Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Một số Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN + 1 (Trung Quốc).doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.56 KB, 86 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa kinh tế và kinh doanh
Quốc Tế – Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã trang bị cho em những kiến
thức cơ bản về Kinh Tế Quốc Tế, tự do hoá thương mại Quốc Tế cũng như
nghiệp vụ Kinh doanh Quốc Tế,…làm nền tảng lý luận chung cho bài viết.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến thầy giáo, PGS –TS
Nguyễn Như Bình đã tận tình chỉ bảo, góp ý và hướng dẫn em hoàn thành bài
viết, cũng như các cô chú, anh chị công tác trong viện Nghiên cứu thương mại,
đặc biệt là chú Vũ Tiến Dương – Trưởng phòng Hợp Tác Quốc Tế đã nhiệt tình
giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập tại Viện từ quá trình thu
thập tài liệu cho đến khi hoàn chỉnh bài viết.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
LỜI NÓI ĐẦU
Việc Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa gia nhập WTO vào tháng 12 năm
2001 đã trở thành sự kiện quan trọng trong hệ thống thương mại toàn cầu. Với
việc trở thành thành viên chính thức của WTO, Trung Quốc sẽ củng cố vị thế
kinh tế, chính trị của mình và hội nhập sâu vào thương mại thế giới. Trung
Quốc càng có nhiều cơ hội để phát triển kinh tế với các nước trong khu vực.
Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN) hịên đang là nhà cung cấp, cũng như
một thị trường quan trọng đối với Trung Quốc và đang chịu tác động mạnh mẽ
theo nhiều hướng khác nhau đặc biệt là từ khi Trung Quốc gia nhập WTO.
Trong thập kỉ vừa qua Trung Quốc và ASEAN đều có những cải cách, mở cửa
nền kinh tế và đều thực hiện chiến lược kinh tế hướng tới xuất khẩu, có tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá cao và ảnh hưởng qua lại ngày càng lớn. Cuộc đối thoại
giữa Trung Quốc và ASEAN là sáng kiến tăng cường quá trình hội nhập và hợp
tác kinh tế để thành lập một khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc gọi
tắt là ACFTA (ASEAN _ China Free Trade Area).
Thực hiện sáng kiến ACFTA, quan hệ kinh tế – thương mại Việt Nam –
Trung Quốc có vị trí hết sức quan trọng bởi vì Trung Quốc là một thị trường
lớn có chung đường biên giới với Việt Nam dài hơn 1.350 km. Từ khi thực hiện


đường nối cải cách, mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục. Hiện nay Trung Quốc đã trở thành thành viên chính thức
của WTO, với đà phát triển này, Trung Quốc sẽ sớm trở thành một trung tâm
kinh tế lớn của thế giới và đóng vai trò là một đối tác kinh tế có vị trí kinh tế
chiến lược quan trọng đối với Việt Nam.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Từ vị trí và vai trò của Trung Quốc nêu trên, em đã chọn đề tài “Một số
giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Trung Quốc
trong bối cảnh ASEAN + 1 (Trung Quốc)”. Qua đó chủ yếu em nghiên cứu
nhấn mạnh đến quan hệ thương mại ASEAN – Trung Quốc, quan hệ thương
mại Việt Nam- Trung Quốc và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá
Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.
Phương pháp nghiên cứu là dựa trên cơ sở một số bài nghiên cứu về
Trung Quốc và tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam mấy năm vừa qua để định
lượng, so sánh, và nghiên cứu các tài liệu, tạp chí, sách báo khác có liên quan
đến quan hệ thương mại hai nước trong phạm vi từ năm 2000 trở lại đây.
Bố cục bài viết được chia làm ba chương:
Chương I: Lý thuyết khu vực thương mại tự do và khu vực mậu dịch
tự do ASEAN – Trung Quốc.
Chương II: Thực trạng về quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam –
Trung Quốc.
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt
Nam vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN + Trung Quốc .
Với lượng thời gian chưa nhiều, phạm vi nghiên cứu có hạn, đề tài chắc
chắn còn nhiều nội dung chưa được đề cập đến. Em rất mong được các thầy cô
giáo và bạn đọc bổ sung nhiều ý kiến có chất lượng để đề tài được phong phú
và hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
CHƯƠNG I

LÝ THUYẾT KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO VÀ KHU VỰC MẬU DỊCH
TỰ DO ASEAN – TRUNG QUỐC
1.1. LÝ THUYẾT VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO:
1.1.1. Tự do hoá thương mại:
Cơ sở khách quan của xu hướng này bắt nguồn từ quá trình quốc tế hoá
đời sống kinh tế thế giới với những cấp độ là toàn cầu hoá và khu vực hoá, lực
lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới một quốc gia, sự phân
công lao động quốc tế phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu, vai trò của công ty đa
quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng “mô
hình kinh tế mở” với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của nền
kinh tế mỗi nước. Tự do hoá thương mại đều đưa lại lợi ích cho mỗi nước, dù
trình độ phát triển có khác nhau và nó phù hợp với trình độ phát triển của văn
minh nhân loại.
Nội dung của tự do hoá thương mại là nhà nước áp dụng các biện pháp
cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại trong hàng rào thuế quan và
hàng rào phi thuế quan trong quan hệ mậu dịch quốc tế, nhằm tạo điều kiện
ngày càng thuận lợi hơn cho việc phát triển các hoạt động thương mại quốc tế
cả bề rộng lẫn bề sâu. Đương nhiên tự do hoá thương mại trong thương mại
trước hết nhằm vào việc thực hiện chủ trương mở rộng quy mô xuất khẩu của
mỗi nước cũng như đạt tới những điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu.
Kết quả của tự do hoá thương mại là ngày càng mở cửa dễ dàng hơn thị trường
nội địa cho hàng hoá, công nghệ nước ngoài cũng như các hoạt động dịch vụ
quốc tế được xâm nhập vào thị trường nội địa, đồng thời cũng đạt được một sự
thuận lợi hơn từ phía các bạn hàng cho việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ từ
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
trong nước ra nước ngoài. Điều đó có nghĩa là phải đạt tới một sự hài hoà giữa
tăng cường xuất khẩu với nới lỏng nhập khẩu.
Các biện pháp để thực hiện tự do hoá thương mại chính là việc điều
chỉnh theo chiều hướng nới lỏng dần với bước đi phù hợp trên cơ sở các thoả
thuận song phương và đa phương giữa các quốc gia đối với các công cụ bảo hộ

