Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Con người và hiện thực đời sống trong tập truyện thành phố đi vắng của nguyễn thị thu huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.53 KB, 49 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------------------

NGUYỄN THỊ YẾN

CON NGƢỜI VÀ HIỆN THỰC ĐỜI
SỐNG TRONG TẬP TRUYỆN
THÀNH PHỐ ĐI VẮNG CỦA
NGUYỄN THỊ THU HUỆ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI- 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------------------

NGUYỄN THỊ YẾN

CON NGƢỜI VÀ HIỆN THỰC ĐỜI
SỐNG TRONG TẬP TRUYỆN
THÀNH PHỐ ĐI VẮNG
CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh

HÀ NỘI- 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, TS. Nguyễn Thị Tuyết
Minh - ngƣời đã quan tâm, động viên và tận tình hƣớng dẫn tôi trong quá
trình thực hiện khóa luận này.
Tôi chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Yến


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của cô
giáo - TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Tôi xin cam đoan:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Đề tài không trùng lặp với bất cứ một công trình có sẵn nào.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Yến



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 4
7. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
8. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN XUÔI ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM ........................ 6
1.1. Thể loại truyện ngắn trong đời sống văn xuôi đƣơng đại .......................... 6
1.2. Tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ và tập truyện Thành phố đi vắng ............... 8
1.2.1.Vài nét về tác giả ...................................................................................... 8
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác .................................................................................. 9
1.2.3.Tập truyện Thành phố đi vắng ............................................................... 11
CHƢƠNG 2: BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƢỜI
TRONG TẬP TRUYỆN THÀNH PHỐ ĐI VẮNG ......................................... 13
2.1. Bức tranh hiện thực đời sống ................................................................... 13
2.1.1. Đời sống thời toàn cầu hóa ................................................................... 14
2.1.2. Đời sống thời văn minh kỹ trị ............................................................... 19
2.2. Con ngƣời trong đời sống đƣơng đại ...................................................... 21
2.2.1. Con ngƣời với nhu cầu hƣởng thụ vật chất ........................................... 22
2.2.2. Con ngƣời vô cảm ................................................................................. 25


2.2.3.Con ngƣời với nguy cơ đánh mất giá trị truyền thống ........................... 31
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CON

NGƢỜI VÀ HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG TRONG THÀNH PHỐ ĐI VẮNG
......................................................................................................................... 34
3.1. Nhan đề giàu ý nghĩa biểu tƣợng ............................................................ 34
3.2. Ngôn ngữ đậm màu sắc văn hóa đƣơng đại ............................................. 36
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 37
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đề tài đô thị là một đề tài lớn của văn xuôi Việt Nam đƣơng đại nói
chung, truyện ngắn nói riêng. Trong cảm quan của nhiều ngƣời, đô thị hiện
đại có một sức hấp dẫn lớn, bởi đó là chốn phồn hoa, dân cƣ đông đúc, tốc độ
phát triển kinh tế nhanh, điều kiện sống cao hơn trong tƣơng quan với các khu
vực khác, là nơi có nhiều cơ hội thăng tiến… Nhiều truyện ngắn viết về bức
tranh đô thị hiện đại thật hào nhoáng, sang trọng, lịch lãm. Tuy nhiên, hình
ảnh đô thị trong truyện ngắn đƣơng đại còn có những góc khuất, nơi diễn ra
những xáo trộn dữ dội, những ngổn ngang bát nháo. Cuộc sống đô thị vừa là
biểu tƣợng của cái hiện đại, của văn minh công nghiệp, đầy cám dỗ vừa ẩn
chứa những đe dọa, với sự tha hóa nhân tính và nỗi mặc cảm… Cái nhìn đa
chiều của các nhà văn về bức tranh hiện thực cuộc sống đô thị cho bạn đọc có
cái nhìn chân thực và khách quan hơn về cuộc sống đô thị hiện đại phức tạp
ngày nay.
Văn học đô thị đƣợc hiểu là văn học phản ánh cuộc sống ở các đô thị từ
mọi góc độ cũng nhƣ mọi khía cạnh. Những cây bút lựa chọn đô thị làm chất
liệu sáng tác đƣợc cộng hƣởng từ sự hình thành một đội ngũ những ngƣời viết
trẻ mà đa phần trong số họ đều có thời gian sinh sống, học tập và làm việc ở
các đô thị. Bị quy định bởi vốn sống, môi trƣờng sống, sáng tác của các cây
bút trẻ thƣờng đi vào những vấn đề của đời sống đƣơng đại, về cuộc sống của

những ngƣời trẻ ở các đô thị hiện đại. Cũng chính bởi ý thức “đô thị mang
trong mình quá nhiều câu chuyện cần phải viết ra” mà đề tài đô thị thƣờng
đƣợc trở đi trở lại trong các sáng tác. Có nhiều con đƣờng để ngƣời viết đến
với đề tài đô thị: một phần là do vốn sống, sự trải nghiệm, sự hứng thú của
ngƣời viết và đôi lúc cũng rất ngẫu nhiên, đô thị lá cái phông, là nguyên cớ để

