Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ KHÁNH HUYỀN

CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ KHÁNH HUYỀN

CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THUẾ
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thƣơng Huyền

HÀ NỘI - 2014


2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Thị Khánh Huyền

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:


NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT THUẾ VÀ

6

NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THUẾ

1.1.

Thuế và pháp luật thuế

6

1.1.1. Thuế

6

1.1.2. Pháp luật thuế

11

1.2.

19

Nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế

1.2.1. Nguyên tắ c công bằ ng khi xây dựng pháp luật thuế

20


1.2.2. Nguyên tắ c minh ba ̣ch, rõ ràng, cụ thể

30

1.2.3. Nguyên tắ c đơn giản, dễ hiể u, dễ tiń h toán

32

1.2.4. Nguyên tắ c thuâ ̣n tiê ̣n cho người nô ̣p thuế

35

1.2.5. Nguyên tắ c hiê ̣u quả

35

Chương 2:

THỰC TRẠNG NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG

PHÁP

39

LUẬT THUẾ QUA MỘT SỐ LUẬT THUẾ Ở VIỆT NAM
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN

2.1.

Các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế được thể hiện trong


39

một số luật thuế ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Nguyên tắc công bằng đươ ̣c thể hiê ̣n trong Luâ ̣t thuế thu nhâ ̣p

39

cá nhân
2.1.2. Nguyên tắc minh bạch , rõ ràng , cụ thể đươ ̣c thể hiê ̣n trong

50

Luâ ̣t thuế thu nhâ ̣p doanh nghiê ̣p
2.1.3. Nguyên tắc đơn giản , dễ hiể u , dễ tính tốn đươ ̣c thể hiê ̣n
trong Luâ ̣t thuế giá tri ̣gia tăng

4

55


2.1.4. Nguyên tắc hiệu quả và thuâ ̣n tiê ̣n đươ ̣c thể hiê ̣n trong Luâ ̣t

60

quản lý thuế
2.2.

Hướng hoàn thiện pháp luật thuế ở Việt Nam để đảm bảo các


68

nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế
2.2.1. Hướng hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân

68

2.2.2. Hướng hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t thuế thu nhâ ̣p doanh nghiê ̣p

72

2.2.3. Hướng hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t thuế giá tri ̣gia tăng

76

2.2.4. Hướng hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t quản lý thuế

84

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO

92

5



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kì quá độ chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy, tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước, thuế nói chung được sử dụng như một cơng cụ kinh tế hữu hiệu của
Nhà nước để điều tiết các hoạt động kinh tế và có vai trị rất quan trọng để
phân phối lại thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội.
Hơn 20 năm qua, Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, mở
cửa và hội nhập, hệ thống chính sách thuế đã được cải cách và hồn thiện
không ngừng để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu vai
trò của pháp luật thuế và những giải pháp chủ yếu để phát huy vai trị đó trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có ý nghĩa rất lớn
trong việc nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp luật thuế. Từ đó, phục vụ cho
cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
trong giai đoạn tới.
Do vậy, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế và việc xây dựng pháp
luật thuế được đặt ra trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay
là vấn đề thời sự cấp thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới cơ
chế chính sách tài chính quốc gia nói chung và phục vụ thiết thực cho công cuộc
cải cách thuế đạt kết quả cao. Việc ban hành đầy đủ các luật thuế để điều tiết xã
hội là một bước tiến trong nỗ lực cải cách thuế ở Việt Nam nhưng việc xây dựng
pháp luật thuế như thế nào để vừa đảm bảo chống thất thu ngân sách vừa tạo
sự phát triển mới về kinh tế - xã hội giai đoạn hiện nay, thì các nguyên tắc
đảm bảo việc xây dựng pháp luật thuế phù hợp với tình hình thực tế là cần
thiết góp phần tích cực vào cơng cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Các nguyên tắc xây dựng
pháp luật thuế" làm luận văn thạc sĩ của mình.

6



2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế là

hệ thống quan điểm chỉ

đạo chi phối sâu sắc việc ban hành và sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế hệ thống
văn bản pháp luật thuế của một quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình
vận hành của hệ thống pháp luật thuế. Các nguyên tắc này được nghiên cứu
trong mô ̣t số cơng trình của một số nhà khoa học , nghiên cứu dưới da ̣ng các
bài viết, bài báo, chuyên đề …
Mô ̣t số công trình nghiên cứu