mậu dịch đã và đang tồn tại trong quan hệ thương mại quốc tế. Việc hình thành
các liên kết kinh tế quốc tế cũng tạo thuận lợi cho tự do hoá thương mại trước
hết trong khuân khổ các tổ chức đó. Quá trình tự do hoá gắn liền với những
biện pháp có đi có lại trong khuôn khổ pháp lý giữa các quốc gia.
Trên cơ sở phân tích sự không tương đồng giữa việc bảo hộ bằng hạn
ngạch và thuế quan, các nhà kinh tế cho rằng tự do hoá thương mại ở các nước
đang phát triển là: Một quá trình chuyển dịch khỏi hạn chế bằng hạn ngạch với
những tỷ giá hối đoái mất cân bằng đến một hệ thống chỉ sử dụng hệ thống thuế
quan với tỷ giá hối đoái cân bằng.
Những nước này bắt đầu nhận thức về tự do hoá thương mại và tiến hành
cuộc cải cách từ giữa những năm 1980, tuy chất lượng cải cách còn chưa cao và
quy mô chưa sâu, tự do hoá thương mại đã được hỗ trợ bởi các hiệp ước với
quỹ tiền tệ quốc tế IMF và trong nhiều trường hợp bởi những khoản cho vay để
tiến hành cải cách của Ngân hàng thế giới, tuy nhiên hiện nay vấn đề này được
quan tâm và thực hiện ở nhiều nước đang phát triển với chất lượng cải cách cao
và phạm vi sâu rộng. Đối với các nước đang phát triển này, mặc dù người ta đã
chỉ ra những lợi ích lâu dài của việc giải phóng thương mại nhưng các nước
cũng phải gánh chịu cái giá để thực hiện nó khi những khu vực được bảo hộ
chính thức buộc phải cạnh tranh với hàng nhập. Loại bỏ sự kiểm soát giá cả và
sự hạn chế, cái thường đi cùng với những cải cách thương mại, có thể cũng đặt
ra những nhu cầu cơ bản ra ngoài khả năng mua của bộ phận dân chúng nghèo
nhất. Trong trường hợp này, sự hỗ trợ của chính phủ với các cải cách có thể
được nâng cao và những chi phí trong quá độ cần giảm xuống bằng cách thúc
đẩy sự cạnh tranh với nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho những điều chỉnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
thị trường lao động và phải đạt được những lợi ích thực tế chắc chắn cho những
bộ phận dân chúng nghèo nhất. Song, tự do hoá thương mại hiện nay được coi
như là một phương thức có hiệu quả hơn để đẩy mạnh xuất nhập khẩu và tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước.
Song, theo Micheal Mussa thì tự do hoá thương mại được hiểu là hạn

mức bảo hộ nói chung và thu hẹp khoảng chênh lệch mức bảo hộ giữa các ngành
khác nhau.
Xét theo một góc độ khác thì tự do hoá thương mại bao hàm cả việc xoá
bỏ những kiểm soát- sự phá bỏ các biện pháp phi thuế quan- cũng như những
chính sách chuyển các thể chế thương mại sang các trung lập – một sự giảm
trong xu hướng nghiêng về một hoạt động đặc thù, đặc biệt sự sản xuất thay thế
hàng nhập khẩu.
Trung lập được định nghĩa như là một tình huống trong đó tỷ lệ hối đoái
có hiệu quả đối với các hàng xuất khẩu của một nước – Tỷ lệ hối đoái danh
nghĩa được đỉều chỉnh đối với thuế xuất khẩu và trợ cấp xuất khẩu – là tương
đương với tỷ lệ hối đoái có hiệu quả đối với hàng nhập khẩu. Tỷ lệ hối đoái
danh nghĩa được đỉều chỉnh đối với thuế có được do nhũng hạn chế về định
lượng. Một hệ thống đòn bẩy trung lập có khả năng thích hợp hơn để khuyến
khích sự sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Thể chế trung lập có thể
được hoàn thiện bằng việc giảm bớt số tiền phải đóng góp của khu vực xuất
khẩu hoặc giảm bớt thuế quan đối với các hàng xuất khẩu vì chúng bù lại
khuynh hướng chống xuất khẩu được tạo ra bởi hệ thống bảo hộ. Tuy nhiên trợ
cấp xuất khẩu có thể phá vỡ các thể chế trung lập và dẫn tới một sự sử dụng
không hiệu quả các nguồn tài nguyên.
Phá bỏ các kiểm soát không phải bao giờ cũng là một sự thay đổi hướng
tới các thể chế trung lập. Một ví dụ của sự phá bỏ kiểm soát mà không có sự
thay đổi hướng tới các thể chế trung lập là sự thay thế các hạn chế về số lượng
bằng thuế quan tương đương. Tuy nhiên, sự bãi bỏ các hạn chế về số lượng sẽ
tạo ra những thể chế thương mại đơn giản hơn, và vì vậy sẽ làm giảm các hoạt
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
động tìm kiếm lợi nhuận qua các kẽ hở, làm tăng độ nhạy giá cả của hệ thống
thương mại, sự bãi bỏ các hạn chế này được sử dụng như là cơ sở cho sự giảm
thuế quan sau đó.
Trên thực tế, tự do hoá thương mại được hiểu là những cải cách nhằm
xoá bỏ dần dần mọi cản trở đối với thương mại, bao gồm thuế quan và phi thuế

quan. Được nghiên cứu trong mối liên hệ với các chính sách khác trong hệ thống
chính sách kinh tế của chính phủ.
Để tiến hành tự do hoá thương mại phải trải qua các bước cơ bản như:
Xác định mục tiêu và bối cảnh của cải cách, xác định đặc trưng của thời điểm
tiến hành để đưa ra tốc độ cải cách phù hợp, và xác định trình tự cần thiết cho
cuộc cải cách.
1.1.2. Khu vực mậu dịch tự do
Liên kết kinh tế quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội
hoá sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng mang tính chất quốc tế với sự tham
gia của các chủ thể kinh tế quốc tế dựa trên các hiệp định đã thoả thuận và ký
kết để hình thành nên các tổ chức kinh tế với những cấp độ nhất định. Liên kết
kinh tế quốc tế được hình thành với nhiều hình thức ở những cấp độ thoả thuận
khác nhau.
Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia thì liên kết kinh tế quốc tế có thể được
phân thành liên kết nhỏ và liên kết lớn, căn cứ theo phương thức điều chỉnh có
thể phân chia thành liên kết giữa các nhà nước và liên kết siêu nhà nước, căn cứ
vào đối tượng và mục đích của liên kết quốc tế có thể chia các liên kết thành
các dạng: Khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên
minh kinh tế và liên minh tiền tệ.
Khu vực mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do ( Free Trade Area hay
Trade Zone ) là một hình thức liên kết kinh tế mà các thành viên cùng nhau thoả
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán về một
hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó, các thoả thuận đó là:
- Giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng
đối với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau.
- Tiến tới tạo lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ.
- Mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ
buôn bán với các quốc gia ngoài khối ( các quốc gia ngoài liên minh).
Hiện nay các liên kết như EFTA (European Free Trade Area), NAFTA