1


nhà văn xây dựng và truyền tải những thông điệp khác. Cũng cần phải nói
rằng, sự lựa chọn đề tài đô thị trong truyện ngắn một phần còn bị chi phối bởi
đối tƣợng và thị hiếu độc giả. Những tác giả viết về cuộc sống và con ngƣời
đô thị hiện đại dành đƣợc sự quan tâm của phần lớn độc giả.
Trong văn học đƣơng đại có những tác giả thành công khi viết về đô thị
nhƣ: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Danh Lam, Trần
Nhã Thụy... Và không thể không nhắc đến Nguyễn Thị Thu Huệ.
Là một gƣơng mặt tiêu biểu cho văn xuôi nữ sau Đổi mới, Nguyễn Thị
Thu Huệ ngay từ những truyện ngắn đầu tiên đã thu hút đƣợc sự chú ý của
độc giả. Trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ ngƣời đọc nhận thấy một
thế giới rất riêng tƣ của phụ nữ. Ở đó, tác giả xây dựng bức tranh cuộc sống
nhiều màu, nhiều vẻ, nhƣng mối quan tâm lớn nhất, trở thành tâm điểm hút
xoáy vẫn là phụ nữ với nỗi ám ảnh cô đơn và hành trình kiếm tìm hạnh phúc.
Cách đây khoảng mƣời năm, ngƣời ta gọi Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn
của thị dân - tức chị viết nhiều về đời sống của thị dân. Nối tiếp hành trình đó,
những vấn đề mới nhất mà tác giả Thu Huệ phản ánh gần đây, đó là vấn đề đô
thị hiện đại với những suy tƣ về tình ngƣời ngày càng cạn kiệt mà tiêu biểu là
tập truyện Thành phố đi vắng - Tập truyện dành giải nhất Hội Nhà văn Việt
Nam năm 2012 của chị.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Con người và hiện
thực đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ.

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp ngƣời viết có cái nhìn toàn diện
hơn về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Qua đó, thấy đƣợc tài năng và đóng
góp của nữ nhà văn đối với sự phát triển của văn xuôi đƣơng đại Việt Nam.
Đồng thời, đề tài cũng là tƣ liệu cần thiết cho tác giả khóa luận đối với việc
nghiên cứu, học tập và giảng dạy văn xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975.

2


2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Thị Thu Huệ không thuộc số nhà văn viết khỏe, vì thế, hơn 20
năm cầm bút, số lƣợng truyện ngắn của chị không nhiều. Tuy nhiên, so với
những cây bút cùng thế hệ, truyện ngắn của chị lại có những nét riêng, độc
đáo. Ngay từ những tập truyện đầu tiên, Thu Huệ đã đƣợc nhiều bạn đọc yêu
thích và nhiều nhà phê bình chú ý. Có thể kể tên một số công trình và bài viết
sau đây:
- Bùi Việt Thắng (1994), Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ,
Văn nghệ Quân đội (số 1). Trong công trình này, nhà nghiên cứu Bùi Việt
Thắng đã nhận xét về nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ:
“Nhân vật nữ của Thu Huệ thƣờng cô đơn, dƣờng nhƣ tác giả quan niệm đó là
mặt trái của tình yêu thƣơng” [17]. - Tác giả Hồ Phƣơng (1994) lại lƣu ý đến
vốn sống và sự trải nghiệm trong truyện ngắn của Thu Huệ khi nhận xét:
“Trong các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết sức sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc
nhiên lắm, sao còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi thế. Nó nhƣ con mụ phù thủy lão
luyện. Nó đi guốc trong bụng mình. Ruột gan mình có gì hình nhƣ nó cũng
biết cả” [16].
- Tác giả Hồ Sĩ Vịnh trong bài Thi pháp truyện ngắn của Nguyễn Thị
Thu Huệ, Báo Văn nghệ (số 35) năm 2002 nhận xét: Nguyễn Thị Thu Huệ là
nhà văn nữ “độc đáo và tài hoa”, ( Lời của Hồ Sĩ Vịnh) là một trong số những
tác giả đã gặt hái đƣợc rất nhiều những thành công khi tuổi đời đang còn rất

trẻ. Với cách viết nhƣ “lên đồng” (Chữ dùng của Đoàn Hƣơng), chị đã cho ra
đời những tác phẩm có giá trị và đƣợc bao bạn đọc yêu mến.[23]
Ngoài ra còn phải kể đến các bài viết nhƣ:
Nguyên Hƣơng, Nguyễn Thị Thu Huệ - Nhà văn của nồng ấm tình yêu,
Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Thị Thu Huệ:
Người tốt đang co ro, />
3


Nhìn chung, các bài nghiên cứu, bài báo ở trên quan tâm đến nhiều khía
cạnh khác nhau trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chủ yếu là tập
truyện của chị trƣớc đó của chị. Riêng tập truyện gần đây nhất của chị -Thành
phố đi vắng (Giải nhất Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012), đến nay vẫn chƣa
có bài viết nào tìm hiểu một cách hệ thống và chuyên sâu về nó. Tiếp thu gợi
ý của những nhà nghiên cứu đi trƣớc, đề tài của chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu:
Con người và hiện thực đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của
Nguyễn Thị Thu Huệ.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận tập trung làm rõ những phát hiện về con ngƣời và hiện thực
đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ. Từ
đó, thấy đƣợc đóng góp của nữ tác giả trong nền văn xuôi đƣơng đại dân tộc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Thấy đƣợc ƣu thế của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn xuôi
đƣơng đại.
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Tìm hiểu về con ngƣời và hiện thực đời sống trong tập truyện Thành
phố đi vắng.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là tập truyện Thành phố đi vắng
của Nguyễn Thị Thu Huệ, gồm 16 truyện, NXB Trẻ ấn hành năm 2012.

- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là đi sâu nghiên cứu về con người
và hiện thực đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị
Thu Huệ.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng chủ yếu các phƣơng pháp sau đây:
-Phƣơng pháp hệ thống.

4


- Phƣơng pháp so sánh.
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận là công trình khoa học đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống về
con người và hiện thực đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng của
Nguyễn Thị Thu Huệ. Thực hiện đề tài này, ngƣời viết sẽ có đƣợc những kinh
nghiệm nghiên cứu bổ ích đối với một sinh viên sắp tốt nghiệp. Đồng thời,
khóa luận cũng trở thành một tài liệu tham khảo hữu ích đối với nghiên cứu
và giảng dạy văn xuôi đƣơng đại Việt Nam.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
của khóa luận gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong đời sống văn xuôi
Việt Nam đƣơng đại
Chƣơng 2: Bức tranh hiện thực đời sống và con ngƣời trong tập truyện
Thành phố đi vắng
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật biểu hiện con ngƣời và hiện
thực đời sống trong tập truyện Thành phố đi vắng

5



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN XUÔI ĐƢƠNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Thể loại truyện ngắn trong đời sống văn xuôi đƣơng đại
Sau 1975, cùng với sự đổi mới đất nƣớc, văn học Việt Nam cũng có
những cách tân đáng kể ở cả phƣơng diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.
Văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn đạt đƣợc những thành tựu khởi sắc.
Truyện ngắn là “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện
ngắn bao trùm hầu hết các phƣơng diện của đời sống, đời tƣ, thế sự hay sử thi,
nhƣng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn đƣợc viết ra để tiếp thu liền
một mạch, đọc một hơi không nghỉ”[8]. Thực ra, nói độ ngắn, dài của một tác
phẩm không phải thƣớc đo giá trị văn chƣơng. Càng không thể nói rằng,
truyện càng ít chữ càng nông cạn và càng nhiều chữ là chứa đựng đƣợc nhiều
giá trị. Giá trị, hay chất lƣợng tác phẩm đôi khi không phụ thuộc vào số lƣợng
từ ngữ. Truyện ngắn với những yêu cầu khắt khe về thể loại: Ngắn gọn mà
hàm súc, chứa đựng một “sức nổ” nhân văn lớn. Truyện ngắn có khả năng
sống và chớp lấy sự thật nếu không quá chăm chú vào cái đặc biệt độc đáo nổi
lên nhƣ một hiện tƣợng đời sống. Sự thật ấy tiềm ẩn trong cái bình thƣờng,
trong những sự kiện hoàn toàn có thực bởi sự truyền ngôn chứ không phải là
truyền thuyết để đem lại cho loại truyện ngắn những con ngƣời thực sự và sự
thật về con ngƣời. Với ƣu thế về thể loại, truyện ngắn hàm chứa cái thú vị của
những điều sâu sắc trong một hình thức nhỏ, gọn, xinh xinh và đầy truyền
cảm, truyền dẫn cực nhanh những thông tin. Nhanh cũng là một thế mạnh để
truyện ngắn chinh phục độc giả đƣơng đại.

6



Văn học phản ánh hiện thực. Văn học nói chung và truyện ngắn nói
riêng thể hiện cuộc sống nhƣ một thực tại cùng thời và hấp thu vào bản
thân mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời. Trƣớc 1975, do tác động
của hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, truyện ngắn mang đặc trƣng “sử thi
hóa”. Truyện ngắn sau 1975, lại hàm chứa những nội dung chân thực về
cuộc sống và những mảnh đời đơn lập trong đó. Đối tƣợng phản ánh của
truyện ngắn sau 1975 bao gồm cả ánh sáng và bóng tối, cái tích cực và cái
tiêu cực. Các tác giả không né tránh cái xấu, cái ác, những vùng khuất tối
của đời sống nhân sinh hàng ngày. Quá trình công nghiệp hóa ngày nay,
một mặt, đời sống vật chất và tinh thần của con ngƣời không ngừng đƣợc
nâng cao, nhƣng mặt trái của nó là những nguy cơ đáng quan ngại: sự phân
hóa giàu- nghèo sâu sắc, những giá trị mới chƣa đƣợc khẳng định rõ ràng,
giới trẻ hoang mang, vỡ mộng, những tiêu cực tràn lan… Đã đến lúc cần
lƣu tâm đến tính toàn diện của bản chất ngƣời, tính đa dạng của quan hệ
ngƣời. Lúc này đây văn học chú tâm đến không chỉ là những con ngƣời mà
giai đoạn trƣớc phản ánh, truyện ngắn còn chú tâm đến con ngƣời tâm linh,
con ngƣời tự nhiên, con ngƣời cá thể và con ngƣời đời thƣờng – những
phƣơng diện và những quan hệ mà trƣớc đây do nhu cầu của đời sống thời
chiến không đƣợc chú ý một cách thích đáng. Mảng hiện thực ngổn ngang,
phức tạp của đời sống đƣợc truyện ngắn đƣơng đại phản ánh khá đầy đủ.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lật xới lên những mảng tối, những góc
khuất của cuộc đời và xã hội. Truyện ngắn của Y Ban lại xoáy sâu vào
những mâu thuẫn phức tạp giữa vợ chồng, con cái, chỉ ra những bất hạnh,
những nỗi đau mà con ngƣời phải gánh chịu. Những truyện ngắn gần đây
của Nguyễn Thị Thu Huệ đề cập nhiều đến cuộc sống của con ngƣời trong
đô thị hiện đại, với bao nghịch lí trớ trêu khi thành tựu khoa học kĩ thuật
đang tỷ lệ nghịch với đời sống tinh thần của con ngƣời, khiến con ngƣời trở

