Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam khi tham gia AEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.22 KB, 44 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Kí hiệu
1
2
3
4
5
6
7
8
9
1

Nghĩa đầy đủ
Tiếng Anh
APEC
Asia Pacific Economic
Cooperation
ASEAN The
Association
of
Southeast Asian Nations
CIF
Cost - Insurance - Freight
EU
European Union
FAO
Food
and


Agriculture
Organization of the United
Nations
FDI
Foreign Direct Investment
FOB
Free On Board
ISO
International Organization
for Standardization
ODA
Official
Development

Tiếng Việt
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á
Thái Bình Dương
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
Liên minh Châu Âu
Tổ chức Nông lương thế giới
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Giao hàng trên tàu
Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa
Hỗ trợ phát triển chính thức


10

WTO


Assistance
World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC BẢNG

STT
1
2
3
4
5

2

Nội dung
Trang
Sản lượng và giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn
27
2008-2014
Xuất khẩu gạo của Việt Nam theo thị trường năm 201328
2014
Cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2014
29
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và các nước năm 2013
29
Giá gạo bán buôn của Việt Nam giai đoạn 2011-2014
31



3


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài:

Trong điều kiện hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu hướng
tất yếu đối với mọi nền kinh tế và Việt Nam không nằm ngoài xu hướng đó.
Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức khu vực và quốc tế từ đó tận dụng đựoc
nhiều cơ hội từ việc mở cửa nền kinh tế mang lại nhiều thành tựu trước hết phải
kể đến ở lĩnh vực nông nghiệp nhất là sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.
Trong các thị trường tiêu thụ gạo của Việt Nam, có thể nói ASEAN là thị trường
lớn nhất do Việt Nam đã tận dụng khai thác lợi thế về địa lý và nét tương đồng
trong văn hoá Á châu. Hàng năm sản lượng gạo tiêu thụ ở thị trường này là rất
lớn, tuy nhiên đứng trước các thách thức cạnh tranh khi Việt Nam tham gia
ASEAN và khu mậu dịch tự do ASEAN( AFTA) thì Việt Nam còn nhiều bất cập
cần giải quyết: chất lượng sản phẩm, bảo vệ thương hiệu,… Nếu các vấn đề trên
được giải quyết hợp lý thì xuất khẩu gạo sang ASEAN sẽ có bước phát triển cao
hơn trong thời gian tới.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, em chọn để tài “Một số giải pháp đẩy mạnh
xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các nước ASEAN trong quá trình tham gia
AFTA” để nghiên cứu.
2.

Mục tiêu nghiên cứu:


Đề án được thực hiện nhằm phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu và thúc
đẩy xuât khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang các nước ASEAN từ đó đề xuất
ra những định hướng và giải pháp cụ thể nhằm củng cố, đẩy mạnh và phát triển
mặt hàng xuất khẩu chủ lực này.
3.

Đối tượng nghiên cứu:

Đề án nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gạo
của Việt Nam. Đồng thời đề án cũng đưa ra các định hướng giải pháp đẩy mạnh
xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN.
4.

Phương pháp nghiên cứu:

Đề án sự dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đồng thời
cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, đánh giá,so sánh để
nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đã đặt ra.

4


Nguồn tư liệu, thông tin sử dụng trong đề án được lấy từ Vụ Xuất Nhập
Khẩu( Bộ Công Thương), tổng cục thống kê Việt Nam và các nguồn thông tin
chính thức khác từ internet.
5.

Kết cấu của đề án:

Nội dung của đề án gồm những phần cơ bản như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lí luận về đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa trong nền
KTTT và kinh nghiệm của Thái Lan trong xuất khẩu gạo
Chương 2: Khái quát về AFTA
Chương 3: Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào ASEAN
Chương 4: Định hướng giải pháp đẩy mạnh xuât khẩu gạo của Việt Nam sang
ASEAN.

5


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA TRONG NỀN KTTT VÀ KINH NGHIỆM CỦA THÁI LAN
TRONG XUẤT KHẨU GẠO
1.1. Khái niệm, hình thức xuất khẩu và
1.1.1. Khái niệm và hình thức xuất khẩu

nội dung đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa

Khái niệm: Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi
quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các
quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên
ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu
ngoại tệ, qua đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên
của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp
đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của
một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu
dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào

phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
Các hình thức xuất khẩu:
Xuất khẩu uỷ thác:
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho đơn vị
xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng
nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên
uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thu lao trả
cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu không cao hơn
1% của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện FOB tại Việt
Nam.
Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác:
-Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh, tránh
được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng
cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các chi
6


phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện
hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của
Công ty.
-Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh doanh
thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách hàng
bị thu hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và tìm
khách hàng.
Xuất khẩu trực tiếp:
Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết hợp
đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó.
Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng
thời bảo đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh
nghiệp. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các

khâu công việc:
Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương
pháp tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá làm thủ tục
hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết
khiếu nại (nếu có).
Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp:
-Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh doanh,
tự mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu thị
trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt
sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm, nhãn
hiệu ... dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
- Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới kinh doanh được mấy năm thì áp
dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, am hiểu thương
trường quốc tế còn mờ nhạt, uy tín nhãn hiệu sản phẩm còn xa lạ với khách hàng
Gia công hàng xuất khẩu.
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi
là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên
khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia
công và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia công). Tóm lại, gia công xuất khẩu là
đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài về để sản
7


xuất hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để tiêu dùng
trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia công đem
lại. Vì vậy, suy cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động,
nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng(được thể hiện trong hàng hoá)
chứ không phải dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài.
Gia công xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế.
Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt gia

công và bên nhận gia công.
1.1.2.