(North American Free Trade Argeement), AFTA (ASEAN Free Trade
Area) là những liên kết tiêu biểu thuộc hình thức liên kết này.
-
1.2 KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN – TRUNG QUỐC
1.2.1 Bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
1.2.1.1 Bối cảnh Thế giới:
Chiến tranh lạnh kết thúc (1991) , chấm dứt sự đối đầu quân sự Đông-
Tây và giữa hai siêu cường Mỹ- Xô, toàn cầu hoá diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế
thế giới, tiếp theo là sự ra đời của hàng loạt các trung tâm kinh tế thế giới và
khu vực.
1.2.1.2 Khu vực Đông Nam Á:
ASEAN ra đời năm 1967 (có năm nước thành viên) với mục đích ban
đầu nhằm ổn định môi trường an ninh và chính trị khu vực. Từ sau năm 1990,
các thành viên ASEAN chuyển hướng sang các nội dung hợp tác kinh tế, năm
1992 khu vực mậu dịch tự do ASEAN – AFTA ra đời. Thông qua việc các nước
thành viên ký kết hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung
CEPT. Ngày nay ASEAN đã trở thành tổ chức lớn gồm 10 nước thành viên:
Brunây, Campuchia, Inđônêxia, Malaixia, Myanmar, Lào, Philipine, Singapore,
Thái Lan và Việt Nam.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Hoà bình hữu nghị và hợp tác là xu thế không thể đảo ngược, các nền
kinh tế ngoài ASEAN trong khu vực đang nỗ lực cải cách có kết quả sang thị
trường nước ngoài, hơn nữa kinh tế ASEAN đang phải đối mặt với nhiều thách
thức và tác động của toàn cầu hoá kinh tế trong điều kiện chiến tranh lạnh kết
thúc.
Bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế của ASEAN, chúng ta cũng
phải kể đến cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 từ Thái Lan đã nhanh chóng
lan sang các nước khác trong khu vực như Indonesia, Philipine,
Malaisia….Nhằm ngăn chặn khủng hoảng lan từ nước này sang nước khác, các

nước ASEAN đã cảm nhận sự cần thiết phải tăng cường hợp tác kinh tế trong
khu vực, và khi đó Trung Quốc nổi lên như là một đối tác quan trọng nhất.
1.2.2 Nền tảng của việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung
Quốc.
1.2.2.1 Quan hệ thương mại gần gũi giữa ASEAN và Trung Quốc.
Trong những năm 1990, cả Trung Quốc và ASEAN đều đạt được tỷ lệ
tăng trưởng ngoại thương cao. Trong giai đoạn từ 1993 đến 2000, ngoại thương
Trung Quốc tăng bình quân xấp xỉ 15%/năm trong khi đó ngoại thương
ASEAN tăng trưởng với tốc độ bình quân là 10,9%/năm.
Biểu 1.1:
Thương mại ASEAN- Trung Quốc 1991-2003
Đơn vị: triệu USD
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
0
10
20
30
40
50
60
70
80
TriÖu USD
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
n¨m
TQnk
TQxk
Nguồn: Từ 1991 -2002 Tổng cục Hải quan Trung Quốc và năm 2003 là
số liệu trong www.kitra.com.vn
Nhìn vào biểu đồ ta thấy tổng kim ngạch giữa ASEAN và Trung Quốc

tăng liên tục trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong 10 năm đổi mới của
Trung Quốc. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc và ASEAN năm
1991 mới chỉ là 7,9 tỷ USD đã tăng lên 44,55 tỷ USD năm 2002 và 78,25 tỷ
USD năm 2003. Trong khoảng thời gian tăng trưởng đó chúng ta chú ý rằng
tổng lượng kim ngạch này bị chững lại, thậm chí còn giảm đi trong khoảng thời
gian từ 1997 đến 2000, đó là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ nổ ra ở khu vực Đông Nam Á. Bước vào thế kỷ XX, năm 2000, thương mại
giữa ASEAN và Trung Quốc lại tăng vọt, đạt 39,5 tỷ USD, với tốc độ tăng
trưởng kỷ lục là 45,3% và đạt tăng bình quân 20,4%/năm kể từ năm 1991 khi
tổng kim ngạch thương mại mới chỉ là 7,9 tỷ USD. Trong năm 2002, trong bối
cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng mạnh, thương mại giữa hai bên vẫn duy trì
được động lực tăng trưởng cao, nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN tăng từ
3,8 tỷ USD năm 1991 lên 24,55 tỷ USD năm 2002. Năm 2003 thương mại giữa
ASEAN và Trung Quốc đã đạt mức 78,25 tỷ USD, tăng 42,8% so với năm 2002
xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc tăng 51,7% đạt 47,33 tỷ USD, nhập
khẩu từ Trung Quốc tăng 31,1% đạt 30,93 tỷ USD, giải thích về khoản thâm hụt
mậu dịch năm 2003 là 16,4 tỷ USD với ASEAN , một quan chức của bộ thương
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
mại cho biết đó là kết quả của việc Trung Quốc gia tăng nhập khẩu nguyên liệu
thô và linh kiện máy móc từ các nước Đông Nam Á.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Biểu 1.2:
Thương mại của Trung Quốc với từng nước ASEAN năm 2000-2002:
Đơn vị: Triệu USD
Các nước 2000 2001 2002
Tổng NK XK Tổng NK XK Tổng NK XK
Tổng 39.522 17.341 22.181 41.615 18.385 23.229 - - -
Singapore 10.821 5.761 5.060 10.934 5.792 5.143 10.976 5.961 5.015
Malaixia 8.045 2.565 5.480 9.425 3.220 6.205 9.655 4.025 5.630
Indonesia 7.464 3.062 4.402 6.725 2.837 3.888 - - -

