Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Thời gian và nghệ thuật trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.29 KB, 62 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

HOÀNG TUYẾT CHINH

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG THƢƠNG NHỚ MƢỜI HAI
CỦA VŨ BẰNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

HOÀNG TUYẾT CHINH

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG THƢƠNG NHỚ MƢỜI HAI
CỦA VŨ BẰNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG

HÀ NỘI, 2015



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết
ơn chân thành, sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn: TS.Thành Đức Bảo Thắng đã tận
tình hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo giảng dạy tại khoa Ngữ Văn, các thầy cô
giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã trang bị cho em những kiến thức, kinh
nghiệm quý giá trong quá trình học tập tại trường, nhiệt tình giúp đỡ em thực hiện
đề tài này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do trình độ kỹ năng của bản thân còn
nhiều hạn chế cho nên khóa luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Tuyết Chinh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Thƣơng nhớ
Mƣời Hai” là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn
TS.Thành Đức Bảo Thắng. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là
trung thực, chưa được ai công bố trên bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Nếu phát hiện bất kỳ sự gian lận nào tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước
Hội đồng, cũng như kết quả khóa luận của mình.
Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Tuyết Chinh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................. 7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8
6. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 8
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 9
1.1. Vũ Bằng và tác phẩm Thương nhớ Mười Hai ........................................... 9
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp............................................................................. 9
1.1.2. Vị trí của Vũ Bằng trong dòng chảy lịch sử văn học dân tộc ............... 13
1.1.3. Tác phẩm Thương nhớ Mười Hai ......................................................... 16
1.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 18
1.2.1. Khái niệm thời gian ............................................................................... 18
1.2.2 Khái niệm thời gian nghệ thuật .............................................................. 18
1.2.3. Cấu trúc của thời gian nghệ thuật ......................................................... 22
1.2.4. Các bình diện của thời gian nghệ thuật ................................................. 26
Chƣơng 2. BIỂU HIỆN CỦA THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC
PHẨM THƢƠNG NHỚ MƢỜI HAI CỦA VŨ BẰNG ............................... 29
2.1. Thời gian tuyến tính ................................................................................. 29
2.1.1. Thời gian mùa xuân............................................................................... 30
2.1.2. Thời gian mùa hạ .................................................................................. 35
2.1.3. Thời gian mùa thu ................................................................................. 38
2.1.4. Thời gian mùa đông .............................................................................. 42
2.2. Thủ pháp xáo trộn các bình diện thời gian. .................................................... 44
2.2.1. Thời gian hiện tại và thời gian quá khứ. ............................................... 45
2.2.2. Thời gian vật lí và thời gian tâm lí.............................................................. 49
KẾT LUẬN .................................................................................................... 54

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vũ Bằng (1913 - 1984) là một cây bút hoạt động trên nhiều lĩnh vực:
báo chí, nghiên cứu, sáng tác, phê bình,... và ở lĩnh vực nào ông cũng đạt
được những thành tựu nhất định. Riêng trong sáng tác văn chương, Vũ Bằng
để lại khối lượng tác phẩm lớn thuộc nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện
ngắn, truyện vừa, trong đó có nhiều tác phẩm đặc sắc, kí thác nhiều tâm sự
của nhà văn về cuộc đời và con người. Có thể khẳng định, ông đã có nhiều
đóng góp trong sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Mấy năm trở lại
đây, các tác phẩm văn học của ông được tập hợp lại, tái bản để giới thiệu với
đông đảo bạn đọc. Đặc biệt, các tác phẩm kí của Vũ Bằng được mọi người
yêu thích và tìm kiếm. Những thành công về nội dung và nghệ thuật của tác
giả ở thể loại này được thể hiện qua rất nhiều tác phẩm, nhưng nổi bật hơn cả
là ở tập bút kí Thương nhớ Mười Hai.
Đến với Thương nhớ Mười Hai, Vũ Bằng cho người đọc thấy được
linh hồn đất nước qua những trang viết của tập kí. Cả tác phẩm phập phồng
nhịp đập của trái tim yêu thương, tràn thấm những cảm xúc và tình cảm đẹp
mà nhà văn dành cho quê hương, con người đất Việt. Đó là cảnh đẹp thiên
nhiên đất nước qua bốn mùa, con người với văn hóa truyền thống lâu đời của
dân tộc. Tác phẩm đã để lại bao ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc đó là:
niềm thương nhớ, nỗi hoài niệm về nơi "Chôn rau cắt rốn" của những người
con xa quê. Để làm được điều đó, Vũ Bằng đã sử dụng thời gian nghệ thuật
như một phương diện biểu hiện đắc lực cho nội dung. Ngay từ nhan đề tác
phẩm Thương nhớ Mười Hai, thời gian nghệ thuật đã được nêu ra như một
điểm nhấn để thể hiện niềm thương nỗi nhớ da diết của tác giả. "Mười Hai" ở
đây chính là mười hai tháng trong năm theo Âm lịch của người Việt Nam.
Chính nhà văn cũng đã bộc bạch nỗi niềm của mình: “...Trong mười hai tháng


1


của mười hai cuộc đổi thay tiết trời, mười hai sự rung động uyển chuyển của
năm tháng, của chim muông, của sắc đẹp, của hoa lá, của thương yêu, tình tứ,
tôi cảm ơn sự bất công đã cho tôi nhìn rõ lòng tôi yêu thương Hà Nội đến
chừng nào, Hà Nội ạ!” [1, 12] . “...Mỗi tháng lại có những cái đẹp não nùng
riêng, những nỗi nhớ nhung riêng. Mỗi cảnh bày ra trước mắt mình lại nói lên
những niềm thương yêu cũ, làm thế nào mà giữ trong lòng được". [1, 13]
Cùng với không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là một phạm trù
của hình thức nghệ thuật. Nhờ có thời gian nghệ thuật mà các tác phẩm văn
học có thể phản ánh sinh động cuộc sống của con người trong điều kiện lịch
sử xã hội cụ thể. Đây là một phương diện nghệ thuật tiêu biểu góp phần thể
hiện nội dung của tác phẩm và là một yếu tố khá quan trọng làm nên thành
công của mỗi tác phẩm văn học.
Thời gian trong sáng tác của Vũ Bằng cũng như mọi hiện tượng của thế
giới khách quan, khi đi vào nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng tình cảm,
được nhào nặn và tái tạo trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo thấm
đẫm cá tính sáng tạo của nhà văn. Cảm quan về thời gian gắn liền với cảm
quan về con người và cuộc đời, gắn bó với mơ ước và lí tưởng của nhà văn.
Cho tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc về Vũ
Bằng. Đó là những công trình nghiên cứu có giá trị về tác phẩm ở cả nội dung
và hình thức. Tuy nhiên, phương diện thời gian nghệ thuật chưa được chú ý và
xem xét riêng.
Qua thời gian tìm hiểu, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài "Thời gian
nghệ thuật trong Thƣơng nhớ Mƣời Hai của Vũ Bằng” với mong muốn rẽ
theo một hướng đi riêng. Đó là qua phân tích, tìm hiểu yếu tố thời gian nghệ
thuật để làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề

"Một tác phẩm nghệ thuật thực sự là một tác phẩm không đáy". Đúng
như Hoàng Ngọc Hiến đã nhận định, đối với những tác phẩm để đời và có giá

2


trị thì việc nghiên cứu, thẩm bình nó luôn luôn bất tận, đó được ví như mảnh
đất màu mỡ cho các nhà nghiên cứu thỏa sức khám phá. Thương nhớ Mười
Hai của Vũ Bằng cũng là một tác phẩm như vậy. Tuy nhiên, trong dòng chảy
của nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Vũ Bằng là một hiện tượng đặc
biệt. Bởi vì đây là một cây bút tài năng nhưng "ba chìm bảy nổi" trong cuộc
đời và trong sự nghiệp văn học của mình, như Vương Trí Nhàn nhận xét, đây
là một nhà văn "không gặp may".
Là một trong những người mở đầu cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam
với khối lượng tác phẩm đồ sộ, tuy nhiên trong thời gian đầu các sáng tác của
ông chưa được đánh giá cao. Và phải đến những năm gần đây, nhờ sự "công
bằng, sáng suốt" của giới nghiên cứu và độc giả mà Vũ Bằng cùng các sáng
tác của ông mới thực sự được quan tâm, đánh giá cao ở nhiều phương diện và
trả về đúng với vị trí xứng đáng của nó.
Vũ Ngọc Phan là người đầu tiên nghiên cứu về Vũ Bằng. Trong công
trình Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan nhận xét khái quát về văn chương của
ông "Tiểu thuyết của Vũ Bằng rất gần với tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan
về lối tả cảnh và tả nhân vật, dù là họ ở vào cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu
sang, bao giờ Vũ Bằng cũng tả bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời hơi đá kê một
chút; còn về cảnh, ông chỉ tả sơ sơ, ông chú trọng cả vào hành vi ấy là động tác
của cuốn tiểu thuyết và gây nên những cảnh riêng biệt cho nhân vật". [11, 435].
Đồng thời, Vũ Bằng được Vũ Ngọc Phan xếp vào các tiểu thuyết gia tại
chương "Tiểu thuyết tả chân", nhưng nhìn chung nhận xét của ông về Vũ
bằng còn rất khiêm tốn.
Gần 30 năm sau, tác giả Thượng Sỹ trong lời giới thiệu về cuốn sách Bốn

mươi năm nói láo khi cuốn này được xuất bản lần đầu tiên. Thượng Sỹ nhận
định Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng đã nhận định đây là "lịch sử một kiếp
sống lê thê của người viết báo chuyên nghiệp xứ này". Đó là "Lịch sử của một

3


kiếp sống gắn theo với nhiều kiếp sống, và đó là tâm tư của một người, cùng
theo đuổi một nghề và thường nuôi chọn một hoài bão như nhau" [19, 9]
Năm 1970, Tạ Tỵ cho ra mắt cuốn Mười khuôn mặt nghệ thuật, ở đó
Vũ Bằng được giới thiệu là một trong mười gương mặt văn nghệ nổi bật lúc
bấy giờ với bài: Vũ Bằng, người trở về từ cõi đam mê. Tạ Tỵ đã nói về sự
nghiệp của Vũ Bằng với bao chua cay, thăng trầm cùng với sự đóng góp với
nghề và một vài đặc điểm về văn phong của ông.
Từ năm 1990 đến năm 1999, nhiều bài đăng trên các báo Văn nghệ,
Phụ nữ thứ bảy Thành phố Hồ Chí Minh, Người Hà Nội của các tác giả như
Nguyễn Vỹ với Vũ Bằng phải có một vị trí xứng đáng, Đặng Anh Đào với
Tháng ba, đi tìm thời gian đã mất, Nguyễn Thị Thanh Xuân với Khúc ca cảm
hoài của người tình nhân, Vương Trí Nhàn với Buồn vui đời viết, Phạm Ngọc
Luận với Nếu trở lại làm người, con cứ lại xin làm báo,.... Nhưng tất cả các
bài viết đó chỉ dừng lại ở nghiên cứu một khía cạnh trong tác phẩm hoặc kể
những ấn tượng, kỉ niệm về Vũ Bằng nhằm minh oan cho ông.
Cũng trong thời gian này, nhà văn Triệu Xuân là người có công sưu
tầm, tuyển chọn các tác phẩm của Vũ Bằng thành ba tập Tuyển tập Vũ Bằng.
Ông còn viết bài Vũ Bằng - người lữ hành đơn côi. Qua đó, Triệu Xuân đã
khái quát đôi nét về cuộc đời, sự nghiệp và những đóng góp của Vũ Bằng cho
nền văn học Việt Nam.
Tiếp theo, với công trình Vũ Bằng - bên trời thương nhớ, nhà nghiên
cứu Văn Giá đã thể hiện cái nhìn tương đối hệ thống và toàn diện về cuộc đời
và sự nghiệp sáng tác của Vũ Bằng.