Nội dung đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại. Nó
được ra đời trên cơ sở sự phân công lao động xã hội và lợi thế so sánh giữa các
nước khác nhau, xuất khẩu càng trở nên cần thiết và không thể thiếu được đối
với các quốc gia trên thế giới. Ngày nay người ta đã nhận thấy không một quốc
gia nào có thể tồn tại và phát triển mà không có bất kỳ mối quan hệ nào với
nước khác, đặc biệt là về kinh tế Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện
pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu khuyến khích các khu
vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng ngoại tệ
cho đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để
phát triển phát triển và thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước.
Vai trò của xuất khẩu được thể hiện trên các mặt cụ thể:
+Đối với nền kinh tế quốc dân
Là một trong hai nội dung chính hoạt động ngoại thương, xuất khẩu đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó tạo điều kiện
cho nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh nhờ những tác dụng chủ yếu sau:
- Tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất
nước. Cùng với vốn đầu tư nước ngoài vốn từ hoạt động xuất khẩu có vai trò
quyết định đối với quy mô và tốc độ tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và phát triển sản xuất
Ngoài ra, xuất khẩu còn giúp các nước tìm và vận dụng có hiệu quả lợi thế so
sánh của mình, cho phép phân công lao động quốc tế phát triển cả về chiều sâu
và chiều rộng, làm cho cơ cấu sản xuất của cả nước ngày càng phụ thuộc lẫn
nhau.
8



- Tạo việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
- Là cơ sở để mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại.
+Đối với các doanh nghiệp
Cùng với xu hướng hội nhập của đất nước thì xu hướng vươn ra thị trường thế
giới của doanh nghiệp cũng là một điều tất yếu khách quan. Bán hàng hoá và
dịch vụ ra nước ngoài mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau:
- Xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị trường có thêm cơ hội tiêu thụ
hàng hoá, điều này đặc biệt quan trọng khi dung lượng thị trường nội địa còn
hạn chế cơ hội tiêu thụ hàng hoá thấp hơn khả năng sản xuất của các doanh
nghiệp. Vì vậy vươn ra thị trường là yếu tố khách quan.
- Xuất khẩu giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh: Do phải chịu
sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước để đứng vững
được, các doanh nghiệp phải đổi mới trang thiết bị, đào tạo lại đội ngũ cán bộ,
công nhân viên nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Xuất khẩu giúp người lao động tăng thu nhập: Do có cơ sở vật chất tốt, đội ngũ
lao động lành nghề làm cho năng suất lao động cao hơn các doanh nghiệp khác,
tạo tiền đề để nâng tiền lương cho người lao động
Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu gạo của
Việt Nam
1.2.1. Nhóm nhân tố quốc tế
1.2.1.1. Tổ chức thương mại quốc tế WTO
1.2.

Hàng nông sản vốn là nhóm mặt hàng nhạy cảm trong thương mại quốc tế. Vì
vậy, không dễ đạt được thỏa thuận về mở cửa thị trường và cắt giảm các hình
thức trợ cấp đối với loại hàng hóa này.
Sau nhiều Vòng đàm phán khó khăn, các nước đã thống nhất một cơ chế thương
mại riêng cho hàng nông sản, thể hiện tại Hiệp định Nông nghiệp.
Hiệp định đưa ra 3 loại trợ cấp nông nghiệp đó là: Trợ cấp màu hổ phách (bị

cấm), trợ cấp màu xanh da trời (có thể bị kiện) và trợ cấp màu xanh lá cây
(không bị kiện). Mục tiêu của Hiệp định về Nông nghiệp là tiến hành cải cách
trong lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng các chính sách nông nghiệp có định
hướng thị trường hơn nữa. Hiệp định cũng nhằm nâng cao khả năng dự đoán

9


trước các thay đổi và đảm bảo an ninh lương thực cho các nước xuất khẩu cũng
như nhập khẩu.
Các quy định và cam kết trong Hiệp định Nông nghiệp được xây dựng xoay
quanh ba nhóm vấn đề chính được gọi là ba trụ cột (pillars). Đó là:
Tiếp cận thị trường: giảm bớt các rào cản thương mại đối với hàng nông sản
nhập khẩu
Trợ cấp nội địa: đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp cho sản xuất
trong nước cũng như các chương trình tương tự khác, bao gồm cả các chương
trình kích thích tăng giá nông sản do các trang trại bán ra hoặc các chương trình
đảm bảo thu nhập cho người nông dân.
Trợ cấp xuất khẩu: đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp đối với hàng
nông sản xuất khẩu hay những biện pháp tương tự khác khiến cho hàng nông
sản xuất khẩu có tính cạnh tranh giả tạo trên thị trường
Những cam kết của Việt Nam:
1) Mở cửa thị trường:
Mức cam kết giảm thuế nông sản (trừ đồ uống, rượu bia và thuốc lá),là 18% (từ
22% xuống 18%). Mức độ giảm có sự khác nhau giữa các sản phẩm hoặc nhóm
sản phẩm. Nhưng tổng quát chung là các sản phẩm chế biến có hiện có mức thuế
cao 40-50% thì bị yêu cầu giảm nhiều hơn so với nông sản thô. Những nhóm
hàng, cụ thể phải giảm nhiều hơn là thịt, sữa, rau quả chế biến, thực phẩm chế
biến, quả ôn đới. Ví dụ trong nhóm quả, thì nhóm quả ôn đới như táo, lê, đào,
nho, kiwi giảm Rau quả chế biến, ) Các mặt hàng nông sản thô ta có khả năng

xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều v.v… không giảm hoặc
giảm rất ít. Thời gian cắt giảm từ 3-5 năm.
- Một số mặt hàng sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan là đường, muối, trứng gia
cầm và lá thuốc lá. Trong đó, đường đã cam kết với mức hạn ngạch ban đầu là
55.000 tấn, mức tăng hạn ngạch hàng năm là 5%. Thuế trong hạn ngạch là 25%
đối với đường thô, 40% đối với đường tinh luyện. Thuế ngoài hạn ngạch là 85%.
Muối công nghiệp hạn ngạch ban đầu là 150 ngàn tấn, mức tăng hàng năm là
5%, thuế THN là 10-30%, Thuế NHN là 60%. Không có SSG. .
So với DDA, cam kết của ta về mở cửa thị trường cao hơn.
2) Hỗ trợ trong nước:
10


Hộp xanh, chương trình phát triển: được tự do áp dụng.
Hộp đỏ: áp dụng mức tồi thiểu là 10% GTSLNN
Về nguyên tắc, DDA không ảnh hưởng.
3) Trợ cấp xuất khẩu: Cam kết bổ trợ cấp xuất khẩu ngay khi gia nhập. Đang
bảo lưu quyền hưởng S&D trong lĩnh vực này.
1.2.1.2.

Các khối liên kết Việt Nam tham gia
Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức,diễn đàn hợp tác khu vực như APEC,
ASEAN,… Trong phạm vi nghiên cứu của đề án cần đặc biệt quan tâm đến hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á. Chi tiết sẽ đề cập tới ở chương 2.

1.2.2. Nhóm nhân
1.2.2.1. Nhà nước

tố quốc gia


Nhà nước có vai trò quản lý, điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu gạo để đảm bảo
an ninh lương thực trong nước đồng thời đảm bảo sự ổn định cho mặt hàng nhạy
cảm này. Các chính sách nhà nước đã ban hành để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
gạo được trình bày chi tiết ở phần 3.3.
1.2.2.2. Hiệp

hội luơng thực Việt Nam

Hiệp hội lương thực Việt Nam đóng vai trò kết nối giữa Nhà nước và các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo cũng như người nông dân, đồng thời đây cũng là nơi quản
lý tiêu chuẩn chất lượng cho gạo xuất khẩu. Các chính sách nhà nước ban hành
được chuyển đến các doanh nghiệp- các hội viên của hội và hội cũng là nơi giúp
các doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường.
1.3.
1.3.1.