tiêu biểu về thuế, pháp luật thuế và

nguyên tắ c xây dựng pháp luâ ̣t thuế ở Viê ̣t Nam có thể kể là: Vũ Văn Cương,
Vũ Ngọc Hà (2009), Pháp luật về kiểm tr a, thanh tra thuế ở Viê ̣t Nam , Tạp
chí L ̣t ho ̣c, sớ 4; Ngũn Văn Hiê ̣u, Lê Xuân Trường (2008), Hê ̣ thố ng thuế
một số nước Asean và Trung Quố c , Nxb Tài chính , Hà Nội; Trường Đại học
Luâ ̣t Hà Nô ̣i (2012), Giáo trình Ḷt th́ Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân ,
Hà Nội; Lê Xuân Trường (2010), Giáo trình quản lý th́, Nxb Tài chiń h, Hà
Nơ ̣i; Nguyễn Xuân Trin
̀ h , Lê Xuân Sang (2007), Điề u chỉnh chính sách thuế
và trợ cấp sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới , Nxb Tài chiń h , Hà
Nô ̣i; Trương Bá Tuấ n (2011), Đổi mới chính sách thuế giai đoạn 2001 - 2010,
Tạp chí Tài chính , sớ 2; Ngũn Văn Tú n (2009), Bản chất thuế - sự tiế p
cận từ các học thuyế t cổ điển và hiê ̣n đại , Tạp chí L ̣t ho ̣c, sớ 4; TS. Trầ n
Minh Đức, Nguyên tắ c công bằ ng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở
Viê ̣t Nam; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài khoa học cấp trường; TS. Nguyễn Văn
Tuyến, Các nguyên tắc cơ bản của pháp ḷt th́ và mơ hình cấu trúc của hệ
thống pháp luật thuế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Các công trình trên , vấ n đề nguyên tắ c xây dựn g pháp luâ ̣t thuế đươ ̣c
đề cập đến ở các mức độ khác nhau . Có cơng trình đề cập đến ý nghĩa , nô ̣i
dung của các nguyên tắ c này trong pháp luâ ̣t thuế , nêu khái quát về nô ̣i dung

7


các ngun tắc . Nhìn chung các cơng trình cịn tả n ma ̣n, chỉ đi vào khái quát
nô ̣i dung các nguyên tắ c hoă ̣c phân tić h riêng mô ̣t nguyên tắ c cu ̣ thể trong mô ̣t
chế đinh
̣ luâ ̣t nào đó , chưa có công triǹ h nào tâ ̣p trung phân tić h từng nguyên
tắ c biể u hiê ̣n qua các luâ ̣t cu ̣ thể cũng như nêu hướng hoàn thiê ̣n từng nguyên
tắ c trong luâ ̣t đó về mă ̣t thực tiễn.
3. Mục đích, nhiêm
̣ vu ̣ nghiên cƣ́u
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ thêm các vấn đề lý luận của
các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế, trên cơ sở đó phân tích , đánh giá
thực trạng thể hiện các nguyên tắc đó trong q trình xây dựng, hồn thiện hệ
thống pháp luật thuế ở Việt Nam và đưa ra một số gợi ý cụ thể cho việc tiếp
tục hoàn thiện các văn bản pháp luật thuế để đảm bảo các nguyên tắc đó.
Từ mu ̣c đích nghiên cứu nêu trên, luâ ̣n văn có những nhiê ̣m vu ̣ sau đây:
- Nghiên cứu những vấ n đề lý luâ ̣n về các nguyên tắ c xây dựng pháp
luâ ̣t thuế .
- Phân tích, đánh giá sự thể hiện các nguyên tắc xây dựng pháp luật
thuế và chỉ ra nhữn g điểm được và chưa được của hệ thống pháp luật thuế
Việt Nam hiện nay trong việc thể hiện các nguyên tắc đó.

- Đưa ra hướng hoàn thiện cụ thể cho một số văn bản thuế để đảm bảo
các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nguyên tắc xây dựng pháp luật
thuế. Tuy nhiên trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, luận văn chỉ nghiên cứu
các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế được thể hiện qua một số Luật thuế cơ
bản ở Việt Nam hiện nay như Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật quản lý thuế từ năm 2005 đến nay.
5. Phƣơng pháp luâ ̣n và các phƣơng pháp nghiên cƣ́u
Luâ ̣n văn nghiên cứu đươ ̣c thực hiê ̣n dựa trên c ơ sở phương pháp luâ ̣n
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điể m của

8


Đảng và Nhà nước ta về công tác tư pháp và cải cách tư pháp . Cụ thể, sử du ̣ng
phương pháp phân tić h và tổ ng hơ ̣p ở chương1, phương pháp so sánh, đố i chiế u,
phương pháp diễn dich,
̣ quy na ̣p ở chương 2 để tổng hợp các tri thức khoa học
và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Nhƣ̃ng điể m mới đóng góp của luâ ̣n văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế,
mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn. Những
điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Làm rõ sự cần thiết khách quan của các nguyên tắc xây dựng pháp
luật thuế và nội dung cụ thể của từng nguyên tắc cũng như sự tác động của
các nguyên tắc đó tới mục tiêu xây dựng pháp luật thuế.
- Luận văn lựa chọn những nguyên tắc chi phối lớn đến q trình xây