Trong Chân dung các Nhà văn hiện đại do một nhóm tác giả biên soạn,
Nguyễn Đăng Điệp đã phác thảo về cuộc đời và những nét chính trong tác phẩm
của Vũ Bằng. Công trình cũng đề cập đến những đánh giá sai lầm của một số
người về nhà văn trước đây. Các trang viết Cuộc dấn thân đẹp đẽ và mang tính

4


phiêu lưu [3, 238], Người chung thân với lao động chữ nghĩa [3, 243], Lõi trầm
đã kết trong cây [3, 247] đều góp phần khẳng định tài năng và những đóng
góp to lớn của Vũ Bằng cho nền văn học nước nhà.
Năm 2006, Nguyễn Ngọc Thiện trong Phong cách và Đời văn đã không
ngớt lời khen ngợi: “Trên lĩnh vực văn chương, Vũ Bằng là một nhà văn độc
đáo, tài hoa mang dấu ấn phong cách rõ rệt. Ông thành công trên hai thể loại
chính là tiểu thuyết và kí, đặc biệt về hồi kí và tùy bút, tạp văn. [15, 420 - 421]
Cũng trong năm này, nhà văn Triệu Xuân đã ra mắt bạn đọc Vũ Bằng toàn
tập. Trong công trình, nhà văn đã bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc của mình trước
một nhân cách lớn: “Cả cuộc đời say mê văn chương, cả một đời yêu nước
thương nòi, vậy mà Vũ Bằng phải chịu quá nhiều oan ức khổ đau! Thương thay
một kẻ lữ hành suốt đời đơn côi ngay trên đất nước quê hương mình.” [19, 20]
Cùng với lịch sử nghiên cứu về Vũ Bằng, các sáng tác của ông cũng
được chú ý nghiên cứu. Và tác phẩm để lại nhiều dư âm nhất - chính là tập kí
Thương nhớ Mười Hai.
Nhà văn Tô Hoài trong bài viết Vũ Bằng - Thương nhớ Mười Hai đã
đánh giá rất cao tác phẩm này. Đó là "Một nét anh hoa của tấm lòng đời",
"từng câu tha thiết đã làm cho đến những người đương ở giữa Hà Nội cũng
phải yêu lây. Những sành sỏi thoát ra từ ngòi bút sao mà nhớ đến não nùng."
Ông còn nhận định rằng: “Mỗi trang văn của Vũ Bằng là một u uẩn, một ước
mong không nguôi không tới được, không bao giờ tới được, không thể cầu
được ước thấy”. [5, 226]

Trong chuyên luận của Văn Giá, tác giả cũng đánh giá rất cao về
Thương nhớ Mười Hai. Vũ Bằng đã "trải gấm hoa" lên những trang văn, và
ngay cả độc giả khó tính nhất cũng phải thừa nhận đây là một tác phẩm đặc
sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Với Nguyễn Đăng Điệp, tác giả nhận thấy Vũ Bằng luôn sống với thế
giới hoài niệm trong thời gian rời Hà Nội thương yêu vào Sài Gòn. Theo

5


Nguyễn Đăng Điệp, Thương nhớ Mười Hai, Miếng ngon Hà Nội và hàng loạt
các tác phẩm khác đi ra từ vòm trời thương nhớ vời vợi ngàn trùng, cô đơn
khắc khoải. Trong số đó có thật nhiều trang văn tài hoa, đẹp đến nhói đau.
Ông thật sự là một nghệ sĩ lớn đã tấu lên khúc nhạc hồn non nước tâm huyết
nhất của đời mình.” [3, 250].
Triệu Xuân lại rất hào phóng sử dụng mĩ từ khi nói về Thương nhớ
Mười Hai: “Có người bạn thân, trong lúc đàm đạo văn chương, hỏi tôi: Sắp
sang thế kỷ 21 rồi, nếu chỉ được phép mang mười cuốn sách văn học vào thế
kỷ mới, ông mang những cuốn nào? Tôi trả lời ngay: Một trong những cuốn
tôi mang theo là Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng!…” [19, 11].
Năm 2006, trên tạp chí Văn học và tuổi trẻ (số 3), tác giả Tạ Hiếu với bài
viết Nghệ thuật so sánh trong tùy bút Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng đã
nhìn nhận tác phẩm này ở góc độ nghệ thuật. Tác giả nhận định: “Vũ Bằng vận
dụng hết sức linh hoạt, uyển chuyển và biến hóa (…), Vũ Bằng đã thôi miên
người đọc vào mê hồn trận của những so sánh. Những so sánh đẹp với nhiều
liên tưởng thú vị như thứ men làm say lòng độc giả, để rồi lúc chợt tỉnh, họ
thán phục rằng: khó có thể so sánh gợi cảm và hay hơn được nữa.” [7, 11 - 12].
Giáo sư Hoàng Như Mai đã dành tặng cho Thương nhớ Mười Hai
những lời đánh giá thật đẹp trong Lời nói đầu của tác phẩm: “…Chính tấm
lòng ấy đã cùng với ngòi bút tài hoa của Vũ Bằng làm nên giá trị văn chương

của tác phẩm này. Nó hấp dẫn chúng ta từng dòng, từng trang…” [1, 6].
Nhìn chung, các công trình, bài viết chủ yếu tập trung đi vào tìm hiểu
cuộc đời và văn nghiệp của nhà văn. Việc nghiên cứu, đánh giá tác phẩm của
Vũ Bằng còn đang ở bước đầu trên chặng đường tìm hiểu và chiêm ngưỡng.
Đặc biệt, Thương nhớ Mười Hai vẫn được xem là một mảnh đất màu mỡ đang
chờ người giàu tâm huyết khai phá. Có một số công trình đã đi vào đánh giá
cái hay, cái đẹp và giá trị của tác phẩm. Nhưng đến nay, vẫn chưa thể giải mã

6


hết được thế giới bí ẩn và cái đẹp đang hàm chứa trong tùy bút này. Đó là một
trong những khó khăn đối với chúng tôi khi tìm tư liệu cho đề tài của mình.
Qua việc tìm hiểu lịch sử vấn đề đã nghiên cứu về nhà văn Vũ Bằng và
tác phẩm Thương nhớ Mười Hai, chúng tôi thấy hướng đi của khóa luận
không bị trùng lặp. Với sự đóng góp nhỏ bé của mình cho việc nghiên cứu
văn học, chúng tôi hi vọng đề tài Thời gian nghệ thuật trong Thƣơng nhớ
Mƣời Hai của Vũ Bằng sẽ khám phá cái hay, cái đẹp của tập kí ở góc độ hình
thức nghệ thuật. Hình thức đó chính là thời gian nghệ thuật.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Triển khai đề tài Thời gian nghệ thuật trong Thương nhớ Mười Hai của
Vũ Bằng, mục đích của chúng tôi là nhằm khám phá, làm rõ nét độc đáo của thời
gian nghệ thuật trong Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng. Từ đó, khẳng định
những đóng góp quý báu và vị trí của ông đối với văn xuôi hiện đại nước nhà.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, trước hết chúng tôi đi làm rõ một số nét về tác giả, tác
phẩm và cơ sở lí luận về thời gian nghệ thuật trong văn học. Sau đó chỉ ra các
biểu hiện về thời gian nghệ thuật trong Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng
để thấy được nét nổi bật về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Qua đó,

thấy được tài năng bậc thầy của tác giả.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu về thời gian
nghệ thuật trong Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng.