Thái lan 6.624 2.243 4.381 7.050 2.337 4.713 - - -
Philipine 3.148 1.464 1.677 3.566 1.620 1.945 3.867 1.752 2.112
Việt Nam 2.466 1.537 929 2.815 1.804 1.011 3.654,28 2.158,79 1.495,50
Mianma 621 496 125 632 497 134 - - -
Campuchia 224 164 59 240 206 35 350 237 113
Bruney 74 13 61 165 17 148 189 31 158
Lào 41 34 7 62 54 6 - - -
Nguồn: Tổng cục hải quan Trung Quốc
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Ta thấy, nhìn chung thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc
với từng nước ASEAN tăng từ năm 2000 đến năm 2002 mặc dù tốc độ tăng
trưởng không cao, quan hệ thương mại của Trung Quốc mạnh nhất là đối với
Singapore là 10.821 triệu USD năm 2000 tăng lên 10.943 triệu USD năm 2001,
tăng lên 10.976 triệu USD năm 2002 và chênh lệch xuất nhập khẩu vơí nước
này cũng không lớn, con số này giữ ổn định ở khoảng 700 triệu USD, tiếp theo
là Malaysia, Indonesia… và thấp nhất là Lào, chủ yếu là xuất khẩu sang Lào,
mặc dù khối lượng không nhiều, riêng đối với Việt Nam mức độ tăng trong kim
ngạch xuất nhập khẩu ở mức tương đối cao so với các nước đang phát triển
trong khối, tăng từ 2.466 triệu USD năm 2000 lên 2.815 triệu USD năm 2001
và 3.654,28 triệu USD năm 2002 trong đó xuất khẩu từ Trung Quốc tăng nhanh
hơn nhập khẩu, tăng từ 1.537 triệu USD lên 2.158,79 triệu USD, như vậy cho
thấy kim ngạch khi quan hệ với Trung Quốc đóng góp phần lớn và là quan
trọng đối vơí kinh tế khối ASEAN.
1.2.2.2 Quan hệ đầu tư ASEAN- Trung Quốc:
ASEAN là một nguồn quan trọng cung cấp FDI cho Trung Quốc , đầu tư
của ASEAN vào Trung Quốc tăng trung bình hằng năm là 28%. Mặt khác,
ASEAN hiện không phải là thị trường chủ yếu cho đầu tư nước ngoài của
Trung Quốc, mỗi năm ASEAN chỉ nhận dưới 100 triệu USD FDI từ trung
Quốc, vào cuối năm 2001 tổng đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN bao gồm
740 dự án và trị giá 1,1 tỷ USD.

1.2.2.3 Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO
Tháng 11 năm 2001 Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của
WTO, đánh dấu sự hội nhập hoàn toàn của Trung Quốc vào kinh tế thế giới, sự
kiện này đã tác động tới kinh tế ASEAN trên một số khía cạnh quan trọng.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Thứ nhất là cơ hội tiếp cận thị trường Trung Quốc đối với các nước
ASEAN tăng lên như là hệ quả của việc Trung Quốc thực hiện các cam kết gia
nhập của mình.
Thứ hai là cơ hội tiếp cận thị trường của các nước ASEAN của Trung
Quốc tăng lên bởi vì với tư cách là thành viên WTO, Trung Quốc có quyền
được hưởng những quyền lợi như các thành viên WTO khác, và các nước
ASEAN không thể áp dụng chế độ phân biệt với Trung Quốc nữa.
Thứ ba là sự cạnh tranh ở thị trường truyền thống của ASEAN và Trung
Quốc như Mỹ, Nhật, EU. Cuối cùng là tác động có thể gây ra đối với nguồn vốn
FDI tới ASEAN trong bối cảnh Trung Quốc gia nhập WTO.
Tháng 3 năm 2002 Trung Quốc tuyên bố dành MFN cho Việt Nam theo
cam kết của Trung Quốc tại WTO trong cam kết ưu đãi đối với các nước đang
phát triển của ASEAN, tháng 11 năm 2002 hiệp định thương mại hợp tác quốc
tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc đã được ký kết, sự kiện này đặt mốc kết
thúc quá trình xây dựng khuôn khổ mở đường cho các hiệp định đàm phán tiếp
theo để xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA).
1.2.3 Nội dung hiệp định về khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
1.2.3.1 Sự hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
Một câu hỏi được đặt ra với các nước ASEAN là liệu ASEAN sẽ đi theo
định hướng hội nhập nào sau AFTA Trong khi mối quan hệ ASEAN – Trung
Quốc ngày càng phát triển? Câu trả lời chính là việc thành lập khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
Theo khuyến nghị của các chuyên gia Trung Quốc, do những năm gần
đây có nhiều yếu tố kìm hãm sự phát triển hơn nữa của thương mại và đầu tư
giữa ASEAN và Trung Quốc, hai bên nên bắt đầu việc triển khai sớm các biện

pháp nhằm tạo thuận lợi thúc đẩy thương mại và đầu tư tiếp tục phát triển trong
điều kiện hiện tại bởi vì những lý do sau đây:
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Thứ nhất, các biện pháp tạo thuận lợi có thể được áp dụng một cách dễ
dàng hơn so với các biện pháp tự do hoá và giữa ASEAN và Trung Quốc thì
không có những bất đồng lớn về vấn đề tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư.
Thứ hai, thể thức của ACFTA có thể dựa vào thể thức của khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA), bởi ASEAN đã có nhiều kinh nghiệm trong việc
xây dựng FTA ( sau 10 năm đàm phán) trong tất cả các lĩnh vực có liên quan.
Dựa vào cơ chế hiện hành của AFTA sẽ giúp giảm bớt việc đàm phán lại tiêu
chí của FTA giữa 10 nước thành viên ASEAN với Trung Quốc và còn giúp tiết
kiệm thời gian và chi phí không cần thiết.
Thứ ba, có thể bắt đầu càng sớm càng tốt cuộc đàm phán về hợp tác
trong năm lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, công nghệ thông tin- liên lạc, phát
triển nguồn nhân lực, đầu tư song phương và phát triển lưu vực sông Mekong)
mà các nhà lãnh đạo của hai bên đã nêu ra.
Cuối cùng, ASEAN và Trung Quốc có thể cân nhắc tới việc thiết lập một
khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc và lịch trình hợp tác công
nghiệp giữa hai bên trong khuôn khổ ACFTA, nhằm làm cho Khu vực mậu dịch
tự do này mang tính toàn diện hơn, các nội dung và phương diện cụ thể của các
cơ chế này sẽ tuỳ thuộc vào mong muốn và sự đồng thuận của cả hai bên
Ngày 8 tháng 10 năm 2002, trong khuôn khổ hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ 9 tại Bali, đã diễn ra hội nghị cấp cao ASEAN + Trung Quốc giữa lãnh
đạo nhà nước, chính phủ 10 nước ASEAN và thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia
Bảo nhằm thảo luận các biện pháp tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai bên trên
tất cả các lĩnh vực. Hội nghị đã đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ song
phương bằng việc thông qua tuyên bố chung về đối tác chiến lược ASEAN –
Trung Quốc vì hoà bình và thịnh vượng, tuyên bố nhấn mạnh để phục vụ lợi
ích trước mắt cũng như lâu dài của hai bên và hoà bình thịnh vượng trong khu
vực, ASEAN và Trung Quốc thiết lập quan hệ vì “hoà bình thịnh vượng” để

nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiện, hợp tác toàn diện trong thế kỷ XXI, được
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
định hướng bởi hiến chương Liên hợp quốc, hiệp ước thân thiện và hợp tác
Đông Nam Á, năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
1.2.3.2 Nội dung hiệp định về khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc:
Theo dự kiến thì quy mô kinh tế của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN –
Trung Quốc tương đối nhỏ so với quy mô của cộng đồng Châu Âu hoặc là Khu
vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Tuy nhiên đây là khu vực năng động
nhất thế giới, bởi vậy không thể coi nhẹ tiềm năng của khu vực này. Hiệp định
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN –Trung Quốc không chỉ vạch ra một hướng
hợp tác mới cho hai bên trong kỉ nguyên mới này, mà còn mang lại những tác
động tích cực cho hợp tác trong khu vực Đông Á. Một mặt, hiệp định này có
thể tạo ra cho cả Nhật Bản và Hàn Quốc phát triển mối quan hệ hợp tác chặt
chẽ hơn với ASEAN hoặc thậm chí đi đến ký kết những hiệp định tương tự với
ASEAN. Mặt khác, hiệp định này sẽ góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác có
quy mô rộng hơn trong khu vực Đông Á. Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN – Trung Quốc sẽ khẳng định vị trí tiên phong của hai bên về hợp tác
khu vực Đông Á trong tương lai.
Hai quan điểm quan trọng trong hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn
diện ASEAN – Trung Quốc là chương trình thu hoạch sớm EHP (Early Havert
Program), và điều khoản quy định Trung Quốc dành cho các nước ASEAN
chưa phải là thành viên của WTO, đã tạo ra những ưu đãi có ý nghĩa đối với
Việt Nam để thâm nhập thị trường Trung Quốc một cách bình đẳng trên mọi
lĩnh vực thương mại, dịch vụ, hàng hoá và đầu tư.
Chính phủ Việt Nam cũng ban hành văn bản chỉ đạo hoạt động buôn bán
với Trung Quốc, trong đó có những văn bản quy định riêng về trao đổi hàng
hoá qua biên giới, cho phép một số tỉnh có đường biên giới với Trung Quốc
được thực hiện một số chính sách ưu đãi ở khu kinh tế cửa khẩu, quy định bỏ
thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42

Theo kế hoạch, hiệp định mậu dịch tự do ASEAN sẽ được thực hiện từ
năm 2003, sáu nước thành viên cũ của ASEAN cam kết sẽ hạ mức thuế quan
bình quân xuống dưới 5% vào cuối năm 2003, bốn nước thành viên mới là Việt
Nam, Lào, Campuchia và Myanmar sẽ hạ mức thuế xuống dưới 5% vào cuối
năm 2006, đồng thời sẽ bỏ tất cả thuế quan, thực hiện mậu dịch tự do vào năm
2018. Thuế quan của ASEAN hạ thấp sẽ có ảnh hưởng thuận lợi cho việc xuất
khẩu hàng hoá của Trung Quốc, đồng thời tạo cơ sở cho Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) sớm được hình thành. Khi ấy sẽ tạo ra viễn
cảnh một khu vực kinh tế với 1,7 tỷ người tiêu dùng, GDP là hai ngàn tỷ USD
và tổng kim ngạch thương mại khoảng 1,23 ngàn tỷ USD.
1.2.3.3 Mô hình thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
Với thời hạn 10 năm, uỷ ban đàm phán thương mại đã thảo luận kĩ mô
hình ưu đãi thuế quan ASEAN – Trung Quốc (ACPT), mô hình dự kiến đặt ra
quá trình giảm thuế, bao gồm:
Kênh 1: Kênh thông thường, cắt giảm tất cả các dòng thuế ngoại trừ các
dòng thuế trong danh sách nhạy cảm trong quá trình giảm thuế hàng năm. Tỷ lệ
áp dụng thuế từ đầu sẽ không được cao hơn 20% và đạt mức cuối cùng 0-5%.
Kênh 2: Danh sách nhạy cảm, đề xuất không được vượt quá mức tối đa
1% số dòng thuế và 3% giá trị thương mại và tỷ lệ MFN của WTO được áp
dụng. Uỷ ban đàm phán thương mại vẫn đang trong quá trình xác định danh
sách nhạy cảm.
1.2.4 Chương trình thu hoạch sớm
Để khuyến khích các nước ASEAN tiếp tục xây dựng Khu vực mậu dịch
tự do với mình, Trung Quốc đã đề nghị một chương trình mang tên thu hoạch
sớm (EHP) kéo dài trong ba năm, Chương trình này là một trong những nội
dung của hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc .
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Đây là nhượng bộ của Trung Quốc để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước
ASEAN thông qua việc cắt giảm thuế quan đối với một số mặt hàng nông sản
và hàng tiêu dùng trong sản xuất nội khối.

