Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.32 KB, 9 trang )

MỞ ĐẦU
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước; là nhân tố điều
chỉnh quan hệ xã hội theo hướng nhất định. Nhà nước ban hành pháp luật, và là
chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật; đồng thời nhà nước cũng đề ra nhiều
chủ trương, chính sách đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện đặc biệt
thể hiện qua nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật. Trên thực tế, nguyên
tắc này thể hiện như thế nào? có điểm tích cực và hạn chế ở những điểm nào?
Để làm rõ vấn đề, em xin trình bày đề tài: “Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động
xây dựng pháp luật ở Việt Nam”.
NỘI DUNG
I.
Hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam
1. Khái niệm xây dựng pháp luật
Xây dựng và thực thi pháp luật là hai mặt hoạt động cơ bản của nền quản trị
quốc gia. Chúng ta chỉ có thể xây dựng và thiết lập nền quản trị quốc gia hữu
hiệu khi cả hoạt động xây dựng pháp luật và hoạt động thực thi pháp luật đều
hiệu quả.
Để tổ chức và quản lí các lĩnh vực quan trọng, khác nhau của đời sống xã hội
được tốt, nhà nước phải tiến hành xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định nhằm ban hành ra các qui
phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước
bao gồm nhiều hoạt động, từ việc thừa nhận các qui phạm xã hội có sẵn, các án
lệ đến việc sửa đổi, bổ sung các qui phạm pháp luật và xây dựng, ban hành ra
các văn bản qui phạm pháp luật mới.
Như vậy, xây dựng pháp luật ở Việt Nam là một quá trình hoạt động vô cùng
quan trọng, phức tạp bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với
nhau do nhiều tổ chức và cá nhân có vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn khác
nhau cùng tiến hành, nhằm chuyển hoá ý chí nhà nước của nhân dân Việt Nam
thành những quy định pháp luật dựa trên những nguyên tắc nhất địnhvà được thể


hiện dưới hình thức pháp lí nhất định mà chủ yếu là văn bản quy phạm pháp
luật.


2. Khái niệm nguyên tắc xây dựng pháp luật
Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo phản ánh khái quát
những sự kiện khách quan liên quan đến quá trình “nâng” ý chí nhà nước lên
thành pháp luật. Đây là những cơ sở quan trọng của toàn bộ quá trình xây dựng
pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình ban hành, sửa đổi hay
bãi bỏ các qui phạm pháp luật phải nghiêm chỉnh tuân theo. Các nguyên tắc đó
xuất phát từ thực tế khách quan và từ đường lối chính trị của đất nước. Chúng
đảm bảo việc thực hiện đầy đủ ý chí và lợi ích của nhà nước trong các quy định
pháp luật. Hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay được tiến hành
theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
Nguyên tắc khách quan;
Nguyên tắc khoa học;
Nguyên tắc dân chủ;
Nguyên tắc pháp chế;
Nguyên tắc đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các lực lượng xã hội.
3. Khái niệm nguyên tắc dân chủ
“Dân chủ” được hiểu khái quát là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Chỉ khi
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì mới đảm bảo thực hiện quyền dân
chủ, phát huy năng lực sáng tạo của mọi thành viên, thúc đẩy xã hội phát triển.
Nguyên tắc này xuất phát từ nhu cầu tham gia rộng lớn của nhân dân và đảm
bảo cho đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp
luật nhằm làm cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân trong xã hội. Mặt khác nó cho phép phát huy được trí tuệ của đông đảo
các tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật, đồng thời
cũng góp phần nâng cao hơn ý thức pháp luật của nhân dân.