Kinh nghiệm của Thái Lan trong thúc đẩy xuất khẩu gạo và bài học kinh
nghiệm cho Viêt Nam
Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu gạo của Thái Lan
Thái Lan là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới cả về sản lượng va kim ngạch.
Yếu tố quyết định giá của hạt gạo trên thương trường quốc tế chính là chất
lượng. Gạo Thái Lan có giá cao hơn là nhờ ngon, thơm, dẻo, mẩy…, điều đó ai
cũng thừa nhận. Gạo Thái ngon nhờ giống lúa tốt, đặc sản; nhưng nền tảng làm
nên chất lượng hạt gạo không chỉ từ hạt giống, mà được xây dựng từ ý thức của
nhà khoa học - người nông dân - doanh nghiệp xuất khẩu - khách hàng.

11


Thái Lan nước truyền thống sản xuất gạo do thời tiết khí hậu thuận lợi phát triển

loại ngũ cốc này. Tuy nhiên nhiều nước khác trong khu vực cũng được trời đất
ban cho thời tiết khí hậu tương tự, nhưng không làm được, còn Thái Lan do có
chiến lược đúng đắn với diện tích chỉ 513.100 Km2 đã trở thành nước chiếm
lĩnh ngôi độc tôn trên thị trường gạo thế giới.
Điều kiện khí hậu thiên nhiên của Thái Lan được trời ban tặng giống như nhiều
nước trồng lúa nước trong khu vực. Xét về truyền thống canh tác, Thái cũng
mang màu sắc thuần nông giống như các nước khác, nhưng vì sao Thái Lan diện
tích đất nước chỉ 513.100 Km2 lại bứt lên và nhanh chóng trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng đầu thế giới.
Năm 2011 mặc dù bị thiên tai lũ lụt lớn nhất trong lịch sử, xuất khẩu gạo của
Thái Lan vẫn đạt 10,6 triệu tấn, thu nhập 200 tỉ Bạt. Từ tháng 1 tới tháng
4/2012, cho dù nhiều nước khác bắt đầu xuất khẩu gạo như Ấn Độ, nhưng lượng
xuất khẩu gạo của Thái vẫn đạt 2,7 triệu tấn, đứng số 1 thế giới.
Trước thập kỷ 60 Thế kỉ 20, Thái Lan vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất
lúa gạo vẫn bình thường như nhiều nước khác, xuất khẩu gạo vẫn ở mức trung
bình, nhưng từ đầu Thập kỷ 70 và nhất là thời gian khi bước vào Thập kỷ 80
Thế kỷ 20 tới nay, Thái Lan bứt lên và trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu
thế giới với số lượng hàng năm trên 10 triệu tấn.
Thành công này của Thái Lan trước tiên phải kể tới vai trò của nhà nước do đã
định hướng chiến lược phát triển kinh tế quốc dân đúng đắn, biết khai thác và
khơi dậy tiềm năng về thế mạnh của đất nước. Nhận thức rõ thế mạnh của mình,
Nhà nước Thái Lan xác định lấy ưu tiên phát triển nông nghiệp làm chiến lược
cơ bản cho phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Năm 1982, Chính phủ Thái
Lan định ra “Chiến lược phát triển kinh tế quốc dân lấy hiện đại hóa nông
nghiệp, công nghiệp làm mục tiêu”. Tiếp đó, năm 1995, Nhà nước lại ban hành
“Quy hoạch tăng cường phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và ứng dụng kỹ thuật
mới vào nông nghiệp”. Năm 2000, Nhà nước lại ban hành “Chiến lược nâng đỡ
sản xuất nông nghiệp lấy năng suất cao, tăng phụ gia sản phẩm nông nghiệp,
tăng sức cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp làm mục tiêu phấn đấu”.
Đây là những văn bản mang tính pháp quy tạo hành lang pháp lý cho phát triển

sản xuất nông nghiệp. Căn cứ vào quy định của nhà nước, các bộ, ban ngành đều
thành lập các “Ban thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và sản xuất lúa gạo” để hỗ trợ
Chính phủ thực hiện các chính sách về ưu đãi, nâng đỡ sản xuất nông nghiệp,
nhất là sản xuất lúa gạo. Những biện pháp như chính sách trợ cấp giá, đầu tư và
12


cho vay, nhất là giải quyết tốt khâu vốn và kỹ thuật nhằm phát huy tối đa tính
tích cực sản xuất lúa gạo của nông dân. Bộ thương mại Thái Lan đặc biệt định ra
“Chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo”, như làm thế nào hạ thấp giá thành, điều
chỉnh mạng lưới cung cấp trong nước, phát triển mạnh mẽ kỹ thuật gia công chế
biển gạo tiên tiến và hiện đại nhất.
Cùng với văn bản pháp quy, Chính phủ Thái Lan đã đưa những chính sách hỗ
trợ vào cuộc sống thực tế của sản xuất lúa gạo, trong đó hết sức chú trọng xây
dựng cơ sở thiết bị hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, như từ Thập kỷ 60 tới nay,
nhà nước đã đầu tư hàng trăm tỉ Bạt vào công cuộc này, nhất là thủy lợi và giao
thông nông thôn. Hiện nay những cơ sở hạ tầng của nông thôn Thái Lan vào loại
bậc nhất ở Đông Nam Á.
Áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp và sản xuất lúa
gạo được Nhà nước và chính quyền các cấp đặc biệt coi trọng. Trong khâu chọn
giống, Thái Lan đặc biệt coi trọng loại giống tốt và được thị trường ưa thích như
gạo tám thơm. Loại lúa này được nhà nước đặc biệt coi trọng như “quả đấm
mạnh”, nên đã tập trung xây dựng thành một dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh từ
khâu chọn giống tới kỹ thuật canh tác, thu hoạch, chế biến và tiêu thụ trên thị
trường thế giới. Chính vì vậy mà giá gạo của Thái Lan luôn cao hơn các nước
khác, nhưng vẫn được khách hàng các nước ưa chuộng.
Cuối cùng là khâu tuyên truyền, quảng cáo. Trong chiến lược tuyên truyền hàng
xuất khẩu thì “Gạo Thái” được đặt lên vị trí hàng đầu và Thái Lan đổ nhiều công
sức, kể cả tài chính vào công tác quảng cáo. Tất cả các cơ hội, như Festival, Hội
chợ, triển lãm trong và ngoài nước đều được Thái Lan tận dụng tối đa. “Festival