7


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp khảo sát thống kê
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Khóa luận được cấu
trúc làm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Thời gian nghệ thuật trong Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vũ Bằng và tác phẩm Thƣơng nhớ Mƣời Hai
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp
1.1.1.1. Cuộc đời
Trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam, Vũ Bằng là một nhà báo,

một nhà văn tài năng ở nhiều phương diện. Song, trong một thời gian dài,
cuộc đời và con đường văn chương nghệ thuật của Vũ Bằng tưởng như chìm
vào quên lãng, tưởng như bị phủ nhận bởi cái án “dinh tê”, “về thành”, “quay
lưng với kháng chiến”, “di cư vào Nam theo giặc”. Những điều như vậy đã
khiến bản thân Vũ Bằng cùng những tác phẩm nghệ thuật của ông phải chịu
nhiều éo le, thiệt thòi trong cuộc sống. Cho dù mãi sau này sự thật mới được
sáng tỏ, nhưng công bằng mà nói khi nhắc đến thế hệ những nhà văn tiền
chiến Việt Nam, nhắc đến những con người đã mang lại cho đời những áng
văn tuyệt bút nặng nghĩa nặng tình về quê hương, về những tình cảm sâu đậm
của lòng người…Và hơn hết là về những giá trị đích thực của nghệ thuật thì
không thể không công nhận một Vũ Bằng tài hoa trong văn học nghệ thuật.
Vũ Bằng tên thật là Vũ Đăng Bằng. Ông sinh ngày mùng 03 tháng 06,
năm 1913 tại Hà Nội (trong Vũ Bằng toàn tập, Triệu Xuân cho rằng Vũ Bằng
sinh năm 1914). Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho học, có truyền
thống khoa bảng nhiều đời ở miền đất Ngọc Cục, huyện Lương Ngọc, (nay là
Bình Giang) tỉnh Hải Dương. Ông may mắn được vào học Trường Lycée
Albert Sarraut - một trường Trung học Pháp nổi tiếng lúc bấy giờ chỉ dành
cho con em người Pháp và những gia đình người Việt “có máu mặt”.
Khi còn nhỏ ông đã say mê viết văn, làm báo. Vào những năm cuối tại
trường trung học Albert Sarraut, Vũ Bằng đã sao nhãng việc học để theo nghề
viết báo. Năm 16 tuổi ông đã có truyện đăng báo và liền sau đó ông lao vào
9


nghề văn, nghề báo với tất cả niềm say mê. Những bài báo đầu tiên của Vũ
Bằng được đăng trên An Nam tạp chí và sau đó là tờ Đông Tây… Những năm
trước cách mạng. Vũ Bằng viết văn và làm báo với rất nhiều bút danh khác
nhau như: Vũ Bằng, Tiêu Liêu, Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm,
Vũ Tường Khanh, Hoàng Thị Trâm… và làm việc ở rất nhiều tờ báo: An
Nam tạp chí, Đông Tây, Trung Bắc Tân văn, Công dân, Ích hữu, Tiểu thuyết

thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san,…
Khoảng năm 1934 - 1935, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Quỳ,
người Thuận Thành, Bắc Ninh. Cuộc hôn nhân của hai người gặp nhiều sự
phản đối của gia đình, bè bạn do bà Quỳ đã qua một đời chồng và có một
người con riêng. Tuy nhiên sau đó Vũ Bằng và người phụ nữ này vẫn đến với
nhau và sinh được một người con tên là Vũ Hoàng Tuấn. Gia đình Vũ Bằng
sống rất hạnh phúc cho tới khi Vũ Bằng vào Nam.
Cuối năm 1946, Vũ Bằng cùng gia đình tản cư ra vùng kháng chiến sau
đó ông “dinh tê” về Hà Nội, bắt đầu tham gia hoạt động trong mạng lưới tình
báo cách mạng (khoảng cuối năm 1948). Năm 1954, được sự phân công của
tổ chức ông đành để lại vợ và con trai (Vũ Hoàng Tuấn và người con riêng
của vợ tên là Khoái) ở lại Hà Nội để vào Nam làm nhiệm vụ.
Do tính chất của công việc tình báo và cũng do hoàn cảnh nên trong
thời gian ở miền Nam, Vũ Bằng đã lập gia đình với một người phụ nữ Nam
Bộ tên là Lương Thị Phấn quê ở Cần Thơ. Hai người có với nhau sáu mặt
con. Tuy nhiên cuộc sống của gia đình ông không được suôn sẻ và ngày càng
nghèo túng. Khi viết Bốn mươi năm nói láo, Vũ Bằng đã phải viết vừa ngồi
hứng từng chậu nước đổ vào bể chứa cho vợ nấu cơm và giặt giũ (…) Buổi
trưa đến cây xăng Cống Bà Xếp, ngồi giữa hơi xăng và đống dầu mỡ mà viết.
Trong những năm sinh sống ở Sài Gòn, có lúc Vũ Bằng đã ký tên bác sĩ Lê
Tâm viết cả những sách tính dục như Gái dậy thì nên biết… để kiếm tiền
trang trải cuộc sống gia đình.