7



nên vô cảm, có nguy cơ đánh mất tình ngƣời… Không chỉ mở rộng khả
năng phản ánh hiện thực, truyện ngắn đƣơng đại còn dung nạp vào bản thân
nó những yếu tố hình thức nghệ thuật mới. Truyện ngắn hôm nay có sự
phối trộn giữa hƣ và thực, giữa cái huyền bí và đời thƣờng, cùng những
kiểu cấu trúc mới nhƣ liên văn bản, gián cách, trò chơi ngôn ngữ, nhại,
nghịch dị, huyền ảo… Nòng cốt thể loại truyện ngắn đƣơng đại cũng giãn
nở tối đa. Nó hấp thu chất văn xuôi của tiểu thuyết, chất trữ tình của thơ,
chất thoại của kịch, và thậm chí có cả chất báo chí, thời sự, phóng sự…
Truyện ngắn đƣơng đại đã bỏ qua những lối mòn quen thuộc mà tìm đến
một cách viết mới. Hiện tại, Hội Nhà văn Việt Nam có khoảng gần 1000
hội viên và trong đó, có nhiều nhà văn thành danh bằng truyện ngắn. Chính
lực lƣợng sáng tác truyện ngắn hùng hậu này góp phần quan trọng làm giàu
có và phong phú cho nền văn xuôi đƣơng đại nói riêng và nền văn học Việt
Nam nói chung.
1.2. Tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ và tập truyện Thành phố đi vắng
1.2.1. Vài nét về tác giả
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh năm 1966. Chị là một trong số ít nữ nhà văn
“tài - sắc vẹn toàn” của văn học Việt Nam đƣơng đại. Công chúng biết đến
Nguyễn Thị Thu Huệ với hai vai trò, vừa là nhà văn vừa là nhà biên kịch của
hãng phim truyền hình Việt Nam.Tác giả đã từng là Ủy viên thƣờng vụ Hội
Nhà văn Việt Nam khóa VIII. Hiện chị đang công tác tại Đài truyền hình Việt
Nam- Ban thƣ kí biên tập.
Nguyễn Thị Thu Huệ là con gái của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú và
nhà báo Nguyễn Ngọc Chánh. Nhƣ thế, Thu Huệ ngay từ nhỏ đã đƣợc sống
trong không khí “văn nghệ”, đƣợc thừa hƣởng độ thâm sâu rộng lớn của
ngƣời cha và chất văn nữ duyên dáng của ngƣời mẹ. Từ nhỏ chị đã có một tái
tim đa cảm và một cái nhìn tinh tế, tâm hồn ấy, trái tim ấy đƣợc nhen nhóm từ


8


thủa ấu thơ trong con ngƣời Thu Huệ. Những con ngƣời, những sự kiện,
những đổi thay trong cuộc đời mình đã thấm vào tâm hồn, kí ức, tƣ duy của
chị; rồi những kỉ niệm về ngƣời bố kính yêu hiện về trong những giấc mơ,
những buổi tâm sự với bố sau những giờ làm việc đã trở thành những ngọn
nguồn tƣ duy mang tính triết lí trong tác phẩm của chị. Hiểu Thu Huệ ta còn
thấy chị là một phụ nữ sắc sảo, mạnh mẽ, tự tin và thông minh, điều ấy ta thấy
rõ trong những trang viết của tác giả. Với công việc, chị luôn hết mình và nỗ
lực cao nhất. Là một ngƣời phụ nữ tài năng trong khiếu văn chƣơng, chị tâm
sự “dù viết kịch bản hay biên tập kịch bản của tác giả khác, tôi đều có thái độ
nghiêm túc nhƣ nhau”. Với vai trò là một ngƣời phụ nữ trong gia đình, Thu
Huệ luôn là ngƣời lo toan, chịu trách nhiệm từ chuyện to nhất đến những điều
bé nhỏ “trong gia đình, chăm một mẹ già và là bạn của hai con trai đã lớn,
ngoài việc lo đời sống vật chất đầy đủ thì mối quan hệ tinh thần rất quan
trọng”. Thu Huệ của gia đình và Thu Huệ của công việc luôn là một ngƣời
biết tận tâm, tận lực.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Thị Thu Huệ - Nhà văn có cái nhìn “ trách nhiệm” với cuộc
sống con ngƣời đã làm cho văn của Thu Huệ đậm chất đời, chất ngƣời – điều
khiến cho nhà văn Hồ Phƣơng phải ngạc nhiên: “Sao còn ít tuổi mà Huệ lại
lọc lõi thế. Nó nhƣ là một con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi guốc trong bụng
mình”. Am hiểu, tƣờng minh mọi ngõ ngách trong cuộc sống, đã làm nên nét
đặc sắc trong văn chị. Nguyễn Thị Thu Huệ tài năng trong nhiều lĩnh vực,
nhƣng có lẽ văn chƣơng là mảng mà chị đam mê, tâm huyết và gửi gắm vào
đó nhiều trăn trở, vui buồn nhất. Chính chị đã từng tâm sự rằng: “Với tôi, văn
chƣơng chƣa bao giờ là những điều thần bí, chỉ đơn giản đó là một phần của
cuộc sống mà những ai đã trót mang nặng kiếp ngƣời đều lấy đó để cất bớt đi
gánh nặng đã mang”. Có lẽ cái duyên văn chƣơng đã gắn với Thu Huệ ngay