gạo Thái lần thứ ba” tổ chức ba ngày từ 25/5 tới 27/5/2012 vừa qua, Thái Lan đã
trưng bày hơn 100 loại giống lúa tốt cùng các kỹ thuật sản xuất và chế biến gạo
hiện đại vào bậc nhất thế giới hiện nay. Ngoài ra, Thái Lan còn hợp tác với các
nước, nhất là các nước ASEAN lập ra các tổ chức như Hiệp hội lúa gạo, Hợp tác
đối tác trao đổi lúa gạo, Hiệp hội tiêu thụ gạo... nhằm tăng cường hợp tác trao
đổi kinh nghiệm với các nước. Chính vì vậy, “Gạo Thái” trở thành thương hiệu
nổi danh khắp thế giới.
Mặc dù, nguồn cung cấp gạo trên thị trường thế giới hiện nay dồi dào hơn trước,
như Ấn Độ, Indonexia, Việt Nam đều tăng cường xuất khẩu. Tổ chức Nông
lương Liên hiệp quốc (FAO) ngày 13/6/2012 cho biết, tình hình cung cấp gạo
năm nay dồi dào hơn do sản lượng ngũ cốc toàn cầu sẽ đạt mức kỷ lục 2,42 tỷ

13


tấn, trong khi lượng tiêu thụ chỉ đạt khoảng 2,38 tỷ tấn. Hiện các kho gạo của
Ấn Độ và Thái Lan tới 30 triệu tấn, đủ đáp ứng giao dịch toàn cầu năm nay.
1.3.2.

Bài học cho Việt Nam
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm để áp dụng cho Việt
Nam đó là:
Thứ nhất, việc nâng cao giá trị của gạo xuất khẩu gắn với việc tăng chất lượng
của sản phẩm và mở rộng được khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng ngày
càng đa dạng, nhiều cấp độ và thay đổi hết sức nhanh chóng. Đồng thời việc
nâng cao giá trị gạo cũng gắn với việc đa dạng hóa sản phẩm, khai thác lợi thế
theo quy mô, tăng năng suất lao động, hướng tới sản xuất gạo chất lượng cao
trên cơ sở những tiến bộ mới của công nghệ sinh học.
Thứ hai, đầu tư vào việc chọn giống lúa thích hợp để trồng trọt. Cần lựa chọn
giống lúa có chất lượng cao và giá trị lớn, có khả năng cho năng suất cao và chất

lượng gạo tốt.
Thứ ba, đầu tư vào khâu chăm sóc để bảo đảm chất lượng lúa. Việc xây dựng
chế độ chăm sóc quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa như bảo vệ cây
khỏi thời tiết khắc nghiệt, sâu bệnh nhằm cho ra hạt gạo có chất lượng ổn định.
Thứ tư, đầu tư vào khâu thu hoạch, chế biến để nâng cao giá trị sản phẩm gạo.
Hoạt động thu hoạch cần được đầu tư thỏa đáng để tránh tình trạng lãng phí
hoặc làm giảm chất lượng gạo do hao hụt tự nhiên cũng như do thời tiết. Chẳng
hạn, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch lúa của Việt Nam khoảng 13 – 16% trong khi
đó tỷ lệ này của Thái Lan khoảng 7 – 10%. Hệ thống máy móc thu hoạch và lưu
kho cần được đầu tư đồng bộ. Đồng thời các loại dây chuyền chế biến, sàng
tuyển và đánh bóng gạo cần được coi trọng. Với giống lúa tốt lại được đầu tư
vào khâu chế biến nên gạo Thái Lan xuất khẩu thường có giá xuất khẩu cao hơn
gạo xuất khẩu cùng loại của Việt Nam.
Thứ năm, đầu tư vào khâu đóng gói, bao bì, nhãn hiệu và quảng bá thương hiệu
gạo trên thị trường xuất khẩu. Vấn đề đóng gói sản phẩm, bao bì, nhãn hiệu của
sản phẩm gạo hấp dẫn cũng là yếu tố thúc đẩy người tiêu dùng mua hàng hóa
thậm chí họ phải trả giá cao. Những người tiêu dùng trong xã hội phát triển đều
mong muốn các sản phẩm được đựng trong các bao bì phù hợp, không bị tác
động từ bên ngoài. Vì thế, đầu tư vào bao bì sản phẩm gạo hợp lý có thể thúc
đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm có thể được bán với giá cao hơn do uy tín
của nó được nâng lên theo đánh giá của người tiêu dùng. Việc đầu tư bao bì,
14


đóng gói sản phẩm có thể diễn ra trong ngắn hạn song đầu tư để có thương hiệu
gạo có danh tiếng và uy tín phải là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, bền
bỉ và tốn kém cả về chi phí và thời gian.
Thứ sáu, cần đầu tư lớn vào phát triển khoa học nông nghiệp. Cần thường xuyên
cập nhật xu hướng vận động của nền nông nghiệp thế giới, trọng điểm đầu tư
phát triển khoa học – nông nghiệp thế giới để định hướng, hoạch định chính

sách và đầu tư thỏa đáng cho việc nâng cao giá trị xuất khẩu mặt hàng gạo.
Thứ bảy, cần có chính sách cho vay vốn và bảo lãnh vay vốn ngân hàng hợp lý
và hữu hiệu để tài trợ phát triển xuất khẩu gạo. Đồng thời phát huy hiệu quả của
đồng vốn đối với các doanh nghiệp sản xuất và chế biến gạo, các hộ nông dân.
Chính sách này cần phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam và trình độ phát triển của một nền nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
hiện nay.
Thứ tám, chú trọng đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đặc biệt là phát triển hệ thống
giáo dục trong nông nghiệp và nông thôn cả kiến thức phổ thông, kỹ năng nghề
nghiệp và các hình thức đào tạo nâng cao và chuyên sâu khác để những thành
tựu mới của khoa học – công nghệ trong nông nghiệp dễ tiếp cận với thực
tếthông qua hoạt động chuyển giao, nghiên cứu và phát triển; đặc biệt là tại các
vùng có thế mạnh trong sản xuất và chế biến gạo xuất khẩu.
Thứ chín, tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn để vừa góp phần nâng cao giá trị gạo xuất khẩu vừa góp
phần nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất và chế biến gạo tại nông thôn; đào tạo đội
ngũ cán bộ và công nhân nông nghiệp, đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công
nghệ cao một cách thích hợp. Đây cũng là quá trình để Việt Nam có thể tổ chức
lại nền sản xuất và chế biến gạo xuất khẩu theo hướng hiện đại, công nghệ cao
vàcó khả năng cạnh tranh cao

15


CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ AFTA
2.1.