dựng và hồn thiện từng Luật thuế cụ thể như nguyên tắc công bằng đối với
Luật thuế thu nhập cá nhân; nguyên tắc minh ba ̣ch , rõ ràng , cụ thể đối với
Luâ ̣t thuế t hu nhâ ̣p doanh nghiê ̣p ; nguyên tắc đơn giản, dễ hiể u , dễ tiń h toán
đố i với Luâ ̣t thuế giá tri ̣gia tăng ; nguyên tắ c hiê ̣u quả và thuâ ̣n tiê ̣ n đố i với
Luâ ̣t quản lý thuế .
- Luận văn đưa ra một số nhận định, đánh giá việc thể hiện các nguyên
tắc xây dựng pháp luật thuế đươ ̣c thể hiê ̣n thông qua một số Luật thuế cụ thể
trong pháp luâ ̣t thuế Viê ̣t Nam hiện nay.
- Luận văn đưa ra hướng hoàn thiện cụ thể cho từng luật thuế bao
gồ m Luâ ̣t thuế thu nhâ ̣p cá nhân , Luâ ̣t thuế thu nhâ ̣p doanh nghiê ̣p, Luâ ̣t thuế
giá trị gia tăng và Luật quản lý thuế để đảm bảo các nguyên tắc công bằ ng;
nguyên tắ c minh ba ̣ch , rõ ràng, cụ thể; nguyên tắ c đơn giản , dễ hiể u , dễ tính
toán; nguyên tắ c hiê ̣u quả và thuâ ̣n tiê ̣n nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
xây dựng pháp luâ ̣t thuế ở Việt Nam trong thời gian tới.

9


7. Kế t cấ u của luâ ̣n văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồ m 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về pháp luật thuế và nguyên tắc xây
dựng pháp luật thuế.
Chương 2: Thực trạng nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế qua một số
luật thuế ở Việt Nam và hướng hoàn thiện.

10


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT THUẾ
VÀ NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THUẾ
1.1. THUẾ VÀ PHÁP LUẬT THUẾ

1.1.1. Thuế
1.1.1.1. Khái niệm thuế
Thuế là mô ̣t khoản đóng góp bắ t buô ̣c từ các thể nhân và pháp nhân do
Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho
mục đích cơng cộng.
Mă ̣t khác , th́ vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch
sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách
quan, gắn với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Thuế là hiện tượng tất
yếu, xuất hiện và tồn tại cùng với các hiện tượng kinh tế - xã hội khác. Sự
xuất hiện, phát triển của thuế gắn với mỗi giai đoạn, lợi ích mà nhà nước sử
dụng nó làm cơng cụ điều tiết nguồn thu của nền kinh tế xã hội ấy. Để duy trì
sự tồn tại đồng thời với việc thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần
có nguồn vật chất để thực hiện những chi tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền
lực chính trị, nhà nước thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật
chất đó. Quan hệ thu, nộp những nguồn vật chất này chính là thuế. Thu thuế
được thực hiện từ hình thức thu bằng hiện vật chuyển dần sang thu dưới hình
thức giá trị. Điều đó cũng có nghĩa, thuế xuất hiện ban đầu có hình thức biểu
hiện rất đơn giản. Quan hệ phu phen, cống nạp là những loại thuế thể hiện
dưới hình thức hiện vật dần có sự phức tạp hơn - hình thức sưu, thuế được cắt
đặt một cách thống nhất trong phạm vi lãnh thổ. Đến khi tiền tệ ra đời, hình
thức thuế thu bằng tiền làm giảm nhẹ sự nghiệt ngã của các hình thức cống
nộp. Ở phương Tây, hình thức thuế xuất hiện sớm nhất là ở La Mã cổ đại dưới
dạng "thuế ruộng đất". Cùng với sự phát triển, những loại thuế và hình thức