Nếu quần chúng, nhân dân càng tham gia rộng rãi và tích cực vào công việc
xây dựng pháp luật thì các quy định pháp luật càng đảm bảo đầy đủ và toàn diện
hơn lợi ích, ý nguyện của họ. Sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng
pháp luật sẽ là điều kiện để đảm bảo sự thực hiện pháp luật nghiêm minh và có
hiệu quả sau này. Nhân dân tham gia xây dựng pháp luật bằng nhiều hình thức
khác nhau như bầu các đại biểu tham gia hoạt động vào các cơ quan nhà nước
các đại biểu này có quyền quyết định những vấn đề cơ bản của công tác xây


dựng pháp luật. Thông qua các tổ chức xã hội thực hiện phản biện dự án luật,
đóng góp ý kiến cho cơ quan, tổ chức để trình dự án luật (đóng góp ý kiến bằng
miệng, bằng văn bản; phát biểu ở các hội nghị, viết bài cho báo chí; gửi thư điện
tử...). Để đảm bảo nguyên tắc này thì nhà nước phải không ngừng mở rộng dân
chủ, các cơ quan nhà nước phải thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân, tạo điều
kiện cho nhân dân tham gia đông đảo và phải coi đó là quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình. Nguyên tắc này phải được quán triệt từ khâu đầu đến khâu cuối
của quá trình xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, với mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm
của quá trình đó hình thức và mức độ thể hiện sự tham gia của nhân dân sẽ khác
nhau.
Điều này dẫn tới nguyên tắc dân chủ đòi hỏi trong quá trình xây dựng pháp
luật, các chủ thể có thẩm quyền phải tạo điều kiện cho nhân dân có thể tham gia
một cách đông đảo và rộng rãi vào quá trình thảo luận các qui phạm pháp luật
dự thảo.
II.

Những cơ sở của nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng
pháp luật
1. Cơ sở chính trị của nguyên tắc
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân,
đại diện cho lợi ích và ý chí của nhân dân lao động. Đảng ta đã khẳng định,

Đảng cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời là đại biểu trung
thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhà nước ta là nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Trong chế độ nhà nước dân chủ, quần chúng nhân
dân là người làm chủ. Quyền lực, lợi ích thuộc về nhân dân, sức mạnh và quyền
lực đều nằm trong dân. Đó chính là cơ sở chính trị chứng tỏ dân chủ là nguyên
tắc cơ bản trong hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam.
2. Cơ sở pháp lí của nguyên tắc
Cơ sở pháp lí của nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật
được quy định tại Điều 28 Hiến pháp 2013:
“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả
nước.
Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công
khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.”
Cùng với Điều 28 Hiến pháp 2013, tại Khoản 6 Điều 5 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật 2015 cũng đã ghi nhận nguyên tắc xây dựng, ban hành


văn bản quy phạm pháp luật: “Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận,
phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”.
Như vậy, Hiến pháp 2013 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã
tạo điều kiện cho nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật bảo
đảm tính dân chủ được thực hiện.
III.

Nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây
dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay
1. Nội dung của nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật
Nguyên tắc này đảm bảo sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân

vào hoạt động xây dựng pháp luật nhằm làm cho pháp luật thể hiện được ý chí,
nguyện vọng của các thành viên trong xã hội. Mặt khác, nó cho phép phát huy
được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây
dựng pháp luật đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn ý thức pháp luật của
người dân.
2. Ý nghĩa của nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật
Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc củng cố, nâng cao vị trí, vai trò của pháp luật trong đời
sống, nhà nước và xã hội. Pháp luật đã và đang là cơ sở pháp lí vững chắc cho
việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, ghi nhận và đảm bảo tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Hoạt động xây dựng pháp luật dựa trên
nguyên tắc dân chủ sẽ nâng cao ý thức pháp luật của người dân, mỗi lần xây
dựng pháp luật người dân sẽ tích lũy cho mình một lượng kiến thức về pháp luật
nhất định, sẽ làm cho pháp luật đi sâu vào tiềm thức của người dân, để pháp luật
trở nên có hiệu lực.
IV.

Biểu hiện trong thực tiễn của nguyên tắc dân chủ trong hoạt động
xây dựng pháp luật.
1. Việc áp dụng nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật hiện nay
Điều 27 Hiến pháp 2013 qui định: “Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền
bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Việc thực hiện các quyền này do luật định”. Điều này cho thấy nhân dân có
quyền tự do dân chủ, tự do tham gia vào thành lập, quản lí nhà nước. Từ đó mà
người dân có quyền tham gia xây dựng pháp luật và nhà nước.