9


từ thuở lọt lòng. Bằng chứng là cái tên Huệ của chị là do mẹ chị đặt theo tên
nhân vật chính trong cuốn Cô giáo Huệ của bà. Ngay khi còn ngồi trên ghế
nhà trƣờng, Nguyễn Thị Thu Huệ đã bộc lộ năng khiếu văn chƣơng nhƣng
chƣa bao giờ cô nghĩ sẽ là nhà văn. Vừa tốt nghiệp khoa Văn - Đại học tổng
hợp, cô giấu bố mẹ đăng hai truyện ngắn Mưa trái mùa và Mùa sấu rụng trên
Báo Văn nghệ, khiến văn đàn xôn xao một thời. Nhƣng con đƣờng trở thành
nhà văn bị ngắt quãng bởi đám cƣới sớm hơn dự định khi còn quá trẻ. Sau 2
năm ở nhà trông con, cô quyết định vào làm tại Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
với vai trò biên tập viên sân khấu. Cuộc sống nhàn hạ cứ thế trôi đi nếu nhƣ
không có một lần chị thấy mẹ mình buồn lắm. Cụ tủi thân vì thấy nhiều ngƣời
bằng tuổi con mình đã có tiếng tăm, con mình dƣờng nhƣ quên hẳn văn
chƣơng. Một phần vì mẹ, một phần vì huyết mạch văn chƣơng hình nhƣ vẫn
lặng lẽ bồi đắp tâm hồn nên chị viết nhƣ chạy đua với thời gian. Cứ mỗi buổi
chiều cơm nƣớc xong, chị đạp xe đến cơ quan, mƣợn chiếc máy đánh chữ và
lạch cạch gõ đến tận khuya. Kết quả của niềm đam mê và sự cố gắng đó là sự
ra đời của 5 truyện ngắn: Hậu thiên đường, Cõi mê, Phù thủy, Cát đợi đem đi
dự thi Tạp chí Văn nghệ, khiến Ban giám khảo không biết chọn tác phẩm nào
đạt giải nhất. Bắt đầu từ đây Nguyễn Thị Thu Huệ đã trở nên nổi bật và đƣợc
nhiều bạn đọc biết đến.
Cho đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ đã xuất bản 7 tập truyện ngắn: Cát
đợi(1993), Hậu thiên đường(1994), Phù thủy (1995), 21 truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ (2001), Nào, ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ (2004), Thành phố đi vắng (2012). Nguyễn Thị Thu Huệ đã vinh
dự nhận nhiều giải thƣởng nhƣ: Giải nhất Cuộc thi Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, Giải A Cuộc thi tiểu thuyết và truyện ngắn Hà Nội, Giải thƣởng Tác
phẩm Tuổi xanh của báo Tiền phong, Giải thƣởng của Hội Nhà văn với tác


10


phẩm Hậu thiên đường. Gần đây nhất, tập truyện ngắn Thành phố đi vắng đã
đƣợc trao Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012.
1.2.3.Tập truyện Thành phố đi vắng
Vắng mặt trên văn đàn trong khoảng thời gian khá lâu, kể từ tập Nào,
ta hãy cùng lãng quên và 37 truyện ngắn, ngỡ tƣởng nhà văn Nguyễn Thị Thu
Huệ dừng lại nghiệp văn chƣơng của mình để tập trung vào truyền thông ,
điện ảnh. Nhƣng đến khi Thành phố đi vắng(2012) đƣợc xuất bản, bạn đọc
mới hay sức sống văn chƣơng trong chị vẫn còn tràn đầy với bao điểm nhìn
mới khác. Thành phố đi vắng gồm 16 truyện ngắn mới nhất của Thu Huệ
đƣợc viết chủ yếu trong 2 năm 2009 - 2010.
Sống trong thời đại mới, đời sống của con ngƣời đƣợc năng cao, thành
quả của quá trình hiện đại hóa đã đáp ứng đƣợc những nhu cầu của con ngƣời.
Tuy vậy, ta luôn thấy những mặt trái sau những thành tựu. đó là một xã hội có
sự phân hóa các giai tầng một cách sâu sắc, những giá trị mới chƣa đƣợc
khẳng định. Giới trẻ hoang hoải, lạc loài, hoài nghi và vỡ mộng. Những tiêu
cực tràn lan trong mọi lĩnh vực đời sống… Đến với Thành phố đi vắng ngƣời
ta thấy sự đổi khác trong tƣ duy của một nhà văn nổi tiếng một thời xinh đẹp
và đa sầu, đa cảm. Nếu nhiều nhà văn nữ phản ánh hiện thực bằng những ẩn
dụ nhẹ nhàng thì Thu Huệ lại đem giọng văn sắc sảo và ngòi bút lạnh lùng để
phản ánh hiện thực. Đọc Thành phố đi vắng, ngƣời ta thấy ở đó những giá trị
cuộc sống bị đảo lộn, đời sống đô thị hiện đại với nhiều mặt trái, thật giả lẫn
lộn, con ngƣời không còn niềm tin vào nhau, sống vô cảm, lạnh lùng. Thời
đại toàn cầu hóa, thời văn minh kĩ trị đã và đang biến con ngƣời trở thành
những cỗ máy công nghiệp không còn nhịp đập của những trái tim ấm nóng.
Mỗi truyện trong Thành phố đi vắng đƣợc Nguyễn Thị Thu Huệ viết lại giống
nhƣ những thƣớc phim thực tế, cảnh quay rất rõ ràng, hình ảnh hiện lên với