11



thuế phức tạp hơn dần hình thành. Những hình thức "thuế thập phân" đã xuất
hiện ở Anh thế kỷ thứ X. Theo đó, "một phần mười giá trị sản phẩm phải
được trích nộp cho tổ chức quyền lực cơng cộng bằng các quan hệ pháp luật".
Hoặc vào thời kì này, tại Italia, 10% giá trị của tất cả hàng hóa, sản phẩm
nông nghiệp phải nộp cho nhà nước. Ở Trung Quốc hình thức thuế sớm nhất là
"cống" thời nhà Hạ. Thuật ngữ "thuế" xuất hiện ở quốc gia này vào năm 594
trước Công nguyên.
Đối với Việt Nam, "thuế má" cũng đã bắt đầu xuất hiện từ thời kì đầu
của chế độ phong kiến, nhằm tập trung nguồn công quỹ cho nhà vua nhưng
chủ yếu dưới dạng cống vật. Mặc dù vậy, cho đến năm 1013, vào đờ i vua Lý
Thái Tổ việc đánh thuế mới được hình thành một cách có tổ chức, hệ thống.
Đến thế kỉ thứ XVI, ngồi các loại thuế đã được thu ổn định, các triều đại còn
đặt thêm những loại thuế mới (thuế mỏ, thuế đò, thuế chợ, thuế tuần tuy, thuế
muối, thuế thổ sản - thời chúa Trịnh: Thuế xuất cảng, thuế nhập cảng thời nhà
Nguyễn). Bên cạnh một số triều đại có chính sách thuế hợp lòng dân (như thời
Lý, Trần, Lê sơ), hệ thống thuế trong thời kì phong kiến có điểm chung là
thiếu chuẩn mực về đạo kí và pháp lí; chưa đáp ứng được yêu cầu và lời ích
của nhân dân. Sử cũ ghi lại "Thuế má thu đến tơ tóc, mà dùng của cải như bùn
đất". Đến thời kì Pháp thuộc, chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra rất nhiều loại
thuế, tiêu biểu là: thuế rượu, thuế muối, thuế đoan (thuế quan), thuế môn bài,
thuế thổ trạch. Hệ thống thời kì này mang nặng tính vơ vét, bóc lột.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, song song với việc
xóa bỏ hệ thống thuế phi nhân đạo (thuế thân, thuế muối, thuế thổ trạch….)
Nhà nước dần dần hình thành hệ thống thuế mới. Cùng với sự phát triển của
kinh tế - xã hội, yêu cầu đặt ra trong từng giai đoạn cụ thể, hệ thống thuế của
Việt Nam ngày càng đi tới sự ổn định và hoàn thiện.
Như vậy, thuế là hiện tượng tất yếu, xuất hiện và tồn tại cùng với các
hiện tượng kinh tế - xã hội khác. Sự xuất hiện và phát triển của thuế gắn với


12


mỗi giai đoạn, lợi ích mà nhà nước sử dụng nó làm cơng cụ điều tiết nguồn
thu của nền kinh tế xã hội ấy.
Để đưa ra khái niệm mới về thuế hồn tồn khơng đơn giản. Các nhà
kinh tế học đã có q trình nghiên cứu sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau
nhằm tìm khái niệm thuế theo cách đánh giá của mình. Các Mác viết: "thuế là
cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được
tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước". Bằng
cách định nghĩa khác, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng thuế là "một hình
thức phân phối thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của
mình, dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư
của xã hội một cách cưỡng chế và khơng hồn lại"
Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh
của luật pháp, các chuyên gia về luật thuế cũng đã nhận định "thuế là một trật
tự đã được thiết lập hịa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng
thực hiện nghĩa vụ thu, nộp vào ngân sách. Thuế khơng có bất kì sự phân biệt
đối xử nào giữa các bang hay vùng lãnh thổ".
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về thuế như vậy nhưng chúng ta đều
có thể nhận thấy nét chung sau: thuế là khoản thu nộp mà các tổ chức hoặc cá
nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định.
Với cách nhìn nhận khách quan về thuế, có thể thấy bản chất của thuế
là loại quan hệ phân phối gắn với nhà nước, loại quan hệ giữa nhà nước với
người nộp thuế. Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ
kinh tế, chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan hệ thu và
nộp như nhau [33, tr. 7-11].
1.1.1.2. Đặc điểm thuế
Ra đời và tồn tại cùng với Nhà nước, từ đó đến nay, thuế đã trải qua
một q trình phát triển lâu dài. Với mỗi cách tiếp cận khác nhau, các nhà

nghiên cứu sẽ đưa ra khái niệm riêng phục vụ cho mục đích nghiên cứu của
mình về thuế. Vì vậy, đã có rất nhiều khái niệm về thuế khác nhau.

13


Tuy nhiên, thuế sẽ có những đặc tính nhất định để phân biệt với các
khoản phí, lệ phí và các khoản đóng góp tự nguyện khác, để hiểu rõ bản chất
của thuế, khi nghiên cứu chúng ta cần làm rõ các đặc điểm của thuế. Từ định
nghĩa nêu trên, ta có thể chỉ ra được các đặc điểm của thuế như sau:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách.
Nhà kinh tế học nổi tiếng Josseph E .Stiglitz cho rằ ng: "Thuế khác với
đa số những khoản chuyể n giao tiề n từ người này sang người kia : Trong khi
tấ t cả những khoản chuyể n giao đó là tự nguyê ̣n thì thuế la ̣i là bắ t buô ̣c".
- Thu nhâ ̣p của người nô ̣p thuế đươ ̣c chuyể n giao cho Nhà nước mà
không kèm theo mô ̣t sự cấ p phát hoă ̣c những quyề n lơ ̣i nào khác cho người
nơ ̣p th́ .
- Tính bắt buộc của thuế khơng mang nội dung hình sự , nghĩa là vi ệc
đóng thuế cho Nhà nước không phải là kế t quả nảy sinh từ hành vi pha ̣m pháp
mà là nghĩa vụ đóng góp được pháp luật thừa nhận và xã hội tơn vinh.
Khác với hình thức động viên khác:
+ Hình thức phí, lê ̣ phí và cơng trái nói chung mang tính tự nguyện và
có tính chất đối giá
+ Phạt tiền cũng là hình thức bắt buộc, song nó chỉ xảy ra khi người bi ̣
phạt có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi í

ch Nhà nước hoă ̣c

công cộng nào cho người nô ̣p thuế [8, tr. 5-6].
- Đối với các cơ quan thu thuế: Thu thuế là trách nhiệm đối với cán

bộ, cơ quan thu thuế. Cán bộ cơ quan thu thuế không được quyền lựa chọn
đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế... Khoản 1 Điều 8
Luật quản lý thuế quy định: "Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế là tổ chức
thực hiện thu thuế theo quy định của pháp luật", lấy pháp luật làm căn cứ duy
nhất để thực hiện.
- Đối với người nộp thuế: Đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ
cho nhà nước khi có đủ điều kiện do pháp luật thuế quy định mà không phải