Giới thiệu chung về AFTA
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của
ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương

giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần
thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các
nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước.
Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký
kết vào năm 1992 tại Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là ASEAN-6). Các
nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu
cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này.
· Sự ra đời của AFTA: Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc,
những thay đổi trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt
kinh tế các nước ASEAN trước nhứng thách thức to lớn không dễ dàng vượt qua
nếu không có sự liên kết chặt chẽ và nỗ lực vủa toàn hiệp hội, những thách thức
đó là:
- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc
biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN
ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng
như quốc tế.
- Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như Khu
vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ và Khu vực Mậu dịch Tự do châu Âu của EU,
NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá
ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
- Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng
rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên
thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các
nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi
hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm
hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan,
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập một
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA).


16


2.2.

-

Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT
· Khái niệm: CEPT (Common Effective Preferentical On Tariffs) là chương
trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung.
CEPT là một cơ chế thông qua đó thuế quan đánh trên hàng hoá buôn bán
giữa các nước trong khu vực ASEAN, gồm 40% các mặt hàng sẽ được giảm
thuế xuống còn 0 – 5% trước năm 2002 – 2003 (2006 đối với Việt Nam, 2008
đối với Lào và Myanmar, và 2010 đối với Campuchia) Việc giảm thuế quan
được thực hiện theo các con đường nhanh và thông thường. Thuế quan đối với
hàng hoá theo con đường nhanh được giảm mạnh còn 0 – 5% trước năm 2000.
Thuế quan đối với hàng hoá theo con đường thông thường được giảm xuống
mức này trước năm 2002, hoặc 2003 đối với mét sè Ýt sản phẩm. Hiện nay,
khoảng 81% danh mục thuế quan của ASEAN đã được thực hiện theo mét trong
hai con đường trên.
Các sản phẩm thực hiện giảm thuế nhập khẩu do các nước hội viên ASEAN
tù đề nghị căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh kinh tế của mỗi nước.
· Nội dung của chương trình CEPT
Vấn đề loại bỏ rào cản thuế quan:
Để thực hiện CEPT, mỗi nước phải thực hiện phân loại hàng hoá theo 4
danh mục sau:
1. Danh mục giảm thuế NK (IL – Inclusion lisst)
2. Danh mục loại trừ tạm thời (TEL – Temporary Exclusion list)
3. Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL – General Exclusion list)

4. Danh mục hàng nhạy cảm (SL – Sensitive list)
a) Danh mục giảm thuế NK – IL
Danh mục này do các nước thành viên ASEAN tuỳ vào điều kiện kinh tế của
mình tự nguyện đề nghị , nằm trong 2 cấp độ cắt giảm:
- Một là các sản phẩm cắt giảm thuế nằm trong chương trình cắt giảm cấp tốc
(Fast track)
- Hai là chương trình bình thường (Normal track)
* Chương trình cắt giảm thuế quan nhanh: áp dụng đối với các sản phẩm hiện
nay thuế nhập khẩu đang có mức tõ 20% trở xuống, sẽ được cắt giảm theo 2
bước: bước 1 là các sản phẩm có mức thuế quan dưới 20% sẽ được cắt giảm
xuống tõ 0 – 5% trong vòng 7 năm (từ tháng 1 - 1993 đến 1-2000) và bước 2 là
các sản phẩm hiện đang có mức thuế quan 20% sẽ được cắt giảm đến mức 0-5%
trong vòng 10 năm (tõ 1 - 1993 đến 1-2003)
* Chương trình cắt giảm thuế quan thông thường: bao gồm các sản phẩm có
mức thuế hiện nay trên 20%, sẽ được cắt giảm theo 2 bước: bước 1 cắt giảm
thuế quan các sản phẩm trên 20% mức xuống 20% trong vòng tõ 5 đến 8 năm;
bước 2 cắt giảm tiếp tục mức thuế quan xuống dưới 5% trong vòng 7 năm tiếp
theo (kể từ năm 1993)
17


b) Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế TEL:
Nhận thấy rằng các quốc gia thành viên ASEAN còn gặp nhiều khó khăn trong
việc hoạch định chính sách tự do thương mại, để tạo thuận lợi cho các thành
viên có một thời gian ổn định trong mét sè lĩnh vực cụ thể nhằm tiếp tục các
chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có
thời gian chuyển hướng đối với mét sè sản phẩm tương đối trọng yếu, hiệp định
CEPT cho phép các nước thành viên ASEAN được đưa ra mét sè sản phẩm tạm
thời chưa thực hiện tiến trình giảm thuế theo kế hoạch CEPT. Các sản phẩm
trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ không được hưởng nhượng bộ tõ các nước

thành viên. Tuy nhiên danh mục này chỉ có tính tạm thời và sau mét khoảng thời
gian nhất định các quốc gia phải đưa ra toàn bộ các sản phẩm này vào danh mục
giảm thuế.
Lịch trình chuyển các sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời sang danh mục
cắt giảm được qui định rằng toàn bộ các sản phẩm trong danh mục tạm thời loại
trừ sẽ được chuyển sang Danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm, tõ 1 - 1 1996 đến 1-1-2000; mỗi năm chuyển 20% sè sản phẩm trong danh mục loại trừ
tạm thời.
c) Danh mục loại trừ hoàn toàn – GEL
Danh mục này bao gồm những sản phẩm không tham gia hiệp định CEPT. Các
sản phẩm trong danh mục này phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh
quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến
việc bảo tồn các giá trị văn hóa nghệ thuật, di tích lịch sử khảo cổ. Việc cắt giảm
thuế cũng như xoá bỏ các biện pháp phi thuế đối với các mặt hàng sẽ không
được xem xét đến theo chương trình CEPT.
d) Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm (5L):
Theo Hiệp định CEPT – 1992, sản phẩm nông sản chưa chế biến không được
đưa vào thực hiện kế hoạch CEPT. Tuy nhiên, theo Hiệp định CEPRT sửa đổi;
các sản phẩm nông sản chưa chế biến này sẽ tuỳ vào điều kiện kinh tế từng quốc
gia được đưa ba loại danh mục khác nhau là: danh mục giảm thuế, danh mục
loại trừ tạm thời và danh mục các sản phẩm chưa chế biến nhạy cảm.
Nông sản chế biến được đưa vào CEPT bao gồm các sản phẩm: thịt, cá,
sữa, súc sản, cà phê, chè, ngũ cốc, hạt có dầu, dầu mỡ động vật, thịt chín, đường,
coca, đồ uống, thuốc lá….
Sản phẩm nông sản chưa chế biến trong danh mục cắt giảm thuế ngay được
chuyển vào chương trình cắt giảm thuế nhanh hoặc chương trình cắt giảm thuế
bình thường vào 1 - 1 - 1996 và sẽ được giảm xuống còn 0 – 5% vào 1-1-2003.
Các sản phẩm trong danh mục tạm thời loại trừ của hàng nông sản chưa chế biến
sẽ được chuyển sang danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm, tõ 1 - 1 - 1998
đến 1-1-2003, mỗi năm chuyển 20%.
18



-

2.3.
2.3.1.