những mảng màu tối, sáng không phân biệt đƣợc. Vẫn bút lực dồi dào, chi tiết

11


ngồn ngộn, tập truyện có thêm sự hấp dẫn trong bút pháp mới của nhà văn,
với nhiều yếu tố kinh dị, ma quái.
Mới đọc, cứ lầm tƣởng rằng đây là văn chƣơng của một ngƣời phẫn
uất, bất mãn trƣớc cuộc đời. Nhƣng đâu phải thế, đây là những câu chữ của
nhà văn nồng ấm tình yêu thƣơng, lạnh lùng từng câu chữ nhƣng xót xa tận
tâm can. Mỗi truyện trong Thành phố đi vắng không chỉ đơn giản là phơi
bày hiện thực mà còn rung lên hồi chuông cảnh tỉnh cho thế hệ trẻ hãy biết
sống yêu thƣơng, trân trọng, biết chia sẻ và tri nhận những giá trị quý giá
của con ngƣời.

12


CHƢƠNG 2
BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ
CON NGƢỜI TRONG TẬP TRUYỆN THÀNH PHỐ ĐI VẮNG
2.1. Bức tranh hiện thực đời sống
Văn học là tấm gƣơng phản chiếu đời sống xã hội, nhà văn là ngƣời thƣ
kí trung thành của thời đại. Nhƣ vậy, văn học gắn bó với chức năng phản ánh
hiện thực. Hiện thực của đất nƣớc hôm nay là những biểu hiện của một xã hội
đang vận hành trong cơ chế thị trƣờng, từng bƣớc hội nhập với thế giới, chính
vì vậy đời sống con ngƣời trở nên phong phú và phức tạp. Các nhà văn hôm
nay hƣớng vào mảng hiện thực ấy của xã hội. Nhà thơ Trần Nhuận Minh tâm
sự: “Hiện thực trong sáng tác của tôi là số phận của nhân dân Việt Nam trong
những va đập của thế cuộc, ở cả trong nƣớc và nƣớc ngoài, với đủ mọi biểu

hiện của đời sống mà tôi không hề né tránh, dù hiện thực đó có nghiệt ngã và
đau đớn đến đâu”. Tác giả Lê Anh Hoài nói: “Tôi quan tâm đến mảng đời
sống của văn nghệ sĩ, trí thức, vì tôi thấy thú vị, và dƣờng nhƣ từ đó, có thể
phóng chiếu ra nhiều hiện thực khác”. Còn nhà văn Đặng Thân lại cho rằng:
“Tôi nghĩ ai cũng phải đƣơng đầu với hiện thực bằng cách nào đó, mọi cuộc
trốn chạy đều vô nghĩa lý. Cái hiện thực đau buồn, u ám, tù đọng và cứng
nhắc không chỉ có ở quê hƣơng tôi, dân tộc tôi… Tôi đã đƣơng đầu với hiện
thực bằng cách bổ sung cho nó (hiện thực đời tôi) bằng một thế giới ý tƣởng
của mình”. Đó là kết quả của quá trình nhà văn tích lũy, trải nghiệm vốn sống,
là vốn kiến thức, là vốn văn hóa của một cá nhân. Hiện thực đƣợc bứt phá từ
chính trái tim đầy yêu thƣơng, nhiều khi đến ứa máu của các nhà văn, cho dù
hiện thực ấy là hạnh phúc hay cay đắng, u ám. Còn với nhà văn Nguyễn Thị
Thu Huệ, chị chia sẻ: “Bây giờ, đời sống của đám đông, của những thân phận
bị trồi lên tụt xuống quẫy đạp nhằm tồn tại trong những cơn sóng táp thẳng,
khiến tôi chao đảo, buồn bã và đau đớn. Và tôi đã kể những truyện qua lăng

13


kính của tôi, những ngày tháng này”. Và tập truyện Thành phố đi vắng của
Nguyễn Thị Thu Huệ đã tập trung phản ánh hiện thực đời sống thời toàn cầu
hóa, thời văn minh kỹ trị ngày nay.
2.1.1. Đời sống thời toàn cầu hóa
Trong những năm đất nƣớc mở cửa, hội nhập, giao lƣu quốc tế đa
chiều, các giá trị của toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới ngƣời Việt, tạo ra
những chuyển biến quan trọng trong lối sống của ngƣời Việt hôm nay. Những
giá trị phổ quát của văn minh nhân loại đang từng ngày, từng giờ thâm nhập
vào xã hội Việt Nam thông qua mạng Internet và truyền thông. Những vấn đề
của toàn cầu hóa đƣợc chọn lọc, đón nhận và tiếp cận tối đa bởi những con
ngƣời Việt Nam vốn thông minh, rộng mở và cầu thị. Chúng trang bị cho