14


quan hệ thanh tốn trong hợp đồng hay ngồi hợp đồng. Dù được thực hiện
dưới hình thức nào, thuế vẫn thể hiện tính chất bắt buộc, đối tượng nộp thuế
khơng có quyền trốn thuế hoặc mong muốn tự mình ấn định hay thỏa thuận
mức đóng góp của mình mà chỉ có quyền chấp thuận. Những đối tượng nộp
thuế vi phạm luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hoặc
cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật để buộc họ phải là tròn nghĩa
vụ nộp thuế. Đây là điểm khác biệt giữa thuế với các khoản đóng góp mang
tính chất tự nguyện.
Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực nhà nước . Thuế là hình thức
văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan lập
pháp đặt ra. Đây là một điểm giúp phân biệt thuế và các khoản phí, lệ phí.
Tuy cũng là những khoản thu có tính chất bắt buộc nhưng phí và lệ phí được
thực hiện dựa theo các văn bản dưới luật.
Có thể thấy, thuế và quyền lực nhà nước là hai phạm trù không thể
tách rời: Nhà nước là chủ thể duy nhất đặt ra các khoản thuế và ngược lại thuế
là phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực nhà nước. Bằng quyền
lực chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng
nộp thuế. Vì vậy, chỉ gắn với yếu tố quyền lực nhà nước, thuế mới đảm bảo
hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho nhà nước.

Theo quy định của pháp luật, thuế được đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh cưỡng chế: nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành
chính hoặc cưỡng chế hình sự. Qua đó nhà nước đã gián tiếp đảm bảo tính ổn
định trong viê ̣c thu thuế của nhà nước và đảm bảo tính ổn định của thuế.
Thứ ba, thuế khơng mang tính đối giá, khơng hồn trả trực tiếp.
Khác với khoản vay, phí và lệ phí, thuế khơng hồn trả trực tiếp cho
người nộp thuế (tuy nhiên, một phần thuế được hoàn trả gián tiếp cho người
nộp thuế thông qua các khoản phúc lợi xã hội, phúc lợi cơng cộng). Sự khơng
hồn trả trực tiếp được thể hiện ở cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu

15


thuế, Nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp
thuế. Sau khi thu thuế, Nhà nước cũng khơng có sự bồi hồn trực tiếp nào cho
người nộp thuế. Bởi vì kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế chủ
yếu là các sản phẩm cơng (những lợi ích khơng thể xác định chính xác được
theo giá trị vật chất). Lơ ̣i ić h từ viê ̣c nô ̣p thuế sẽ đươ ̣c hoàn trả gián tiế p thông
qua các dich
̣ vu ̣ công cô ̣ng của Nhà nước cho cô ̣ng đồ ng xã hô ̣i
Thuế được thu nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, nên
thuế khơng có đối khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ nguồn thu từ mỗi
loại thuế không được quy định gắn với mục đích chi tiêu cụ thể nào cả mà đều
được sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung của Nhà nước trong quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Vì thế, khi xem xét khái niệm thuế
cũng phải hiểu thuế trên hai góc độ: Thuế vừa là công cụ huy động nguồn thu
để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và thuế vừa là công cụ giúp Nhà nước
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội hay công cụ quản lý vĩ mơ nền kinh tế.
Thứ tư, thuế có phạm vi áp dụng rộng. So với phí, lệ phí thì thuế có
phạm vi áp dụng rộng hơn. Phạm vi áp dụng của thuế khơng có giới hạn, khác

biệt giữa các địa phương, vùng lãnh thổ. Hầu như mọi đối tượng hàng hóa
dịch vụ (được phép lưu thơng và hợp pháp), mọi tổ chức, cá nhân (có tư cách
chủ thể) đều chịu sự điều chỉnh của thuế. Bởi vì thuế là khoản thu có tính chất
bắt buộc đối với tất cả các tổ chức, cá nhân khi có đủ những điều kiện nhất
định [33, tr. 11-13].
1.1.2. Pháp luật thuế
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế
Việc xác định nghĩa vụ thuế của các tổ chức, cá nhân và quan hệ thu,
nộp thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa trên những căn cứ
pháp lí nhất định, đó chính là pháp luật thuế.
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước

16


có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà
nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Pháp luật thuế điều chỉnh các nhóm quan hệ pháp luật sau:
Thứ nhấ t, nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế.
Các tổ chức, cá nhân dù trực tiếp hay gián tiếp đều phải thực hiện
nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Để đảm bảo việc nộp thuế đầy đủ, đúng hạn,
đảm bảo sự công bằng trong việc thự c hiện nghĩa vụ nộp thuế, pháp luật thuế
điều chỉnh những loại hành vi cơ bản sau đây của những đối tượng này:
+ Thực hiện đăng kí, kê khai thuế;
+ Thực hiện nộp thuế theo trình tự, tức là thực hiện một trật tự phải
tuân thủ trong suốt quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế;
+ Thực hiện chế độ báo cáo thuế và các vấn đề có liên quan đến cơ sở
xác định số thuế phải nộp với cơ quan có thẩm quyền;
+ Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét đúng, chính xác số thuế

phải nộp trong những trường hợp cần thiết.
Thứ hai, nhóm quan hệ phát sinh trong q trình quản lí thuế.
Quản lí thuế là một trong những nội dung quan trọng, khơng thể tách
rời hoạt động quản lí nhà nước. Hoạt động quản lí thuế gồm nhiều nội dung
cụ thể khác nhau, tuy vậy bao giờ cũng gắn liền với sự tham gia của nhà nước
(nhân danh chính mình hoặc thơng qua các cơ quan chức năng).
Hoạt động quản lí thuế của các cơ quan có thẩm quyền bao gồm
những nhóm hành vi cơ bản được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc
quản lí hành chính và thể hiện thơng qua một loạt loại hành vi:
+ Chấp hành những quy định về thuế của các cơ quan có thẩm quyền,
chống hiện tượng chiếm dụng và trốn lậu thuế;
+ Xác định phạm vi người nộp thuế và các nguyên tắc đánh thuế;
+ Xác định đúng đối tượng tính thuế và các căn cứ tính thuế;
+ Xác định cách thức tính thuế, quyết định việc miễn giảm thuế trên
cơ sở quy định của pháp luật.

17


+ Tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm chống thất thu thuế
+ Thanh tra, kiểm tra quá trình thu, nộp thuế..
Thứ ba , nhóm quan hệ phát sinh trong q trình xử lí vi phạm và
khiếu nại về thuế.
+ Hoạt động xử lí vi phạm về thuế liên quan đến các hành vi vi phạm
pháp luật thuế như nợ thuế, sót thuế, trốn thuế, chống thuế nhưng chưa đến
mức cấu thành tội phạm hình sự;
+ Giải quyết khiếu nại những quyết định hành chính của cơ quan có
thẩm quyền khi ra các quyết định không đủ căn cứ, không công bằng, không
đúng pháp luật...
Xét đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế, có thể nhận thấy:

Nhà nước, với tư cách là chủ thể quyền lực, luôn là một bên tham gia
quan hệ thuế và trực tiếp chi phối các quan hệ đó.
Các nhóm quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật
thuế cho thấy các quan hệ do pháp luật thuế điều chỉnh ln mang tính chấp
hành và điều hành, là một nội dung quan trọng của tài chính cơng. Điều này
cũng chi phối trực tiếp việc sử dụng phương pháp điều chỉnh quan hệ thuế.
Xuất phát từ tính chất của các quan hệ thuế do luật thuế điều chỉnh, để
sự tác động của pháp luật có hiệu quả, luật thuế sử dụng phương pháp mệnh
lệnh quyền uy.
Để có được nguồn thu, nhà nước yêu cầu người dân phải nộp thuế. Để
có thể tăng thêm khả năng chi tiêu, nhà nước có thể ban hành, thay đổi các
loại thuế mới hoặc bãi bỏ những ưu đãi về thuế đang áp dụng đối với người
dân. Để kịp thời trang trải cho hoạt động của mình, có được số thu ổn định và
chủ động, nhà nước yêu cầu người dân nộp đúng, nộp đủ, theo thời hạn số
thuế nhất định... Những ví dụ nêu trên cho thấy khơng có sự bình đẳng giữa
cơ quan có thẩm quyền về thuế với người nộp thuế. Nhà nước có quyền đơn
phương đưa ra những quyết định theo ý chí của mình mà khơng cần có sự

18


thỏa thuận của các đối tượng còn lại. Trường hợp cần thiết, nhà nước có thể
áp dụng các biện pháp cưỡng chế, buộc đối tượng nộp thuế phải thực hiện
nghĩa vụ.
Việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh quyền uy trong quan hệ thuế
hồn tồn khơng phải với hình thức biểu hiện giống nhau. Chẳng hạn, cơ quan
quản lí thuế có quyền ra các thông báo thuế, quyết định truy thu thuế và yêu
cầu đối tượng nộp thuế thực hiện đúng. Nhưng ở trường hợp đối tượng nộp
thuế tự kê khai, tính thuế và tự nộp thuế thì có sự khác nhau về hình thức biểu
hiện nhưng điều này hồn tồn khơng có nghĩa tính chất quyền uy bị mất đi.