10


Trong hoàn cảnh có vợ con ở miền Nam nhưng Vũ Bằng vẫn luôn
hướng lòng mình về miền Bắc, về người vợ cũ nơi cố hương. Năm 1967, ông
nhận được tin người vợ Nguyễn Thị Quỳ mất nhưng vẫn không thể về thăm.
Mặc dù rất đau khổ nhưng nhà văn Vũ Bằng vẫn hoàn thành nhiệm vụ của

mình một cách xuất sắc.
Năm 1975, đất nước thống nhất nhưng Vũ Bằng vẫn sinh sống tại miền
Nam. Có lẽ là do hoàn cảnh gia đình, hoặc do mặc cảm và nhất là khi thân
phận của ông vẫn chưa được tiết lộ và minh oan nên ông không thể quay về
Bắc Việt - nơi mà ông luôn hằng mong ước trở về. Cuộc sống túng thiếu và
bệnh tật kéo dài cho đến những ngày đầu tháng tư năm 1984 thì chấm dứt đối
với Vũ Bằng vì ông đã đi vào cõi vĩnh hằng, khi đó ông đã 70 tuổi.
Vì nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đứt đoạn đường dây liên lạc, mãi
đến sau này ông mới được công nhận là người hoạt động cách mạng và được
truy tặng Huân chương nhà nước. Ngày 01/03/2000, Tổng cục II của Bộ Quốc
Phòng đã xác nhận: Vũ Bằng là nhà văn - chiến sĩ tình báo của ta hoạt động
trong lòng địch theo sự phân công của cấp trên. Đến ngày 13 tháng 02 năm
2007, nhà văn Vũ Bằng đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học
Nghệ thuật.
1.1.1.2. Sự nghiệp
Vũ Bằng không chỉ là một nhà báo mà còn là một nhà văn rất mực tài
hoa. Từ khi quyết định gắn cuộc đời mình với cây bút, sức viết của ông vô
cùng dồi dào, phong phú, sung sức trên nhiều lĩnh vực vực. Ở lĩnh vực nào
ông cũng đạt được những thành công nhất định. Ông đã để lại khối lượng tác
phẩm khá lớn thuộc nhiểu thể loại như truyền thuyết, truyện vừa và kí và
khoảng năm mươi truyện ngắn, trong đó có nhiều tác phẩm có giá trị đặc sắc,
kí thác nhiều tâm sự của nhà văn về cuộc đời, con người, chú trọng đến những
khía cạnh phong hóa xã hội và đôi khi thuần túy văn nghệ.

11


Sáng tác đầu tiên trong cuộc đời cầm bút của Vũ Bằng là truyện ngắn
Con ngựa già đăng trên mục Bút mới báo Đông Tây năm 1930. Từ đó cho đến
cuối đời, Vũ Bằng đã liên tục, đều đặn cho ra mắt một khối lượng tác phẩm lớn

nhưng theo tình hình thực tế thì cho đến nay mới phát hiện được hơn một nửa.
Từ những năm trước cuộc Cách mạng tháng Tám, Vũ Bằng đã say mê
nghiệp văn, nghiệp báo. Tác phẩm văn học đầu tay của ông là tập tùy bút
châm biếm Lọ văn ra đời khi ông mới 16 tuổi nhưng đã đón nhận sự yêu thích
từ mọi người.
Tập tiểu thuyết Một người trong đêm tối (1937) viết về cuộc đời của
một thanh niên trụy lạc và một thiếu phụ hoang dâm, qua đó tác giả muốn
phơi bày cái nhơ nhớp của một bộ phận tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ.
Tiểu thuyết Truyện hai người (1940) viết về chuyện một viên thư kí tên
Hải say mê một cô gái điếm tên Trân.
Tập truyện ngắn Để cho chàng khỏi khổ (1941) thể hiện rõ nhất lối văn
phong dí dỏm, ngộ nghĩnh và chất trào lộng của Vũ Bằng.
Từ sau năm 1945 đến 1954, Vũ Bằng viết một số truyện dài như: Chớp
bể mưa nguồn (1949), Thư cho người mất tích (1950), Bến cũ (1950) và hàng
chục truyện ngắn khác đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy. Lúc này Vũ Bằng tập
trung miêu tả về cuộc sống vùng đô thị tạm chiếm Hà Nội qua đó bộc lộ tình
cảm của mình đối với kháng chiến của toàn dân tộc.
Sau năm 1954, Vũ Bằng tiếp tục cộng tác với nhiều tờ báo ở miền Nam
như: Hòa bình, Dân chúng, Đồng Nai, Sài Gòn, Mai, Tiếng dân, Vịt vịt, Tin
điện, Sao trắng, Thế giới. Mặt khác, ông cho ra đời nhiều tác phẩm với các
thể loại khác nhau như: Khảo về tiểu thuyết (tiểu luận, 1955), Miếng ngon Hà
Nội (ký, 1960), Món lạ miền Nam (ký, 1960), Bốn mươi năm nói láo (ký,
1969), Thương nhớ mười hai (ký, 1971), Mê chữ (tập truyện, 1970), Nhà văn
lắm chuyện (giai thoại, 1971), Cái đèn lồng (tập truyện, 1971), Bát cơm (tập

12


truyện ký, 1971), Bảy đêm huyền thoại (truyện ký, 1972), Người làm mả vợ
(tập truyện ký, 1973), Bóng ma nhà mệ Hoát (truyện, 1973)… Nhưng trong

số đó xuất sắc hơn cả là bộ ba tác phẩm ký: Bốn mươi năm nói láo (1969),
Miếng ngon Hà Nội (bắt đầu viết năm 1952 và hoàn chỉnh năm 1969) và
Thương nhớ Mười Hai (1971).
Bốn mươi năm nói láo là cuốn sách đầu tiên viết về việc làm báo ở Việt
Nam. Đây là một cuốn vừa biên khảo về lịch sử báo chí, lịch sử Việt Nam mà
cũng vừa là cuốn tạp ghi về sinh hoạt báo chí nước ta từ lúc tác giả mới bước
chân vào làng báo tại Hà Nội (1928 - 1929) cho đến cuối đời tại Sài Gòn
(1970). Qua tác phẩm này, tác giả ghi lại được tiến trình báo chí Việt Nam với
các báo ở miền Bắc (trước năm 1954) và báo ở miền Nam (trước 1975).
Sáng tác của Vũ Bằng trải rộng trên nhiều thể loại như truyện ngắn,
truyện vừa, tiểu thuyết,… với một khối lượng khá lớn các tác phẩm viết suốt
từ những năm 30 đến khi ông cất bút từ giã cuộc đời. Vũ Bằng đã để lại cả
một sự nghiệp văn học nếu không nói là thật lớn lao, thì cũng là nổi bật thời
tiền chiến.
1.1.2. Vị trí của Vũ Bằng trong dòng chảy lịch sử văn học dân tộc
Vũ Bằng là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Suốt
cuộc đời làm báo, viết văn, ông đã cống hiến toàn bộ trí tuệ, tài hoa, đóng góp
rất quan trọng cho nền văn học, báo chí nước nhà.
Vũ Bằng là người có nhiều đóng góp quan trọng cho lĩnh vực lí luận về
tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đến 1945.
Sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX
đã tạo thành một dấu mốc quan trọng cho quá trình hiện đại hóa nền văn học.
Trong giai đoạn này có rất nhiều các tác phẩm có giá trị ra đời. Song về
phương diện lí luận mà nói thì vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu nào về tiểu thuyết hiện đại ngoại trừ cuốn Khảo về tiểu thuyết của Vũ

