thơ tuyệt đối không phải là sự phản bội hay cự tuyệt quá khứ: “Mỡỉ
nhà thơ đi qua cuộc đời này theo một lôi riêng, và trong khi hướng vê phía trước,
nhà thơ cũng biết nhìn về phía sau, về nơi từ đó mình ra đi” [25, 265]. Nhà thơ là
người không ngừng sống trong quá khứ, bởi đó là tất cả kinh nghiệm làm nên chiều
dày, chiều sâu tâm hồn của con người.
Mặt khác, nhà thơ, dù ở trong hoàn cảnh nào, phải luôn gìn giữ sự tự do
thơ cần sự tự do tuyệt đổi trong tâm hồn

trong tâm hồn. Thanh Thảo quan niệm:

người làm t h ơ ” (Đ ường thơ, Đường nào?). Tự do tâm hồn là điều kiện tiên quyết
đến nghệ sĩ trải nghiệm, suy tư và sáng tạo. Chính sự tự do ấy có khả năng khai

phóng nguồn năng lượng tinh thần của nhà thơ, mở đường cho những liên tưởng,
tưởng tượng không biên giới, đồng thời nuôi dưỡng khát khao của người nghệ sĩ đối
với cái đẹp. M à cái khát đầu tiên phải là khát vẻ đẹp của thơ, khát cái tuyệt mỹ của
từng câu thơ, từng phần thơ, từng bài thơ, khát cái sức mạnh có được đế thơ đến với
người đọc, khát cái sức sống của bài thơ ngay khoảnh khắc người ta đọc nó.
Một phẩm chất quan trọng khác của nhà thơ, theo Thanh Thảo, là sự chân
thành. Điều này có ý nghĩa như một sự định hướng về mặt tinh thần, rằng những tác
phẩm của người nghệ sĩ dù đi ngược về xuôi thế nào, trước sau vẫn phải chân thành
và trung thực với con người và đời sống. Người viết phải sống hết mình, yêu
thương và căm giận hết cỡ, và tuyệt đối chân thành với chính mình, cũng là chân
thành với cuộc đời. Cứ như thế, cộng với cái “trời cho” là tài năng, nhà văn sẽ có
tác phẩm, dù không “ngang tầm thời đại” gì đó như người ta hay nói một cách sáo
rỗng, thì đơn giản nhất, cũng khiến người viết không phải ngượng với chính mình.
* Q uan niệm về việc sáng tạo
Quan niệm của Thanh Thảo về việc sáng tạo gắn liền với quan niệm thơ và
nhà thơ. Theo ông, sáng tạo là biểu hiện của sự sống, nghệ thuật bắt nguồn từ nội tại
cuộc sống. Sự ra đời của thơ ca không nằm trong chủ ý của thi nhân nhằm đạt đến
sự bất tử về tên tuổi, nó trước hết là một kiếu phản ứng của nhà thơ đối với những
rung động tình cảm trong tâm hồn mình và thế giới. Thơ ra đời vì nhu cầu của nhà

17


thơ cần được giải tỏa khỏi những ẩn ức tinh thần, và trong quá trình tìm cách biểu
hiện những ẩn ức ấy, người nghệ sĩ đã tự lưu dấu mình lại trong thời gian một cách
hồn nhiên nhất. Nói cách khác đi, cùng vì bắt đầu từ sự sống và những năng lượng
sống mà nghệ thuật không bao giờ tàn lụi. Quan điếm này của Thanh Thảo có thể
được liên tưởng tới phát biểu của nhà phê bình Ranicki: “Ai làm thơ, người đó nổi
loạn chong lại cái vô hằng. Ngay cả khi nỏ bảo trước về sự sụp đô, tôn thờ cái chết
và ca ngợi sự suy tàn, thỉ ca - dù nó muốn hay khống - vân bác bỏ sự sụp đô, cái