Điều 28 Hiến pháp 2013: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và
xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của

cơ sở, địa phương và cả nước”. Công dân “tham gia quản lý nhà nước” chính là
việc nhân dân tham gia hoàn thiện pháp luật.
Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Muốn vậy thì pháp luật phải
xuất phát từ ý chí của nhân dân. Pháp luật xuất phát từ ý chí của nhân dân tức là
nguyên tắc dân chủ phải được đặc biệt nhấn mạnh trong hoạt động xây dựng
pháp luật. Điều này đòi hỏi quá trình xây dựng pháp luật phải có sự tham gia của
người dân. Mỗi quy định pháp luật đều phải là sản phẩm trí tuệ của toàn dân. Có
vậy thì luật mới đi sâu vào cuộc sống, phát huy hiệu quả cao.
Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật có hai vấn đề chính:
Thứ nhất, việc xây dựng pháp luật phải thu nhận ý kiến của nhân dân
Thứ hai, nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để mọi tầng lớp nhân dân
tham gia vào quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát mọi chính sách của nhà
nước.
Sự tham gia của nhân dân trong hoạt động xây dựng pháp luật được thể hiện
qua nhiều giai đoạn: kiến nghị đưa ra sáng kiến pháp luật; tham gia vào giai
đoạn soạn thảo; bày tỏ quan điểm ý kiến về bất kỳ vấn đề nào trong dự luật mà
họ quan tâm; tham gia thẩm định, thẩm tra và đóng góp ý kiến trong quá trình
xem xét thông qua văn bản. Như vậy, trong toàn bộ quá trình hình xây dựng
pháp luật, người dân đều có quyền tham gia đóng góp ý kiến và kiến nghị sửa
đổi quy định pháp luật.
Người dân được tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và thành lập
nhà nước, người dân tham gia vào hoạt động giám sát, bỏ phiếu, đóng góp ý
kiến, phản ánh những sai sót trong pháp luật, được Nhà nước trưng cầu ý kiến…
dưới hai hình thức trực tiếp và gián tiếp.
Việc thực hiện nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật đã phản ánh
quan điểm, chủ trương của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ nói chung và
đảm bảo sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước nói riêng.
2. Những mặt khuyết điểm và yếu kém trong việc thực hiện nguyên tắc dân
chủ trong xây dựng pháp luật
Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những hạn chế và khuyết điểm

trong nguyên tắc hoạt động xây dựng pháp luật. Những sự vi phạm nguyên tắc
dân chủ ngày càng gia tăng, mức độ nghiêm trọng ngày càng lớn, sự tùy tiện


trong hoạt động xây dựng pháp luật, ban hành những luật chồng chéo, trái ngược
nhau… Thái độ trong việc thực hiện nguyên tắc dân chủ chưa tốt ở cấp trên, ý
thức của nhân viên cấp dưới và một số người dân còn kém, trách nhiệm từng
thành viên, cá nhân và người dân chưa rõ ràng.
Việc tổ chức lấy ý kiến người dân chưa liên tục, thường xuyên, nhiều khi còn
mang tính phong trào, hình thức, mang nặng mục đích tuyên truyền hơn là huy
động trí tuệ nhân dân. Vì thế mà ý kiến của người dân phụ thuộc nhiều vào ý chí
của cơ quan nhà nước, ít có sự cởi mở thông tin giữa người dân với chính quyền
trong việc xây dựng pháp luật. Đồng nghĩa với điều đó là việc đóng góp ý kiến,
đề xuất lên các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện pháp luật còn hạn
chế, số lượng ý kiến từ nhân dân còn ít, tâm lý ỷ lại, trông chờ, phó mặc.
Trong đời sống xã hội, nhiều nơi tính dân chủ không được đảm bảo, vẫn còn
nhiều sai phạm xảy ra, còn những ý kiến đóng góp của người dân không được để
ý và giải quyết. Vì thế, nguyên tắc dân chủ không còn được đảm bảo, sẽ gây ảnh
hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật, dẫn đến pháp luật không nói lên ý chí,
nguyện vọng của nhân dân.Đồng thời, cán bộ lãnh đạo địa phương cấp cơ sở
chưa thực hiện đúng nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật
như trưng cầu ý kiến, góp ý của nhân dân. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ
đến uy tín cán bộ đối với cá nhân. Không ít trường hợp cơ quan có thẩm quyền
chưa thông báo công khai các hoạt động trưng cầu ý dân, xây dựng pháp luật,
dẫn đến tình trạng người dân hoàn toàn không biết về các hoạt động đó, làm cho
người dân bị động, thiếu an tâm, giảm sút tính dân chủ trong nhân dân. Đến khi
người dân có vi phạm pháp luật hay có trách nhiệm pháp luật cũng không biết
mình nên làm gì và phải làm như thế nào.
Vì người dân không quan tâm đến hoạt động xây dựng pháp luật nên mỗi khi
nhà nước ban hành văn bản pháp luật mà trái với thực tế, nguyện vọng của nhân