Trước hết, việc làm này phải được cơ quan quản lí thuế cho phép hay phê
chuẩn; nếu đối tượng nộp thuế khơng tính đúng, tính đủ, nộp theo thời hạn,
việc bị xử lý vi phạm sẽ trở thành hiện thực. Khi số thuế không được nộp đầy
đủ, đúng hạn sẽ dễ dẫn tới hàng loạt các khả năng khác nhau như phong tỏa
tài khoản, yêu cầu thu hộ, phạt nộp chậm được thực hiện cùng với các biện
pháp hành chính khác.
Trong giai đoạn hiện nay, các nước đang có xu thế phân chia hệ thống
pháp luật thành luật công (public law) và luật tư (private law). Luật công là
các luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến lợi ích cơng cộng hay mối quan
hệ giữa cơ quan nhà nước, quan hệ nhà nước với công dân. Luật tư điều chỉnh
quan hệ liên quan đến lợi ích cá nhân, quan hệ giữa các cơng dân. Như vậy,
luật thuế (taxation law) có đầy đủ căn cứ để được xác định đây là một bộ phận
quan trọng của luật công [33, tr. 24-28].
1.1.2.2. Vai trò của pháp luật thuế
Đối với mỗi quốc gia, thuế quan có vai trị quan trọng trong việc bảo
hộ nền sản xuất trong nước; đóng góp nguồn thu cho ngân sách và điều tiết
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của mỗi quốc gia. Khi Việt Nam đã là thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc bảo hộ sản
xuất trong nước bằng con đường thuế quan khơng cịn phù hợp. Vậy làm thế

19


nào để thuế quan góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa? Có thể thấy vai trò
của pháp luật thuế nhằm tạo điều kiện cho sự hòa nhập của Việt Nam đối với
nền kinh tế thế giới là rất quan trọng, tuy nhiên nó cũng phải đảm bảo nguồn
thu đối với ngân sách nhà nước, cũng như đảm bảo những mục tiêu phát triển
của nền kinh tế. Do đó, có thể thấy tầm ảnh hưởng của pháp luật thuế là rất
lớn. Trong thời đại ngày nay, hội nhập quốc tế đang là một xu thế phát triển

tất yếu, cuốn hút tồn thể nhân loại hịa vào dịng chảy của nó. Q trình hội
nhập quốc tế đã và đang tạo ra những thời cơ và thách thức khơng nhỏ cho
các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Một trong những thách
thức ấy chính là việc xóa bỏ các rào cản tự do hóa thương mại tồn cầu, trong
đó quan trọng nhất là việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế
quan. Đây là vấn đề ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống chính sách, pháp luật của
Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó, bộ phận pháp luật chịu sự tác động
trực tiếp của trào lưu hội nhập chính là pháp luật thuế. Ở nước ta hiện nay,
cùng với quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật
thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy
phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp
ứng yêu cầu của Nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, pháp luật thuế giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước, nếu khơng có hệ thống pháp luật thuế thì khơng thể thì một quốc gia
khơng thể phát triển tồn diện. Với ý nghĩa to lớn đó, vai trị của hệ thống
pháp luật thuế trong điều kiện của nước ta hiện nay đươ ̣c thể hiê ̣n qua các
khía cạnh sau:
Thứ nhấ t , pháp luật thuế là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện
nghĩa vụ thuế và các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thuế nhằm đảm bảo ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.

20


Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng
đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn
tài chính quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà
nước. Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua
các thời kỳ, ở các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu

ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu
từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước. Các luật
thuế được ban hành đều xác nhận "động viên một phần thu nhập vào ngân
sách nhà nước" như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoản 90%
tổng thu ngân sách nhà nước (theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai
đoạn 2001 - 2010). Điều này lý giải cơ cấu cân đối ngân sách nhà nước được
pháp luật ghi nhận. Điều 8 Luật ngân sách nhà nước quy định rõ: "Ngân sách
nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn
hơn tổng số chi thường xun và góp phần tích lũy ngày càng cao vào đầu tư
phát triển" [18].
Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều chỉnh
quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách nhà nước.
Hầu hết các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu
ngân sách nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu
vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành
và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân
sách nhà nước, từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hiện nay, nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển

21


thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một cơng cụ quan trọng để góp phần
ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.
Thứ hai , pháp luật thuế góp phần cân bằng điều tiết vĩ mơ của Nhà
nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng

thông qua sự phân bổ và sử dụng các nguồn lực, là đòn bẩy kinh tế quan
trọng, kích thích hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết tới mọi mặt
của đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, Nhà nước thể hiện
ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thơng
qua đó thực hiện cơng bằng xã hội. Ngồi việc huy động nguồn thu cho ngân
sách nhà nước như trình bày ở trên, pháp luật thuế cịn có vai trị quan trọng
trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Điều 26 Hiến pháp 1992 ghi
nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp
luật thuế đóng vai trị là cơng cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua
việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hóa và thực hiện
chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Điều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của
Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của
pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất,
miễn giảm thuế…Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền
kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là
công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh
doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ
thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can
thiệp đến cung - cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh
cung - cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định