chêt và suy tàn. Thơ là sự khăng định cuộc sông”.
Xuất phát từ một góc nhìn khác, Thanh Thảo cho rằng sáng tạo bên cạnh là
một hành trình tinh thần mang tính giải khuây còn là một phiêu lưu đầy hứng thú và
nguy hiêm. Một mặt, ‘V/ỉơ’ đưa người làm thơ vào cách đi của người mộng du, đi
trong mơ với cặp mắt mở to, mở to những như không thấy gì, nghe tất cả mà cuối
cùng chỉ là tiếng văng vẳng” [25, 300]. Thơ là nguyên nhân đem lại niềm hứng khởi,
khoái cảm thẩm mỹ cho nhà thơ, đồng thời cũng là duyên cớ đem lại cho nhà thơ biết
day dứt, khổ sở. Nhưng, vì tính hai mặt đó của thơ khiến con người không thể thiếu
thơ trong cuộc đời, bởi bản thân cuộc đời cũng là một bế hỗn độn vui - buồn, cười khóc. Nhà thơ Heine có lần tự hỏi liệu có phải thơ là căn bệnh của loài người, giống
như “viên ngọc thực ra chỉ là tác nhân khiến loài trai khốn khô”(Sämtliche Schriften
- Toàn tập tác phẩm ). Như vậy, cho đến cuối cùng, thơ vẫn “mãi mãi là bí mật”, là
một kênh giải thoát cũng là một chốn “đày ải” tinh thẩn con người trong một niềm
say mê, khát khao không bao giờ dứt.
1.4. Hai tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ và Khối vuông Rubic
1.4.1. Dấu chân qua trảng cỏ (1978)
Dấu chân qua trảng cỏ là một trong những tập thơ đầu tay của Thanh Thảo,
vừa trong sáng, hồn nhiên, vừa khiêm nhường và giản dị. Tập thơ Dấu chân qua
trảng cỏ chủ yếu viết về vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Nó không ồn ào như những
tiếng kèn xung trận của cả thế hệ đang náo nức ra trận. Nó cũng không bay bướm
“ lãng mạn hoá” kiểu như thế thơ trữ tình cổ động “Không có kỉnh không phải vì xe
không có kính” rất tài hoa, kích thích trực diện vào khí thế của người lính thời chiến

18


như thơ Phạm Tiến Duật, thơ Thanh Thảo thấm đượm vẻ đẹp bên trong tâm hồn, vẻ
đẹp vừa cường tráng, lãng mạn lại vừa có ý tưởng sâu xa... Với Dấu chân qua
trảng cỏ, Thanh Thảo đã khắc hoạ hình ảnh người lính trong vẻ đẹp mộc mạc, “thô
sơ và hực sáng”, trong ý thức về trách nhiệm, số phận của thế hệ mình trước Tổ
Quốc, nhân dân:

“Cả thế hệ xoay trần đảnh giặc
Mặc quần đùi, khiêng pháo lội qua b ư n g ”
{N hữ ng ngôi sao của mẹ)
1.4.2. Khối vuông Rubic (1985)
Đây là tập thơ khá độc đáo của Thanh Thảo với ý thức cách tân rõ rệt, gây
được tiếng vang lớn trên văn đàn ngay từ thời điếm nó vừa xuất hiện. Tập thơ này
gồm 9 bài thơ, 1 bài thơ văn xuôi dài Khối vuông Rubỉc (gồm 53 đoạn) và 1 trường
ca Đêm trên cát (viết về M ột đêm của nhà thơ Cao Bả Quát).
Trong 9 bài thơ lẻ, tác giả dành 5 bài thơ đế nói những cảm nghĩ về thơ ca
nghệ thuật và cuộc đời, đó là các bài: Có m ột lần tôi nghe bản giao hưởng số bảy,
Đọc những nhà thơ da đen, Neu Maiakốpxky sống đến tuổi chín mươi, Đàn ghita của Lorca, Ở năm tám m ư ơ i tám của m ộ t con tàu. Ở các bài thơ này đã chứng
minh cho chúng ta thấy sự quan tâm, chú ý đặc biệt của tác giả với nghề làm thơ.
Theo Thanh Thảo, đó chính là nhiệm vụ, sứ mạng của thơ ca và qua đó, đã tạo nên
nguồn cảm hứng vô tận để thi nhân diễn tả quan niệm của cá nhân mình: “các anh là
thợ xây trộn vôi vữa/ cả thiên đàng địa ngục/ qua mặt những tiên tri rao giảng sâm
truyền/ thơ các anh nóng như bánh mới ra lòỉ bùng nô/như bãi mìn vùi dưới đât
nhiều năm ”(Đọc n h ữ n g nhà th ơ da đen)
Trong 4 bài thơ còn lại, có hai bài viết về đề tài chiến tranh: M ộ t ngư ời lính
nói về th ế h ệ m ình, T hị xã L ạ n g Sơn, trong đó bài thơ M ộ t người lính nói về thế
h ệ m ìn h được coi như một lời tuyên ngôn về trách nhiệm của những người trẻ tuổi
về chiến tranh với cách tả trần trụi hiện thực khốc liệt của cuộc chiến: “í/ĩể hệ chúng
tôi trắng từng đêm lội nước/ sình bêt từ chân bêt đên đầu/ nên giọng nói có nhiều
khi ngang dọc/ nên cái nhìn có lắm phen gai góc! vì ngọn lửa chịu sình là lửa thực/

19


đã bùng lên/ dám cháy tận sức m ìn h ” “chúng tôi qua cái khắc nghiệt mùa khô/ qua
mùa mưa mùa mưa dai dăng/ võng mắc cột tràm đêm ướt sũng/ xuồng vượt sông
dưới pháo sáng nhạt nhoà ”

Trong khi đó, trường ca Đêm trên cát lại mang phong vị khác. Nó có thể
được coi là bản trường ca “thế sự” bên “bàn trà” . Đây là trường ca mà Thanh Thảo
dành nhiều tâm huyết khi viết về một đêm của nhà thơ tài hoa, khí phách nhưng
“ làm loạn” Cao Bá Quát, c ấ u trúc của trường ca này gồm từng đoạn ngắn vài ba
câu, năm bảy câu nhưng cô đọng, súc tích, vẽ lên bức chân dung tinh thần, nhân
cách của vị Thánh Quát dân tộc, trong đó có những câu rất hay: “ai thảnh thơi ăn
măng trúc mùa thu/ gió heo may ta củi đấu từ biệt"
Trong cả tập thơ K hối vuông Rubic này, có lẽ bài thơ văn xuôi dài Khối
vuông R ubỉc là ấn tượng với bạn đọc nhất. Thanh Thảo đã để cho độc giả chơi trò
chơi Rubic, nhằm đưa thể loại trường ca tham gia vào cuộc chơi xoay và xoay bất
tận từ sử thi về chiến tranh đến những mảnh ghép của cuộc sống đời thường. Thanh
Thảo đã cấu trúc K hố i vuông Rubic thành 57 lần xoay. Mỗi lần xoay đều được mở
đầu bằng câu: “Tôi xoay những ỏ vu ô n g ”. Tác giả xoay theo ý mình, người đọc
tham gia chơi Rubic thì cứ tuỳ ý mà xoay những ô vuông cho thơ chuyến động tròn.
Mỗi ô màu là mỗi mảnh đời, mỗi giai đoạn, mỗi số phận khác nhau. Lối thơ đó của
Thanh Thảo rất lạ. Nó vừa là thơ, vừa là văn, vừa là kịch, vừa là phim., nhưng cuối
cùng vân cứ là thơ khi liên tục những vòng xoay Rubic vân còn chuyên động tròn.
Thanh Thảo gọi “Rnbic - đó là cấu trúc của th ơ ”.

20


×