dân, thì lúc đó người dân mới lên tiếng phản đối, buộc các nhà làm luật phải sửa
đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các văn bản pháp luật đó. Như vậy, chính người dân đã
đánh mất quyền lợi của bản thân.
V.

Một số kiến nghị hoàn thiện nâng cao hiệu quả việc thực hiện
nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật

Nhà nước cần đào tạo đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia vào thực hiện nguyên
tắc dân chủ cũng như xây dựng pháp luật về số lượng, trình độ và năng lực. Đội
ngũ cán bộ này trực tiếp nghe, phản hồi thông tin một cách thường xuyên có
trách nhiệm, tạo diễn đàn đối thoại với người dân.


Cơ quan lập pháp hoàn thiện các qui định pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn tham gia quá trình xây dựng
pháp luật có hiệu quả hơn.
Các vấn đề được nhà nước đưa ra lấy ý kiến nhân dân, huy động trí tuệ
nhân dân phải được thuyết trình, giải thích rõ ràng về mục đích, quan điểm, nội
dung, tác động tới đời sống xã hội của chính sách, dự thảo. Mặt khác, các vấn đề
được nhà nước trưng cầu ý dân phải được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, phải
được truyền thông quan tâm sát sao, đưa tin kịp thời.
Khi thực hiện nguyên tắc này cũng như khi xây dựng pháp luật phải dựa
trên cơ sở thực tiễn, đảm bảo tính khả thi về tài chính, thời gian cần thiết của
việc lấy ý kiến nhân dân.
Nhà nước trước hết tuyên truyền, vận động nhân dân về vai trò, ý nghĩa
của nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật, đó là quyền và nghĩa vụ của
mỗi công dân, giúp người dân ý thức được trách nhiệm của mình với đất nước
nói chung và với quá trình xây dựng pháp luật nói riêng. Sau khi tuyên truyền,
vận động; nhà nước đào tạo, trang bị kiến thức cơ bản, hệ thống về pháp luật, có

định hướng giúp người dân hiểu để từ đó tham gia xây dựng pháp luật hiệu quả.
Hoàn thiện pháp luật về cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Để thực hành cơ chế này hiệu quả, tránh hình thức, người dân phải nắm bắt
thông tin (dân biết), tham gia thảo luận (dân bàn), triển khai (dân làm), kiểm tra,
giám sát (dân kiểm tra) các chủ trương, biện pháp quy hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống pháp luật cũng ngày một
hoàn thiện, và trở thành công cụ quan trọng trong tổ chức và quản lý xã hội. Bên
cạnh những điểm tích cực đạt được thì hệ thống pháp luật nước ta cũng như quá
trình xây dựng còn tồn tại những điểm hạn chế. Do đó cần phát triển hơn nữa
quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam thời kỳ hội nhập. Để làm
tốt điều này thì nguyên tắc dân chủ cần đặc biệt được quan tâm, coi trọng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Lí luận nhà nước và pháp luật”. Trường đại học Luật Hà Nội.
Nxb. Công an nhân dân, 2010.
2. PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan. Các nguyên tắc pháp luật XHCN Việt Nam
thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế. Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.
3. PGS. TS. Nguyễn Văn Động (chủ biên). Xây dựng và hoàn thiện pháp
luật nhằm bảo đảm phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. Sách
chuyên khảo, Nxb. Tư pháp, 2010.
4. Lê Thị Thiều Hoa. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về sự tham gia của
nhân dân vào hoạt động xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay. – Luận văn
thạc sĩ Luật học; TS. Dương Thanh Mai hướng dẫn, Hà Nội, 2006.
5. />




×