1.2.4.1 Chương trình thu hoạch sớm Trung Quốc áp dụng đối với các nước
ASEAN
Theo EHP thời gian thực hiện cắt giảm thuế xuống 0% sẽ sớm hơn và nhanh
hơn so với lộ trình 10 năm xây dựng ACFTA, theo tuyên bố chung của các nhà
lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc thành lập Khu vực mậu dịch tự do trong vòng
10 năm, tuy nhiên lộ trình tự do hoá thương mại trong EHP đã được cam kết
thực hiện sớm hơn, nhanh hơn, cụ thể đưa vào thực hiện là:
- Các nước ASEAN 6 và Trung Quốc , thời gian cắt giảm thuế từ 1/1/2004
và hoàn thành vào năm 2006 (mức thuế suất là 0%).
- Riêng Việt Nam,thời gian cắt giảm thuế cũng bắt đầu từ 1/1/2004, nhưng
thời gian hoàn thành kéo dài đến 2008. Các nước Lào, Myanmar thời
gian bắt đầu cắt giảm thuế muộn hơn, từ 2006 và kết thúc vào năm 2009,
còn camuchia kết thúc năm 2010.
- Mức thuế suất cắt giảm quy định cho từng năm đối với từng nhóm mặt
hàng phân theo mức thuế suất MFN ở thời điểm 1/7/2003. tổng hợp
chung, vào năm 2004 các nước ASEAN 6 (gồm Bruney, Indonesia,
Malaysia, Philipine, Singapore, Thái Lan) và Trung Quốc sẽ có mức thuế
suất không quá 10%, Việt Nam không quá 20% đối với các mặt hàng
thực hiện EHP.
Những mặt hàng tham gia EHP là mặt hàng nông sản, thuỷ sản thuộc
chương 1 đến chương 8 của biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Đây là mặt hàng mà cả
ASEAN và Trung Quốc đều có thế mạnh và có khả năng xuất khẩu.
Ngoài ra, với một số nước không đảm bảo cân bằng xuất nhập khẩu đối với
từng mặt hàng này trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, có thể bổ sung
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
các mặt hàng cụ thể ngoài chương 1 đến 8, dựa trên cơ sở thoả thuận với Trung
Quốc. Riêng Việt Nam không có mặt hàng nào ngoài chương 1 đến 8.
ASEAN và Trung Quốc đang trong quá trình trao đổi ý kiến về khái niệm
thu hoạch sớm , cần đạt được sự hiểu biết chung nhằm thúc đẩy việc thực hiện.
Đối với ASEAN thu hoạch sớm là những lợi ích ban đầu mà ASEAN có thể

được hưởng nhờ cam kết đàm phán và hoàn tất Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Trung Quốcvà thu hoạch sớm cần phải được thực hiện ngay sau khi
hoàn thành một hiệp định khung.
Bên cạnh đó, ASEAN và Trung Quốc đồng ý rằng thu hoạch sớm sẽ được
thực hiện trong 3 năm, và các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar sẽ có
thời gian thực hiện dài hơn.
1.2.4.2 Riêng đối với Việt Nam.
Theo biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành (ban hành theo quyết định số
110/2003/QĐ- BTC ngày 25/7/2003 của Bộ tài chính), Việt Nam sẽ có 484 mặt
hàng tham gia EHP. Ngược lại phía Trung Quốc cũng có khoảng gần 500 mặt
hàng tham gia EHP.
- Từ 2004 Việt Nam cắt giảm 484 dòng thuế nhập khẩu các mặt hàng nông
thuỷ sản hải sản xuống 0% năm 2008, có 26 dòng thuế loại trừ không
tham gia
- Trung Quốc cắt giảm 536 dòng thuế đối với hàng nhập khẩu từ Việt
Nam, các nhóm trên 15% giảm xuống 10%, từ 5-10% giảm xuống 5%, từ
5% giảm xuống 0%
- Từ 1/1/2004 Việt Nam đã tiến hành cắt giảm 376 dòng thuế trong đó
30% xuống 20%, dưới 15% giảm xuống 5%.
1.2.4.3 Cơ hội xuất khẩu hàng Việt Nam khi cam kết cắt giảm thuế trong EHP
chính thức có hiệu lực
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Về tổng thể Việt Nam hiện đang nhập siêu từ Trung Quốc, song đối với các
mặt hàng tham gia trong EHP thì Việt Nam xuất siêu sang thị trường này, năm
2001 Việt Nam xuất khẩu 455,6 triệu USD các mặt hàng nông sản và thuỷ sản
thuộc EHP sang Trung Quốc , chiếm 32% tổng giá trị xuất khẩu của thị trường
này. Năm 2002 Việt Nam xuất khẩu được 279 triệu USD, bằng 19,5%, các mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường này là các loại cá, rau
quả và hoa quả ăn được. Điều này cho thấy khi EHP chính thức có hiệu lực, có
khả năng chúng ta sẽ tăng xuất khẩu các mặt hàng sang Trung Quốc.

Giá trị xuất khẩu năm 2002 giảm cả về số tuyệt đối và tương đối do nhiều
nguyên nhân khác nhau như giá hàng nông sản giảm sút, sự thay đổi trong cơ
cấu xuất khẩu, và việc Trung Quốc thay đổi chính sách thuế trong cam kết
WTO .
Vì vậy, với lộ trình giảm thuế như trên của EHP, rõ ràng sẽ tạo cơ hội tăng
cường xuất khẩu hàng nông sản và thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này
và hi vọng giá trị xuất khẩu nông sản, thuỷ sản sẽ tăng trong những năm tới.
Mặt khác, phần lớn các mặt hàng tham gia EHP có lộ trình giảm thuế tương
đương với chương trình của CEPT/AFTA. Nhưng do hai cách thức cắt giảm
thuế kahc nhau nên có một số mặt hàng tham gia EHP có lộ trình cắt giảm thuế
nhanh hơn so với CEPT/AFTA. Do vậy, việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt
Nam sang thị trường Trung Quốc có lợi thế hơn so với xuất khẩu sang thị
trường các nước ASEAN vì một số thuận lợi về điều kiện địa lý và nhu cầu tiêu
dùng cao của thị trường Trung Quốc , nhưng ở thị trường này, hàng Việt Nam
sẽ tiếp tục cạnh tranh với các mặt hàng nông sản của Thái Lan, Malaysia và các
nước ASEAN khác.

1.2.4.4 Về việc hàng Trung Quốc xâm nhập vào Việt Nam
EHP chỉ áp dụng đối với những mặt hàng nông sản, thuỷ sản, trong khi đó,
Việt Nam là một trong những nước có lợi thế xuất khẩu những mặt hàng này
theo phân tích ở trên. Chính vì vậy, Việt Nam không có gì đáng lo ngại khi thực
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
hiện EHP, mà điều đáng quan tâm là ta phải khẩn trương tận dụng được cơ hội
mới ở thị trường Trung Quốc, ở đó có sự cạnh tranh của các mặt hàng từ các
nước thành viên ASEAN. Khó khăn chính tập trung vào các mặt hàng thuộc các
ngành công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp chế tạo và sản xuất, khi phải thực
hiện các cam kết trong CEPT/AFTA và sắp tới là FTA với lộ trình 2005 – 2015.