Các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm sau đó lại được phân vào
hai danh mục tuỳ theo mức độ nhạy cảm là danh mục các nông sản chưa chế
biến nhạy cảm và danh mục các nông sản chưa chế biến nhạy cảm cao. Quá
trình thoả thuận để xác định các quy định về cơ chế cắt giảm thuế quan cho các
sản phẩm nhạy cảm cho đến nay vẫn đang được tiếp tục. Tuy nhiên, đối với các
sản phẩm trong danh mục nhạy cảm, thời điểm bắt đầu cắt giảm đã được xác
định là 1 - 1 - 2001 và kết thúc vào năm 2010 với mức thuế suất phải đạt là 0 –
5%. Đối với các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm cao, thời hạn kết thúc còng
đã được xác định là 2010, tuy nhiên sẽ có mét sè linh hoạt nhất định sẽ được áp
dụng liên quan đến mức thuế suất kết thúc, các biện pháp phòng ngừa bất trắc…
Vấn đề loại bỏ các rào cản phi thuế quan:
Để xây dựng thành công khu vực mậu dịch tự do chương trình CEPRT còn đề
cập đến các biện pháp loại bỏ hạn chế số lượng nhập khẩu (QR) và các hàng rào
phi thuế quan khác. Về vấn đề này, Hiệp định CEPT đã quy định ở điều 5 Hiệp
định CEPT.
· Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản
phẩm trong CEPT trên cơ sở ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó.
· Các hàng rào phi thuế quan khác sẽ được xóa bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau
khi sản phẩm được hưởng ưu đãi.
· Các hạn chế ngoại hối các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối với
các sản phẩm thuộc CEPT.
· Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa
nhận các chất lượng của nhau.

· Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây
phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước
có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu.
Như vậy, mặc dù tinh thần chung của các nước ASEAN là mong muốn thực
hiện sớm CEPT, giảm tối đa các hàng rào thuế quan và phi thuế quan song do
thực tiễn cơ cấu sản xuất của các nước ASEAN tương đối giống nhau, trình độ
phát triển cũng còn kém…nên quá trình hợp tác mở cửa thị trường vẫn còn
nhiều khó khăn. Tiến trình cắt giảm các hàng rào phi thuế quan theo quy định
hiện nay có nhiều khả năng thực hiện được, song đối với các mặt hàng nhạy cảm
thì vấn đề bảo hộ còn rất tiềm Èn và các hàng rào phi thuế quan là những công
cụ hết sức quan trọng của các nước ASEAN để bảo hộ sản xuất nội địa trong
thời gian tới.
Quá trình tham gia và lịch trình cắt giảm thuế của Việt Nam
Những yêu cầu chung của CEPT- AFTA đối với Việt Nam

19


Chương trình giảm thuế nhập khẩu theo CEPT của việt nam bắt đấu thựchiện từ
1/1/1996 và hoàn thành vào 1/1/1996 để đạt mức thuế xuất 0-5%. Cácbước thực
hiện : Xác định danh mục các mặt hàng giảm thuế : danh mục giảm thuế
ngay(IL),danh mục loại trừ tạm thời (TEL),danh mục hàng nông sản chưa chế
biến nhạy cảm (SL),danh mục loại trừ hoàn tòan(GEL). Các mặt hàng thuộc
danh mục IL bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 với mức thuế 0-5% kết thúc váo
1/1/1996 mặt hàng có thuế suất trên 20%giảm xuống 20%vào ngày
1/1/2001.Mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống 0-5%
vào ngày 1/1/2003 Các mặt hàng thuộc danh mục TEL sẽ chuyển sang danh mục
IL trong vòng 5 năm từ 1/1/1999 đến 1/1/2003 mỗi năm chuyển 20% .Các bước
giảm sau khi đưa vào IL thực hiện chậm nhât là 2-3 năm mỗi lần giảm không ít
hơn 5%. Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 kết

thúc vào 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng 0-5%. Riêng mặt hàng đường vào
năm 2010 là 0-5%
2.3.2.

Những quy định của CEPT- AFTA đối với hàng nông nghiệp Việt Nam
Các mặt hàng nông sản chưa chế biến gồm một số loại gạo, hoa quả, thực phẩm,
đuờng là những mặt hàng nông sản nhạy cảm không thuộc diện phải xoá bỏ thuế
quan, có lộ trình giảm thuế từ năm 2004 xuống mức thuế cao nhất là 5% vào
năm 2013( trừ mặt hàng đuờng là năm 2010).

2.4.

Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia AFTA
2.4.1. Về cơ hội:
· Bắt kịp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới: Khi tham gia
AFTA, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế và
thương mại, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước,
bởi AFTA ảnh huởng trực tiếp đến xuất khẩu, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Như vậy, sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước tập trung lao dộng, tích cực
khai thác tài nguyên sẵn có để xuất hàng hoá xuất khẩu
· Có diều kiện thâm nhập một thị trường rộng lớn với hơn 500 triệu dân: Truớc
mắt, Việt Nam sẽ thu được nguồn lợi lớn, do mậu dịch tự do mang lại. Ðồng
thời, Việt Nam có điều kiện hơn để xuất hàng của mình vào một thị truờng rộng
lớn của các nước Về thành viên ASEAN, với khoảng 500 triệu dân mà không
đòi hỏi quá cao về chất luợng sản phẩm, khi các hàng rào mậu dịch đã được tháo
gỡ. Có được thị trường tiêu thụ mới là một yếu tố giúp huy động tiềm năng lao
động và tài nguyên dồi dào của Việt Nam vào phát triển xuất khẩu.
· Tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực:Với việc tham gia
AFTA, các nuớc ASEAN có điều kiện mở rộng hợp tác vàthu hút đầu tư nước
20