ngƣời Việt những nhận thức mới và tầm nhìn mới. Tuy nhiên, nhìn nhận ở
một góc độ khác, bên cạnh những điểm tích cực mà toàn cầu hóa đem lại thì
không ít những điểm tiêu cực cũng tràn vào xã hội ta hiện nay. Đối diện với
bối cảnh xã hội nhƣ vậy, văn học đã nhạy bén phản ánh kịp thời và thể hiện
bằng nhiều chiều kích, thông qua cách nhìn của mỗi nhà văn. Nguyễn Thị Thu
Huệ là một nhà văn đã bắt nhịp và phản ánh kịp thời những biểu hiện của mặt
trái hiện thực đời sống đƣơng đại. Trong Thành phố đi vắng, mặt trái của toàn
cầu hóa đã tác động đến từ gia đình ra xã hội, gây ra bao đổ vỡ, thiếu hụt tình
yêu thƣơng cho con ngƣời. Một vị cán bộ ngoại giao giỏi, cả cuộc đời từng đi
khắp quốc gia này đến quốc gia khác, “cộng thời gian ông sống ở nhà chỉ
bằng 1/8 cuộc đời của ông… Ông hướng ngoại từ nhỏ, khi lấy vợ - Bà Mây,
vợ ông cũng phải hướng ngoại” (Sống gửi thác về). Công việc bề bộn khiến
ông không có thời gian chăm chút và quan tâm cho gia đình. Khi từ “bên kia
trái đất trở về”, nhà ngoại giao ấy đã không tìm đƣợc cách nói chuyện với
những ngƣời thân trong gia đình, không tìm đƣợc sự sẻ chia đối với con cháu,
tìm cách bù đắp nhƣng lại là cách bù đắp sai lầm. Một vị tiến sĩ tên Văn trong

14


truyện Coi như không biết thành công trong sự nghiệp “thưa đồng chí thứ
trưởng. Thưa đồng chí vụ trưởng... Thưa tất cả các đồng chí. Và hai tiếng ba
mươi phút sau. Vỗ tay rào rào…nghe thầy Văn bảo vệ luận án tầm cỡ quốc tế
nhưng may thế, làm ở Việt Nam nên bọn em có cơ hội tiếp cận… Chân thành
mừng. Chân thành chia sẻ. Chân thành ký để bản danh sách tiến sĩ toàn quốc
dài thêm một dòng”. Vợ anh cũng tài giỏi, suốt đời cô ấy sống và theo đuổi
những nghiên cứu khoa học, những hội thảo quốc tế về bảo vệ môi trƣờng.
Cuộc sống của họ rất hào nhoáng: “Complet. Tóc bóng keo trơn. Văn ngả
ngốn giữa những đồ ăn thức uống vợ chuẩn bị cho còn nguyên la liệt. Giữa
tiền đô. Tiền Việt. Giữa thẻ tín dụng. Sổ tiết kiệm. Giữa cơ man hoa tươi chúc

mừng tân giáo sư tiến sĩ”. Nhƣng đời sống gia đình của họ lại đầy thiếu hụt
và bất ổn. Chỉ khi ở bên ngƣời tình (cô cave),Văn mới cảm nhận đƣợc cuộc
sống thật giản dị với những tình cảm, những tâm sự thầm kín, còn khi về nhà
Văn lại khoác trên mình cái danh tiến sĩ. Câu nói của vợ Văn khi kết thúc
truyện khiến ngƣời đọc phải suy nghĩ: “Tại em bỏ anh đúng lúc anh cần em
nhất. Anh thành tiến sĩ rồi. Đúng là làm tiến sĩ thật tổn hại thần kinh đến tâm
thần thế này.Vợ bỗng cười nhạt tự mãn như thể trước mặt có rất đông tiến sĩ
rởm. Đấy. Mấy nghìn tiến sĩ bảo vệ xong có ai phát điên lên như thế này
đâu.Tiến sĩ thật thì phải khác chứ”.
Đọc truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ, ngƣời đọc cảm thấy xót xa vì quá
nhiều đắng cay, nào là tình cảnh trớ trêu của những gia đình ham mê khoa
học, những ngƣời mải mê tham vọng, chạy đua theo chức vị, những ngƣời
đàn ông tìm sự sẻ chia với những cô cave cho vơi bớt cô đơn. Nào là câu
chuyện gia đình đổ vỡ, những ông bố, bà mẹ mải mê chạy theo những cuộc
tình ngoài chồng ngoài vợ, khiến những đứa trẻ bơ vơ, đơn độc… Trong
truyện Của Cha, của Con, những cành vạn niên thanh, Thu Huệ đã không
ngần ngại phanh phui về những bất hạnh của một gia đình. Cuộc sống cảnh

15


“gà trống nuôi con” của một ngƣời đàn ông tƣởng có thể giữ mãi cái bí mật về
sự ra đi của ngƣời vợ. Nhƣng rồi khi đứa con lớn lên, nó đã biết sự thật: “Cha
đã phản bội Mẹ. Cha quan hệ với một người đàn bà khác. Đúng khi Mẹ đang
thành đạt nhất, cha chuẩn bị được thăng chức thì người đàn bà kia lại mang
tài liệu của cha và cô ta, cùng cái bụng bầu đến gặp Mẹ, đòi một số tiền lớn,
để cô ấy không tung tóe mọi chuyện ra. Cô ấy biết chờ đợi đúng lúc, xuất hiện
và ra đi với những gì cô ấy cần. Sau khi chuyển tiền hai trăm triệu, viết giấy
cam kết không gặp lại nhau vĩnh viễn, có người làm chứng, Mẹ nhận lại
những tấm ảnh, bức thư in từ hòm thư email, những cuộn băng ghi âm. Mẹ ra