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ KINH TẾ, THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM – TRUNG QUỐC
Là hai nước láng giềng gần gũi về nhiều mặt, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam
và Trung Quốc trước hết là quan hệ thương mại, là một trong những nền tảng
quan trọng để xây dựng và thúc đẩy các mối quan hệ khác.
Trong lịch sử hai nước từng có mối quan hệ buôn bán chặt chẽ nhưng đã bị
gián đoạn trong một thời gian. Các quan hệ kinh tế hiện nay được khôi phục
vào cuối những năm 1980, và từ đó đã không ngừng phát triển cả chiều rộng lẫn
chiều sâu, theo hướng từng bước tăng cường tính phụ thuộc lẫn nhau, xuất phát
từ lợi ích kinh tế chung của cả hai nước.
Năm 1992 là bước ngoặt trong quan hệ buôn bán và hợp tác giữa hai nước
khi hiệp định Thương Mại được ký kết giữa hai chính phủ. Tiếp sau hiệp định
Thương Mại, một số Hiệp định quan trọng khác về hợp tác và thương mại giữa
hai nước cũng được ký như hiệp định về vận tải, Hiệp định thanh toán giữa hai
nước, hiệp định về việc đi lại của công dân hai nước…
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
2.1 THỰC TRẠNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI TRUNG QUỐC NĂM 2003
1
Trước hết, phân tích tình hình kinh tế Trung quốc thời gian qua, đặc biệt
là năm 2003 cho thấy sự tăng trưởng nhanh chóng trong thương mại, theo
thống kê quý I năm 2003 của Bộ thương mại, tốc độ tăng trưởng của kinh tế
Trung Quốc đạt 9,9%, tỷ lệ cao nhất từ năm 1997 trở lại đây, sang quý II do ảnh
hưởng của dịch SARS, nên tốc độ tămg trưởng chỉ đạt 6,7 %. Với nỗ lực chung
của cả nước, sang quý III, tốc độ tăng trưởng đạt 9,1% , so với quý II tăng 2,4
điểm. GDP Trung Quốc năm 2003 có khả năng vượt con số 11.000 tỷ NDT, có
thể đạt mức tăng trưởng 8,5%; quốc lực tổng hợp của Trung Quốc được nâng
lên một tầm cao mới. Điểm lại tình hình kinh tế Trung Quốc trong cả năm 2003
ta thấy:
Về công nghiệp: Hiệu quả kinh tế công nghiệp năm 2003 tăng trưởng
nhanh. Từ tháng 1 đến tháng 10, thu nhập sản phẩm công nghiệp đạt 11.122,35

tỷ NDT, vượt con số của cả năm 2002, tăng trưởng 27,9% so cùng kỳ năm
ngoái. Lợi nhuận đạt 6.472,8 tỷ NDT, tăng 46 % so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó xí nghiệp quốc hữu và xí nghiệp quốc hữu khống chế cổ phần lợi
nhuận đạt 3.174,7 tỷ USD, tăng trưởng 54%. Số tiền thua lỗ của các xí nghiệp
làm ăn thua lỗ là 93,45 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kì năm trước, trong đó,
xí nghiệp quốc hữu chiếm 53,95 tỷ NDT, giảm 3,4 % so với cùng kì năm
2002.Riêng 3 quý đầu năm , công nghiệp có quy mô trung bình trở lên có tốc độ
tăng trưởng cao nhất từ năm 1995 trở lại đây. Các thành phần kinh tế tăng
trưởng toàn diện. Trong đó xí nghiệp quốc hữu và xí nghiệp quốc hữu khống
chế cổ phần đạt mức độ tăng trưởng14,3%; xí nghiệp tập thể tăng trưởng
11,7%; xí nghiệp cổ phần tăng trưởng 17,9 % xí nghiệp nước ngoài và Hồng
kông, Ma Cao, Đài Loan đạt mức 19,6 %; công nghiệp nặng tăng nhanh hơn
công nghiệp nhẹ (công nghiệp nặng đạt 18,4%, công nghiệp nhẹ đạt 13,9%).
Mức tăng trưởng lợi nhuận xí nghiệp tăng. Trong số 39 ngành lớn của công
1
Nguồn: Thống kê bộ thương mại – Phần về tình hình Trung Quốc
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
ngiệp có 38 ngành thu lãi cao hơn năm 2002. Các xí nghiệp thua lỗ là 71,9 tỷ
NDT, giảm 5,3%.
Về nông nghiệp: Trong điều chỉnh kết cấu nông nghiệp giữ mức tăng
trưởng cân bằng, kết cấu cay trồng nông nghiệp được điều chỉnh thêm một
bước. Diện tích trồng cây lương thực và nguyên liệu đường giảm, diện tích
bông và rau xanh tăng. Mặc dù bị giảm diện tích gieo trồng và thiên tai, dự kiến
sản lượng lương thực, nguyên liệu dầu và nguyên liệu đường giảm, nhưng sản
lượng nghề cá, chăn nuôi, lâm nghiệp vẫn giữ mức tăng trưởng, sản lượng bông
vẫn tăng trưởng như cũ.
Về thương mại: Theo số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc, từ
tháng 1 đến tháng 10 năm 2003 tổng kim ngạc xuất nhập khẩu của Trung Quốc
đạt 682,33 tỷ USD, tăng 36,4% so với cùng kỳ năm 2002, trong đó xuất khẩu
đạt 348,60 tỷ USD, tăng 32,8% , nhập khẩu đạt 333,73 tỷ USD, tăng 40,4%;