-

-

ngoài nhằm khuyến khích sản xuất trong nước, từngbước nâng cao chất lượng
hàng hoá, dịch vụ, tức là tăng thế thương lượngcạnh tranh ngay cả trên thị
trường nội địa và khu vực.
· Thu hút đầu tư nước ngoài:Do việc thành lập AFTA, ASEAN sẽ trở thành thị
trường hợp nhất khá lớn,với sự phân công lao động chặt chẽ hơn, sẽ là địa bàn
thu hút đầu tư củanhiều công ty đa quốc gia và tập đoàn kinh tế lớn từ Nhật Bản,
Tây Âu, Mỹvà các nước NIEs.Với những lợi thế so sánh nhất định về lao động,
tài nguyên thiên nhiên và thịtrường có dung lượng lớn, hoạt động đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam sẽ trởnên hấp dẫn nếu tạo được môi trường đầu tư và chính
sách hợp lý. Tiến trình
thực hiện AFTA của Việt Nam sẽ có tác dụng thu hút thêm đầu tư nước
ngoàivào Việt Nam không chỉ từ các nước ASEAN mà còn từ các khu vực khác.
2.4.2. Những thách thức
• Thách thức chung:
Sức ép sẽ ngày càng tăng dối với các doanh nghiệp trong cũng như ngoài khu
công nghiệp, khu chế xuất do hàng hoá của các nước thành viên ASEAN sẽ
nhập vào thị trường nước ta ngày càng nhiều với thuế suất giảm dần đến 0% tạo
nên sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong quá trình quốc tế hoá thương mại.
Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam thấp hon so với các nước thành viên
khác
Kỹ thuật còn hạn chế
Khác biệt về hệ thống thuế áp dụng đối với hàng xuất nhập khẩu và hệ thống mã
số của Biểu thuế Việt Nam so với các nước ASEAN khác
Việc cắt giảm thuế mạnh và dột ngột vào những năm cuối sẽ khiến cho các

doanh nghiệp đang được huởng mức bảo hộ cao từ thế quan sẽ rơi vào tình trạng
khó khăn. Ngoài ra, việc cắt giảm thuế quan muộn sẽ gây tâm lý thiếu chủ động
cho các doanh nghiệp để phấn dấu nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả thị truờng
trong nước và quốc tế.
• Về mặt đối ngoại, theo tinh thần của CEPT, năm 2001 tất cả các mặt hàng sẽ
đưa vào cắt giảm của Việt Nam có thuế suất CEPT cao hơn 20% đều phải đưa
xuống bằng hoặc thấp hơn 20%; còn mức thuế suất thực hiện CEPT những mặt
hàng bắt đầu được chuyển vào thực hiện cắt giảm từ những năm sau đó cũng
không được cao hơn 20%, như vậy Việt Nam cũng sẽ vấp phải không ít khó
khăn, vuớng mắc.
• Về sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ:Việc hạ thấp hàng rào thuế quan và
phi thuế quan ngay lập tức sẽ gây ra mộtcuộc cạnh tranh gay gắt đối mặt với các
loại hàng hoá nhập khẩu giá hạ từ cácnước ASEAN ngay tại thị trường trong
nước.
21


Các yếu tố khác như chất lượng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi do sức ép của
cạnhtranh trong nội bộ AFTA. Tính cạnh tranh sẽ rất mạnh và sự thay đổi
hàngrào thuế quan sẽ có tác dụng quyết dịnh.
=>Ta không ngồi chờ mà luôn có biện pháp thích hợp với từng ngành, từngthời
kỳ nhằm nâng cao nội lực của nền kinh tế, và khả năng cạnh tranh.
• Về khả năng của các doanh nghiệp:Doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, khả
năng tổ chức thị trường yếu, nếukhông sắp xếp lại, tăng cường khả năng tích tụ
và tập trung vốn, hoàn thiệncơ chế quản lý và định chế tài chính thì chúng ta
càng khó khăn. Đây là quátrình buộc các doanh nghiệpphải tích tụ và tập trung
quy mô thích hợp để tồntại và phát triển.Ðối với các doanh nghiệp, việc thực
hiện các nguyên tắc về không phân biệtđối xử (MFN) dành cho các doanh
nghiệp của các nước thành viên sẽ đặt ranhững thách thức gay go.
• Về hệ thống chính sách kinh tế thuơng mại:Chính sách thương mại ngày càng

có tầm quan trọng cho phép nâng cao năng lực cạnh tranh vừa mở rộng vừa
củng cố vị trí của mỗi quốc gia

22


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM VÀO
ASEAN
3.1.

Đặc điểm thị trường gạo ASEAN
Với dân số 556,2 triệu người, mức tiêu thụ gạo tăng gấp đôi 50 năm qua, Đông
Nam Á hiện là thị trường xuất khẩu quan trọng của gạo Việt Nam.
Sản xuất và xuất nhập khẩu lúa gạo các nước Đông Nam Á
Sản lượng lúa của các nước ASEAN đạt 222,87 triệu tấn năm 2013 và tăng lên
223,13 triệu tấn năm 2014, trong đó đáng kể nhất là Indonesia với 71,3 triệu tấn
năm 2013 và 72 triệu tấn năm 2014, Việt Nam với 44,1 triệu tấn năm 2013 và
44,2 triệu tấn năm 2014 và Thái Lan với 38,2 triệu tấn năm 2013 và 37,5 triệu
tấn năm 2014.
Thái Lan
Sản lượng lúa của Thái Lan được dự đoán đạt 38,8 triệu tấn (26 triệu tấn gạo)
trong niên vụ 2014-2015 (tháng 1/2014-tháng 12/2014), tăng nhẹ so với 38,79
triệu tấn năm 2013-2014, mặc dù diện tích gieo cấy giảm 1% xuống 12,88 triệu
ha từ 12,97 triệu ha năm 2013, theo số liệu của Văn phòng Kinh tế Nông nghiệp
Thái Lan (OAE).

Theo số liệu của FAO, sản lượng lúa năm 2013 của Thái Lan đạt 38,2 triệu tấn,
và giảm nhẹ xuống 37,5 triệu tấn năm 2014.
Trong khi đó, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự đoán, sản lượng lúa của Thái
Lan năm tài khóa 2013-2014 (tháng 1 – tháng 12/2014) đạt 31 triệu tấn (20,5

triệu tấn gạo), tăng 1,5% so với 30,6 triệu tấn lúa (20,2 triệu tấn gạo) năm 20122013.
Hiệp hội xuất khẩu gạo Thái Lan (TREA) cho biết, 5 tháng đầu năm 2014, xuất
khẩu gạo của nước này đạt 3,82 triệu tấn, tăng 52% so với 2,51 triệu tấn cùng kỳ
năm 2013.
Xuất khẩu gạo trắng đạt 1,79 triệu tấn, chiếm 47% tổng lượng xuất khẩu; gạo
Hom Mali đạt 552.279 tấn, chiếm 14%; gạo tấm đạt 473.870 tấn, chiếm 12%;
gạo nếp 70.732 tấn, chiếm 2%.