13


Bằng. Thực ra, lúc này ngành nghiên cứu lí luận - phê bình văn học của nước

ta không phải là không phát triển, mà ngược lại đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể trong việc đưa ra các bài viết có tính lí luận về văn chương nói chung
nhằm thúc đẩy cho sự phát triển của văn học,…với các tên tuổi lớn như Thiếu
Sơn, Trương Chính, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Đặng Thai Mai,…
Với Khảo về tiểu thuyết, Vũ Bằng đã tạo nên một tiếng vang và có ý
nghĩa quan trọng đối với lí luận văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng.
Vũ Bằng là người đầu tiên đưa vấn đề tiểu thuyết ra bàn luận một cách có hệ
thống qua việc tiến hành phân biệt một cách khá thuyết phục giữa tiểu thuyết
hiện đại và truyền thống, xác định vấn đề nhân vật, ngôn ngữ trong tiểu thuyết
hiện đại. Đối với việc phân biệt hai loại tiểu thuyết (truyền thống và hiện đại),
Vũ Bằng cho rằng: tiểu thuyết truyền thống là loại “truyện quái đản thất
kinh”, “làm cho ta quên cõi đời này đi”… như truyện diễn nghĩa của ta và
Tàu, truyện thơ anh hùng ca của Pháp (Poèmes epiques - sử thi), truyện hoang
đường và tiểu thuyết hiện đại là “gần đời thiết thực”…Không ít nhà văn, nhà
phê bình nghiên cứu văn học cho rằng: Ngay từ những năm ba mươi, Vũ
Bằng là một trong những người có công lớn cách tân tiểu thuyết Việt Nam,
hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam.
Trong lĩnh vực báo chí, Vũ Bằng là một nhà báo xông xáo, hoạt động
sôi nổi, góp phần to lớn trong việc phát triển nền báo chí nước nhà.
Ngay từ thời trai trẻ ông đã cộng tác với nhiều tờ báo ở Hà Nội trong
thập niên 30, 40... Chủ bút tờ Tiểu thuyết thứ bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung
Bắc chủ nhật,... cho đến khi tên tuổi của ông quen thuộc trong làng báo, nhiều
tờ, nhiều mục đều có Vũ Bằng. “Viết báo, viết báo, thầu báo cai đầu dài ba
bốn tờ một lúc. Anh viết đủ thứ, từ thượng vàng hạ cám, từ cái hộp thư, cái tin
vặt, cái vui cười, cái biết ai tâm sự đến truyện ngắn, truyện dài đăng từng kì”
(Tô Hoài).

14



Trong tác phẩm Văn học miền Nam, Võ Phiến đề cập đến tài năng làm
báo của ông: “Vũ Bằng có lúc tay nầy một tờ báo của Vũ Đình Long, tay kia
một tờ khác của Nguyễn Doãn Vượng; có lúc một mình trông nôm cả ba tờ báo
ở Sài Gòn (Đồng Nai, Sài Gòn Mai và Tiếng Dân; lại có lúc vừa viết cho Dân
chúng, làm Tổng thư ký báo Tin Điện, lại vừa hợp tác với người thứ ba làm
báo Vịt Vịt...”. Vũ Bằng dấn thân vào nghiệp báo với nỗi đam mê, song song
với nhiều thể loại đóng góp trên tờ báo, ông sáng tác đều đặn nhiều tác phẩm.
Vũ Bằng không chỉ là một nhà báo mà còn là một nhà văn rất mực tài
hoa với những đóng góp đáng kể cho sự thành công của nền văn học nước nhà.
Suốt bảy mươi năm trên dòng sông cuộc đời, Vũ Bằng đã để lại cho đời
một sự nghiệp sáng tác phong phú trên nhiều lĩnh vực: báo chí, viết văn, dịch
thuật,…với nhiều thể loại: tùy bút, bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết,…Văn
nghiệp của ông làm phong phú, đa dạng cho nền văn học hienj đại Việt Nam
trong buổi đầu khai sáng.
Và nhà văn Triệu Xuân đánh giá: Văn hồi ký của ông là loại văn trữ
tình, giàu chất thơ, hướng vào biểu hiện nội tâm, hướng về phong cảnh thiên
nhiên bốn mùa xứ sở. Các câu văn tràn đầy cảm xúc, cảm giác tinh tế. Cùng
với Thương nhớ Mười Hai, Miếng ngon Hà Nội,…đã góp phần định hình kiểu
hồi ký trữ tình độc đáo. Có thể xem đây là một đóng góp quan trọng của Vũ
Bằng vào thể ký nói riêng và nền văn học hiện đại nói chung.
Nhà văn Triệu Xuân kể: “Vào những năm 1932 - 1945, Vũ Bằng đã
nâng đỡ, hướng nghiệp, dìu dắt rất nhiều nhà văn trẻ, sau này trở thành những
nhà văn tên tuổi lẫy lừng; và những người am hiểu Vũ Bằng từ khi ông vào
Nam mà tôi đã gặp đều khẳng định: Vũ Bằng là một con người chân chính,
một nhà văn yêu nước, có tấm lòng son sắt với Hà Nội.
Là người có công lao to lớn với sự nghiệp cách mạng. Một người nghệ
sĩ ngôn từ tài hoa giàu lòng yêu thương quê hương đất nước. Có thể nói, Vũ