22


và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác
động tích cực đến cung - cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản

xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Điều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của
Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp
luật thuế, Nhà nước tác động đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn
chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ. Nhà nước tăng thuế suất,
thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất, kinh doanh,
tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Để thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và
khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy
định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất khẩu, nhập khẩu đối với một số
hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp
dụng có tính chấp phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thối về tài chính ở một số doanh nghiệp.
Đối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích,
ngồi các quy định chung, pháp luật thuế cịn có các quy định ưu đãi, miễn,
giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thối về tài chính, tạo sự ổn định và phát
triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà
nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở
tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong
việc điều chỉnh cung - cầu và cơ cấu kinh tế.
Thứ ba, pháp luật thuế góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các
ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự

23



bình đẳng và cơng bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân
và pháp nhân. Sự bình đẳng và cơng bằng được thể hiện thơng qua chính sách
động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và cơng
bằng. Vai trị điều thiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của
pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã
hội. Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước
phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất
cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng
pháp luật thuế làm công cụ để điều hịa vĩ mơ thu nhập trong xã hội. Sự điều
tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế. Nhà nước
thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên
trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế và cơ cấu các loại thuế trong hệ
thống thuế, về thuế suất…đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập
trong xã hội. Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy
phạm pháp luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ
thống thuế và thuế suất. Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó khơng
làm triệt tiêu vai trị pháp luật thuế là cơng cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước
trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
1.2. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THUẾ

Nguyên tắ c xây dựng pháp luâ ̣t thuế là hệ thống quan điểm chỉ đạo chi
phối sâu sắc việc ban hành và sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế hệ thống văn bản
pháp luật thuế của một quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp tới q trình vận hành
của hệ thống pháp luật thuế. Thuế liên quan đến quyền lợi trực tiếp của người
nộp thuế và nhà nước. Người nộp thuế (dù thuế trực thu hay thuế gián thu)
đều phải trích một phần tài sản để chuyển cho nhà nước mà khơng thể khước
từ hay trì hỗn. Ngược lại, nhà nước nào cũng phải mong chờ nguồn thu từ
thuế để đảm bảo nguồn vật chất đầu vào cho việc thực hiện chức năng nhiệm


24


vụ. Rõ ràng, việc thu nộp thuế ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cả hai
loại chủ thể. Yêu cầu đặt ra là việc thu nộp thuế phải đạt tới mục tiêu sao cho
lợi ích của cả hai bên đều đạt được hoặc có thể chấp nhận được (về phía
người nộp thuế). Vì vậy, những tư tưởng xun suốt quá trình ban hành văn
bản pháp luật thuế, quá trình thu nộp thuế cần phải được làm rõ và quy định
pháp luật phải thể hiện rõ tư tưởng này. Nếu không xác định hoặc xác định
không đúng nguyên tắc đánh thuế, nhà nước sẽ không nhận được sự ủng hộ
của dân chúng, thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như chống thuế hoặc
trốn thuế. Có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nguyên tắc đánh thuế nhưng nổi
tiếng nhất là nguyên tắc của Adam Smith "bình đẳng, xác thực, tiện lợi và ít
tốn kém". Vì vậy việc xây dựng pháp luật thuế ngoài việc phải đảm bảo các
nguyên tắc xây dựng pháp luật nói chung cịn phải đảm bảo các nguyên tắc cơ
bản sau:
- Nguyên tắ c công bằ ng
- Nguyên tắ c minh ba ̣ch, rõ ràng, cụ thể
- Nguyên tắ c đơn giản, dễ hiể u, dễ tiń h toán
- Nguyên tắ c thuâ ̣n tiê ̣n cho người nộp thuế
- Nguyên tắ c hiê ̣u quả
1.2.1. Nguyên tắ c công bằ ng khi xây dựng pháp luật thuế
Nguyên tắc này lần đầu tiên được nhắc đến trong Bản Tuyên ngôn nhân
quyền năm 1789 và đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong giới học giả thời bấy
giờ. Điều đó khiến cho việc xác định nội dung của nguyên tắc này trở nên rất
khó khăn, bởi đây là ngun tắc vừa có thể tiếp cận từ khía cạnh chính trị, vừa
có thể xem xét từ khía cạnh kinh tế và khía cạnh pháp lý.
Xét ở khía cạnh chính trị, ngun tắc này gắn bó chặt chẽ với vấn đề
nhân quyền, trong đó có quyền được đối xử bình đẳng và khơng phân biệt.
Cịn xét ở khía cạnh kinh tế, nguyên tắc này liên quan đến vấn đề bản chất của

thuế, như là một nghĩa vụ tài sản "bất khả tránh" của tổ chức và cá nhân đối

25


×