23


Về giá trị, Thái Lan thu về 63.076 triệu baht từ xuất khẩu gạo trong 5 tháng đầu
năm 2014, tăng 19% so với 52.986 triệu baht cùng kỳ năm 2013. Tính theo
USD, xuất khẩu gạo của Thái Lan đạt 1.938 triệu USD trong 5 tháng đầu năm
2014, tăng 8% so với 1.787 triệu USD cùng kỳ năm ngoái.
Sau một thời gian tạm ngừng bán gạo để kiểm tra kho dự trữ trên toàn quốc, bắt
đầu từ tháng 8, Thái Lan sẽ lại mở bán gạo từ kho dự trữ quốc gia, theo quyền
Cục trưởng Cục Ngoại thương, Bộ Thương mại Thái Lan.
Theo ước tính của FAO, năm 2014 Thái Lan sẽ xuất khẩu 8,7 triệu tấn gạo, tăng
30% so với 6,7 triệu tấn gạo năm 2013.
Trong khi đó, USDA ước tính xuất khẩu gạo của Thái Lan năm 2014 ước đạt 9
triệu tấn, tăng 34% so với năm 2013. Còn Hội đồng Ngũ cốc Quốc tế (IGC) ước
tính xuất khẩu gạo của Thái Lan sẽ tăng lên 9,2 triệu tấn trong năm 2014.
Malaysia
FAO dự báo sản lượng lúa năm 2014 của Malaysia dự báo tăng lên kỷ lục 2,7
triệu tấn (khoảng 1,755 triệu tấn gạo), tăng 3% so với 2,63 triệu tấn năm 2013
chủ yếu do năng suất cao hơn nhờ thời tiết thuận lợi và sự hỗ trợ của chính phủ
đối với ngành lúa gạo, kể cả việc cung cấp các khoản trợ cấp về đầu vào và máy
móc nông nghiệp.
Cũng theo ước tính của FAO, nhập khẩu gạo của Malaysia năm tài khóa 20142015 (tháng 6/2014 – tháng 6/2015) đạt 1,1 triệu tấn, tăng 10% so với 1 triệu tấn

năm 2013-2014, bất chấp sản lượng lúa gạo nội địa tăng.
Trong khi đó, USDA ước tính năm 2013-2014 (tháng 1-tháng 12/2014)
Malaysia sản xuất khoảng 2,7 triệu tấn lúa (1,76 triệu tấn gạo), tăng 4% so với
2,61 triệu tấn lúa (1,69 triệu tấn gạo) năm 2013. Sản lượng lúa của Malaysia
năm 2014-2015 được dự báo tăng lên 2,77 triệu tấn (1,8 triệu tấn gạo).
Bộ Nông nghiệp và Ngành dựa trên Nông nghiệp Malaysia (UMNO) đang có kế
hoạch tăng sản lượng trong nước, nâng cao chất lượng gạo để chấm dứt nhập
khẩu vào năm 2020. Hiện tại, Malaysia sản xuất khoảng 70% nhu cầu gạo nội
địa và nhập khẩu phần còn lại, chủ yếu từ Việt Nam. Nhu cầu tiêu thụ gạo của
Malaysia năm 2013-2014 ước đạt 2,8 triệu tấn.
Theo số liệu của UMNO, năm 2013, Malaysia nhập khẩu 658.120 tấn gạo từ
Việt Nam, giảm 14% so với 746.692 tấn năm 2012. Hiện Malaysia đang tạm
ngừng nhập khẩu gạo từ Thái Lan do giá cao. Bên cạnh đó, Malaysia đã ký biên
24


bản ghi nhớ với Việt Nam để tăng nhập khẩu gạo từ Việt Nam và tăng kim
ngạch thương mại song phương lên 11 tỷ USD vào năm 2015 so với 9 tỷ USD
hiện tại. Mới đây, Malaysia đã ký hợp đồng nhập khẩu 200.000 tấn gạo 5% tấm
từ Việt Nam với giá 410 USD/tấn (FOB) với thời gian giao hàng dự kiến trong
tháng 7 và tháng 8/2014.
Theo số liệu của Hiệp hội Xuất khẩu gạo Thái Lan (TREA), nhập khẩu gạo của
Malaysia từ Thái Lan năm 2010 đạt 183.677 tấn, năm 2011 đạt 330.832 tấn,
năm 2012 đạt 69.686 tấn và 155.230 tấn năm 2013.
Campuchia
Theo số liệu của FAO, sản lượng lúa cả 2 vụ năm 2014-2015 của Campuchia đạt
9,5 triệu tấn (6 triệu tấn gạo), tăng 1% so với 9,4 triệu tấn năm 2013-2014.
USDA ước tính Campuchia sản xuất 7,66 triệu tấn lúa (4,9 triệu tấn gạo) năm
2014-2015, tăng 4% so với 7,38 triệu tấn năm 2013-2014.
Theo số liệu của Văn phòng Dịch vụ Một cửa Thủ tục Xuất khẩu lúa gạo

(SOWS-REF), nửa đầu năm 2014, xuất khẩu gạo của Campuchia đạt 177.928
tấn, tăng 1% so với 175.959 tấn cùng kỳ năm ngoái.
Trong tháng 6, xuất khẩu gạo của Campuchia đạt 29.666 tấn, tăng 2% so với
29.105 tấn tháng 6/2013 và tăng 6% so với 27.971 tấn tháng 5/2014. Loại gạo
xuất khẩu chủ yếu là gạo trắng hạt dài (12.282 tấn) và gạo thơm jasmine (10.511
tấn).
Theo số liệu của FAO, xuất khẩu gạo của Campuchia năm 2014 ước đạt 1,3
triệu tấn, tăng so với 1,2 triệu tấn năm 2013.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) ước tính Campuchia sẽ xuất khẩu 1 triệu tấn gạo
trong năm 2014, kể cả xuất khẩu chính ngạch và tiểu ngạch sang Việt Nam.
Lào
Tại Lào, các cơn mưa trong mùa mưa đến chậm có khả năng tác động mục tiêu
đạt sản lượng lúa từ 3,8-4 triệu tấn tấn (khoảng 2,5-2,6 triệu tấn gạo) trong năm
2014 của nước này.
Chính phủ Lào đặt mục tiêu đạt sản lượng lúa khoảng 3,2 tấn/ha trong năm 2014
với điều kiện không có thiên tai.

25


×