15



Bằng là một hiện tượng đặc biệt, một dấu son chói lọi trong dòng chảy không
ngừng của lịch sử văn học dân tộc.
1.1.3. Tác phẩm Thƣơng nhớ Mƣời Hai
Trong toàn bộ sự nghiệp văn chương của Vũ Bằng, Thương nhớ Mười
Hai có một vị trí hết sức quan trọng. Đây là một tác phẩm có giá trị lớn cả về
nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.
Tùy bút Thương nhớ Mười Hai ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang
chìm trong bom đạn. Lúc này, Vũ Bằng và gia đình cũng có hoàn cảnh éo le
giống như hoàn cảnh chung của cả dân tộc. Với nỗi nhớ đong đầy yêu thương
của người con xa xứ, Vũ Bằng đã gửi gắm tất cả lên trang viết của mình.
Thương nhớ Mười Hai viết về mười hai tháng với khung cảnh thiên
nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn hóa của Hà Nội và của miền Bắc. Vũ
Bằng đã dành trọn tác phẩm này để viết về văn hóa Hà Nội với chiều sâu của
lịch sử và vẻ đẹp của Hà Nội trong nỗi hoài niệm da diết về Việt Bắc yêu dấu.
Vũ Bằng đã mất mười một năm ròng rã để hoàn thành tùy bút. Mười một năm
chỉ để viết về nỗi nhớ trong một năm, qua đó chúng ta sẽ cảm nhận được nỗi
nhớ ấy khắc khoải đến nhường nào.
Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng là một tùy bút được viết khi tác
giả đang sống ở Sài Gòn, nhớ về miền Bắc - Hà Nội, nhớ về người vợ thân
yêu của mình. Mang đặc trưng của thể tùy bút có pha lẫn hồi kí, tác phẩm
được chia thành mười hai đoạn, mỗi đoạn tương ứng cho một tháng Âm lịch
của một năm. Qua đó, những nét văn hóa, phong tục tập quán, thói quen, tâm
hồn của mảnh đất Hà Nội nói riêng và của vùng đất Bắc Bộ nói chung hiện
lên rất rõ nét.
Cùng là những người "sành" Hà Nội, và cũng mang trong mình một
tình yêu Thủ đô sâu sắc, nhưng mỗi nhà văn lại có một cách ứng xử, một cái
nhìn khác nhau về Hà Nội. Nếu như Thạch Lam khi viết về Hà Nội với cảm

16



nhận tinh tế, sâu lắng, đầy cảm xúc. Nguyễn Tuân lại có con mắt sắc sảo, tài
hoa, còn Vũ Bằng đã góp thêm một nét vẽ, một nhớ nhung da diết vào bản
tình ca có tên: nỗi nhớ Hà Nội.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về thể loại của tác phẩm Thương nhớ
Mười Hai. Chúng ta biết rằng, Vũ Bằng viết tác phẩm này trong hoàn cảnh đặc
biệt. Đó là khi tác giả đang sống và hoạt động tình báo ở Sài Gòn. Nhà văn kể
lại một đoạn đời đã qua với bao kỉ niệm nên tác phẩm có tính chất của một hồi
kí. Mặt khác, Thương nhớ Mười Hai viết về thiên nhiên, con người, văn hóa,…
đất Bắc và tình cảm nhớ thương tha thiết của nhà văn nên cũng có thể xem là
một bút kí. Nhưng, tác phẩm lại thể hiện rất sâu đậm nỗi lòng, tâm tư tình cảm
của tác giả nên mang đặc tính của tùy bút. Vũ Bằng viết Thương nhớ Mười Hai
để ghi lại những dòng cảm xúc chủ quan tuôn chảy trong suốt quãng đời xa
quê. Như vậy, ngay trong tác phẩm của mình Vũ Bằng đã có sự kết hợp rất độc
đáo, đan xen giữa các thể loại tạo nên một Vũ Bằng với phong cách riêng biệt.
Dù là hồi kí, bút kí hay tùy bút thì cũng đều nằm trong một thể loại chung. Nhà
văn đã rất thành công trong việc kết hợp chúng nhờ sự kết hợp hài hòa, đặc sắc
đó đã đưa đến những thành công đặc sắc về nội dung và độc đáo về nghệ thuật
của tác phẩm. Thật hiếm có tác phẩm nào đưa đến cho ta vẻ đẹp của cảnh sắc
thiên nhiên vừa hết sức quyến rũ, vừa rất đỗi thân quen, có sức cuốn hút làm
say đắm lòng người như Thương nhớ Mười Hai. Tác phẩm thực sự là đỉnh cao
của tùy bút Vũ Bằng. Con người ấy đã nhúng bút vào bình nước mắt nhớ
thương để viết nên kiệt tác Thương nhớ Mười Hai, đó là tình cảm của người
con Hà Nội xa xứ như bị lưu đày luôn nhớ về quê mẹ.
Sức hấp dẫn và vẻ đẹp của tác phẩm còn được giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh khái quát: Tình yêu quê hương, đất nước ấy là linh hồn của những trang
viết hay nhất trong Thương nhớ Mười Hai. Bao hàm trong đó còn có truyền
thống của người dân Việt. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhìn thấy vẻ đẹp của cái tôi