xuất siêu14,87 tỷ USD, giảm 40% so với cùng kỳ năm trước. Trong ba quý đầu
năm, xuất khẩu sang 10 bạn hàng lớn tăng toàn diện chiếm 86,4% tổng lượng
kim ngạch xuất khẩu. Trong đó xuất khẩu sang EU đạt 50,08 tỷ USD, tăng
trưởng 46,2%; sang Mỹ đạt 65,93 tỷ USD tăng trưởng 31,4 %;sang Nhật tăng
trưởng 22,8% đạt 42,16 tỷ USD; sang Nga tăng trưởng 57,3%; sang Đài Loan
đạt 35%. Xuất khẩu sang Singapore tăng nhanh thêm một bước, xuất khẩu sang
Châu Phi đạt mức tăng trưởng 46,5 %, sang Châu Mỹ La Tinh tăng 20,9%.(
2
)
Đối với mặt hàng dầu mỏ là mặt hàng chiến lược quan trọng, Trung Quốc
đang xúc tiến việc chuẩn bị gia nhập OPEC. Tập đoàn hoá dầu Trung Quốc
đang hợp tác với xí nghiệp hoá đầu khác để đầu tư với số vốn khoảng 10 tỷ
NDT để xây dựng và quản lý 4 khu chứa dầu lớn có sức chứa khoảng năm triệu
tấn dầu, tại Hoàng Đảo. Tại Giang Tô và Đại Liên có các khu dự bị. Dự kiến
công trình nhày sẽ hoàn thành trước năm 2005. Theo tin của kinh tế nhật báo
ngày 27 tháng 11 năm 2003 cho thấy năm 2002 Trung Quốc đã phải nhập 69
triệu tấn dầu thô từ Nga, Trung Đông, Việt Nam và Trung Á
2
2 Ngườn:Bộ Thương mại –Phần về tình hình Trung Quốc
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
Về tài chính: Đến cuối tháng 9 năm 2003 lượng cung ứng tiền mở rộng
đạt 21.400 tỷ NDT, tăng trưởng 20,7 %, nhanh hơn cùng kỳ năm ngoái 4,2
điểm. Lượng tiền cung ứng theo nghĩa hẹp (M1) 7.900 tỷ NDT, tăng trưởng
18,5 %, cao hơn cùng kì năm ngoái 2,6 điểm, lượng tiền lưu thông là 1.800 tỷ
NDT, tăng trưởng 12,8 %. Lượng dư tiền gửi ngoại tệ và ngoại tệ của các cơ
cấu tài chính đạt 21.500 tỷ NDT, tăng 21,1%. Luỹ kế các khoản tiền gửi tăng
3.200 tỷNDT, tăng 880,70 tỷ NDT. Cơ cấu tiền tệ đầu tư nước ngoài đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống tiền tệ Trung Quốc, đã cống hién
tích cực đối với công cuộc phát triển kinh tế và cải cách mở cửa. Tính đến cuối
tháng 10 năm 2003đã có 62 ngân hàng đầu tư nước ngoài của 19 nước và khu

vực thành lập 191 doanh nghiệp tại Trung Quốc, trong đó có 84 doanh nghiệp
đã được phép kinh doanh đồng nhân dân tệ.
Về đầu tư: Đầu tư tài sản cố định ba quý đầu năm đạt 3.435,1 tỷ NDT,
tăng 30,5 %, cao hơn cùng kỳ năm ngoái 8,7 điểm. Trong đó kinh tế quốc hữu
và các loại hình kinh tế khác đầu tư 2.651,3 tỷ NDT,tăng trưởng 31,4%; kinh tế
tập thể và cá thể đầu tư đạt 783,9 tỷ NDT, tăng trưởng 27,6 %.
Trong đầu tư của loại hình kinh tế quốc hữu và các loại hình kinh tế khác,
đầu tư xây dựng cơ bản đạt 1.378,1 tỷ NDT, tăng trưởng 29,1 %; đầu tư cải tạo
đổi mới đạt 514,9 tỷ NDT, tăng trưởng 37,2%, đầu tư nhà đất đạt 649,5 tỷ NDT
tăng trưởng 32,9%. Mười tháng đầu năm Trung Quốc đã phê chuẩn ới 32.696 xí
nghiệp đàu tư nước ngoài, tăng 17,99 % so cùng kỳ, kim ngạch ký kết đạt
88.683 tỷ USD tăng 33,75%, vốn thực tế đưa vào sử dụng là 43.556 tỷ USD
tăng 5,81%. Tính đến cuối tháng 10 năm 2003 toàn Trung Quốc có 456.892 xí
nghiệp nước ngoài đầu tư với tổng số vốn ký kết đạt 916.743 tỷ USD, vốn thực
tế đưa vào sử dụng là 491,522 tỷ USD.
Từ năm 2002, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc bắt đầu hồi phục với tốc
độ cao, trở lại mặt bằng 8%, đồng thời xuất hiện xu thế tăng dần theo từng quý.
Như vậy, kinh tế Trung Quốc năm 2003 có điều kiện đẩy nhanh tốc độ phát
triển. Sở dĩ kinh tế Trung Quốc đạt mức tăng trưởng cao như vậy vì nhiều lý do,
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Nguyễn Thị Ngà _ KTQT42
trong đó có việc tăng trưởng đầu tư đạt 42%, tạo kỉ lục mới từ năm 1995 trở lại
đây, đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng của GDP; tiếp theo là lượng tiền đưa ra
thị trường cũng đạt một mức cao mới; phát triển kinh tế của nhiều địa phương
mạnh mẽ chưa từng thấy.
2.2 NHỮNG ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ, THƯƠNG MẠI TRUNG
QUỐC NĂM 2003
2.2.1 Về cải cách thể chế kinh tế
Năm 2003 được coi là năm bản lề đối với công cuộc cải cách của Trung
Quốc. “Nghị quyết về một số vấn đề hoàn thiện thể chế thị trường XHCN”
được coi là văn kiện có tính chất cương lĩnh đi sâu cải cách thể chế kinh tế, thúc

đẩy phát triển toàn diện kinh tế xã hội và con người. Đầu tháng 4/2003, “Uỷ
ban Giám quản tài sản quốc hữu” ra đời, điều lệ về giám quản tài sản quốc hữu
được công bố, chế độ bỏ vốn tài sản quốc hữu sẽ thống nhất giữa quản lý tài sản
với quản lý con người, quản lý công việc được cơ bản xác lập. Điều này đã giải
quyết được vấn đề mà lâu nay người bỏ vốn ra không được quản lý thực sự và
có quá nhiều đầu mối; tài sản quốc hữu luôn luôn tồn tại vấn đề hiệu quả thấp
và thất thoát. Cải cách thể chế quản lý hành chính có bước tiến triển mới. Uỷ
ban cải cách và phát triển, bộ Thương mại ra đời, không những gộp các chức
năng chồng chéo nhau lại, mà còn theo nguyên tắc “Quyết sách, chấp hành,
giám sát”, sắp xếp lại thứ tự mới đối với các bộ, làm cho các ngành của chính
phủ thực sự là trọng tài có quyền lực và công minh. Cải cách thể chế tiền tệ
vững bước tiến lên. Cùng với việc thành lập uỷ ban giám quản ngân hàng , thể
chế giám quản phân ngành tiền tệ tiếp tục được hoàn thiện. Ngày 11 tháng 6,
công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần bảo hiểm tài sản nhân dân Trung Quổc trở
thành công ty bảo hiểm tài chính tiền tệ vốn Trung Quốc đầu tiên hoàn thành
chế độ cổ phần hoá, đồng thời đã được niêm yết ở nước ngoài. Tại 8 tỉnh thành
như Triết Giang đã đi đầu thí điểm hợp tác xã tín dụng nông thôn, dần dần trở
thành cơ cấu tiền tệ mang tính chất khu vực xã hội, phục vụ cho nông dân, nông

×