17


tác giả thể hiện trên trang văn: Một con người ham chơi, hiếu động, sành sỏi
ẩm thực, nhưng chân thật, tinh tế tài hoa và rất có duyên. Anh yêu tha thiết
quê hương đất nước mình.
1.2. Thời gian nghệ thuật
1.2.1. Khái niệm thời gian
Thời gian là một phạm trù triết học, cùng với không gian là hình thức
tồn tại của vật chất, của thế giới. Không có sự vật hiện tượng nào tồn tại ngoài
nó, chỉ trong thời gian và không gian thì sự vật mới có tính xác định. Từ định
nghĩa trên chúng ta có thể thấy rằng thời gian là một phạm trù khoa học, là
hình thức tồn tại của thế giới vật chất, nhờ có thời gian mà thế giới vật chất
trở nên xác định và được xác định bởi thời gian, thế giới vật chất vận động,
biến đổi không ngừng.
Thời gian là cái gì đó hết sức trừu tượng. Như Nguyễn Thị Bích Hải
trong cuốn Thi pháp thơ Đường đã nhận xét: "Thời gian là một đại lượng để
xác định quá trình tồn tại, vận động, phát triển của mọi vật, mọi sự vật trong
thế giới". Vì vậy mà thời gian - cái bình thường ấy lại là cái mà mọi người
quan tâm. Khoa học và thực tiễn cho thấy có một thời gian vật lý tuyệt đối,
vận động khách quan không theo ý muốn của con người. Đó là thời gian diễn
ra từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày,... được đo bằng mặt trời, mắt
trăng, bằng đồng hồ. Mũi tên của thời gian cũng chỉ có một hướng tiến lên đó
là quá khứ - hiện tại - tương lai. Nhưng rồi chính khoa học buộc người ta phải
hủy bỏ ý tưởng về một thời gian tuyệt đối duy nhất và thời gian đã trở thành
một nhận thức cá nhân gắn liền với quan sát viên thực hiện phép đo. Như vậy,
thời gian là đối tượng nhận thức của con người. Nó là thời gian khách quan
được nhìn nhận qua lăng kính chủ quan của chúng ta trong từng điều kiện,
từng hoàn cảnh cụ thể.
1.2.2 Khái niệm thời gian nghệ thuật

Như chúng ta đã biết, không một vật chất nào có thể tồn tại ngoài thời
gian. Mọi dạng tồn tại của vật chất đều có thời gian riêng của mình. Ngoài thời

18


gian vật lý, thời gian lịch sử, còn có thời gian sinh vật, thời gian tâm lí. Nghệ
thuật là một dạng tồn tại đặc thù, nó cũng có thời gian riêng. Tác phẩm nghệ
thuật cũng tồn tại ở dạng vật chất và không có thời gian vật chất tác phẩm nghệ
thuật cũng không tồn tại được. Nhưng thời gian khách quan đó chưa phải là
thời gian nghệ thuật. Bởi qua tác phẩm, ta có thể trải qua một cuộc đời, một
ngày, trải qua nhiều thế hệ, hoặc quay về quá khứ, hay nhảy vượt tương lai,
hoặc sống ở cõi khác ngoài cõi trần. Vậy thời gian nghệ thuật là gì?
Một thời gian dài con người chỉ hiểu thời gian là khách quan, do đó
chưa ai nghĩ đến thời gian nghệ thuật. Vì vậy, khái niệm thời gian nghệ thuật
là một khái niệm rất mới của khoa học, được coi là một trong những thành tựu
nổi bật nhất của khoa học nghiên cứu văn học hiện đại. Quá trình hình thành
nên khái niệm cũng phải trải qua một thời gian dài trong lịch sử văn học.
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật, là thời gian có thể thể
nghiệm được trong tác phẩm với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm,
với chiều thời gian là hiện tại, quá khứ, tương lai. Thời gian nghệ thuật cũng
là một hình tượng nghệ thuật - sản phẩm sáng tạo của nhà văn. Đây là một
trong những phạm trù rất quan trọng của thi pháp học bởi lẽ nó thể hiện thực
chất sáng tạo nghệ thuật làm nên phong cách nhà văn.
Trước thế kỉ XX, trong Thi pháp học, người ta đề xướng nguyên tắc
"bắt chước tự nhiên" nên chưa ý thức được tính độc lập của thời gian nghệ
thuật. Chủ nghĩa Cổ điển Pháp với luật "tam duy nhất" đồng nhất thời gian cốt
truyện vào thời gian diễn xuất đã trói buộc nghệ thuật. Thế kỉ XVIII, nhà khai
sáng Đức Lessing phân biệt hội họa và thơ ở chỗ hội họa miêu tả các sự vật
trải ra trong không gian, còn thơ ca miêu tả những vật thay thế nhau trong

thời gian. Như vậy vẫn là sự tương đồng giữa văn học với các đối tượng và
chất liệu. Họ chưa thấy rõ thời gian nghệ thuật mang tính tâm lí. Việc phát
hiện tính thời gian của dòng ngôn từ đã mở ra triển vọng mới để khám phá
thời gian nghệ thuật.

19


Thời gian nghệ thuật thực sự được ý thức khi nhận thấy sự so le giữa
thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật, thời gian không đồng đều
trong các chương cũng như thời gian bị bỏ lửng giữa các chương tiểu thuyết.
Các nhà thi pháp học lịch sử như M. Bakhtin, Đ. X. Likhachép khái quát các
hình thức thời gian trong tiểu thuyết cổ và văn học trung đại thì thời gian nghệ
thuật mới được quan tâm nhiều hơn trong nhiên cứu văn học. Thời gian trong
văn học thế kỉ XIX cũng như các hình thức mới lạ của thời gian nghệ thuật
trong văn học thế kỉ XX là đề tài của các nhà nghiên cứu.
Chúng ta có thể hiểu thời gian nghệ thuật là yếu tố thuộc phương thức
tồn tại của thế giới, có cấu trúc riêng. Nó vừa là phương diện của đề tài vừa là
một trong những nguyên tắc cơ bản của tổ chức nghệ thuật. Thời gian nghệ
thuật là sự tập hợp nhiều thế giới cá biệt, những loại thời gian này tác động
vào nhau, liên hệ vào nhau thành sự vận động chung nhịp điệu của cuộc sống.
Thời gian qua văn học có thể bị khúc xạ qua tâm lí con người và gắn với quan
niệm, tư tưởng, nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Theo các nhà nghiên cứu như Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình
Sử trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng thời gian là "hình thức nội
tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó". Trong thế giới
nghệ thuật thời gian xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính tiền được giấu
kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm và cho thấy đặc điểm tư duy của tác
giả (nghĩa là tác giả quan tâm vấn đề thời gian để diễn tả cái gì...).
Là phương thức tồn tại của thế giới vật chất, thời gian cũng như không

gian đi vào nghệ thuật cùng với cuộc sống được phản ánh như một yếu tố của
nó. Nếu như mọi hiện tượng của thế giới khách quan khi đi vào nghệ thuật
được soi sáng bằng tư tưởng và tình cảm, được nhào nặn và sáng tạo trở thành
mọi hiện tượng nghệ thuật phù hợp với thế giới khách quan, phương pháp
sáng tác, phong cách truyền thống và thể loại nhất định thì thời gian trong tác

20


×