đi vào buổi sáng”. Sự phản bội không thể tha thứ của ông bố đã làm tan vỡ
một gia đình lẽ ra đã rất hạnh phúc. Rồi ông bố, trong bận rộn mƣu sinh đã bỏ
quên con gái mỗi ngày. Vì phải chứng kiến thƣờng xuyên cảnh vợ chồng nhà
hàng xóm “yêu” nhau để rồi đứa con gái cũng sớm bƣớc chân vào cuộc
“khám phá” thế giới của ngƣời lớn. Chính vào lúc đứa con trƣợt ngã, ngƣời
cha vì cứu ngƣời mà nhận lấy những vết chém từ bọn giang hồ. Nỗi đau nào
lớn nhất trong cuộc đời của hai cha con hay tất cả cũng chỉ là những mảnh
ghép rời rã nhƣ cách ngƣời cha đã gắn lá giả cho những cành vạn niên thanh.
Những hiện tƣợng sống thử, cặp bồ, sống độc thân sau hôn nhân, hay “tự
do” trong hôn nhân đã không còn là hiện tƣợng xa lạ trong cuộc sống hiện đại.
Nguyễn Thị Thu Huệ không né tránh những hiện tƣợng đó trong sáng
tác của mình. Chúng ta cần phải suy nghĩ về chyện này là câu chuyện sống
thử của một cặp già nhân ngãi non vợ chồng: “Anh năm mươi ba.Hân bốn
mươi. Hai người đều chưa có gia đình con cái trước khi sống tám năm với
nhau. Anh cũng đã sống với vài cô trước khi gặp Hân. Hân cũng vậy. Mỗi
cuộc tình của anh hay Hân với ai đấy, thường kéo dài mấy năm. Dăm ba cuộc
như vậy, bây giờ là ngần này tuổi vẫn số không”. Sau mỗi chuyến đi công tác
của hai ngƣời, Hân lại đặt ra câu hỏi: “Chúng ta cần phải suy nghĩ về chuyện

16


này”. Rồi một năm, hai năm, ba năm, hai ngƣời gặp nhau, anh hỏi: “Sao ngày
ấy em lại bỏ anh”, cô trả lời: “Em không bỏ anh, em đi vì còn anh nữa đâu”.
Câu chuyện mà Thu Huệ nói đến ta có thể bắt gặp trong đời sống của những
cặp đôi trẻ ngày nay. Họ vừa yêu nhau đã xóa bỏ mọi khoảng cách, sống thử
với nhau nhƣ vợ chồng. Để rồi kết cục mỗi ngƣời mỗi ngả, ê chề và bẽ bàng.
Thu xếp cuối đời là câu chuyện về hai ngƣời đàn bà. Câu chuyện thật
buồn mà ta không khó để bắt gặp trong cuộc sống hôm nay. Một ông chồng
thì lƣời nhác, không lo làm ăn, một ông chồng thì suốt ngày cờ bạc khiến cả

hai ngƣời đàn bà ấy không còn thiết tha gì chuyện giữ “lửa” cho gia đình
mình. Hai ngƣời đàn bà đã thu xếp, định liệu sẵn cho phía cuối cuộc đời:
“Mai kia thằng Thắng nhà tao đi du học, con Tuyết nhà mày đi lấy chồng. Rồi
chúng nó cũng có đời sống riêng…Cứ nghĩ ngày bọn trẻ đi hết, mình già,
không ở với ai được. Bây giờ đã không thì sau này lại càng không.Càng nghĩ
càng thấy tao với mày sống là đủ”. Vậy là câu thành ngữ xƣa của cha ông:
“đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” đã không còn đƣợc lƣu giữ trong bao gia
đình hôm nay.
Truyện Cú mèo và rượu hoa lại phơi bày bao nghịch lí về tình yêu và
hôn nhân. Sau khi vợ chết, ông Nhân đến với Túy, không phải vì tình yêu hay
nhan sắc của cô mà chỉ đơn giản vì lí do là con ông cần có mẹ, ông cần có
thời gian vào thƣ viện làm việc của mình. Đƣợc vài tháng, Túy ngộ ra thân
phận của mình “tại sao lại bỏ ngày tháng của mình cho ông chồng nói hay,
làm dở và thằng nhóc mặt hằm hằm mẹ mẹ con con, có chui từ trong bụng
mình ra đâu mà mẹ với con thế này”. Và rồi Túy có bồ, ông Nhân phát hiện ra
nên bị tình nhân của Túy chém và từ đó ông Nhân suốt đời phải ngồi xe lăn.
Tiếng đay nghiến của Túy đối với ông Nhân: “ông lừa tôi, ông yêu thương gì
tôi đâu, lấy tôi về cốt để làm con ở nuôi con trông nhà cho ông. Đàn ông gì
mà đến sinh hoạt với vợ cũng phải theo lịch, đúng giờ. Đã vậy, còn đúng số

17


phút, dài hay ngắn hơn sách dạy đều phản khoa học, thế thì chó nó chịu được
chứ người không ai chịu được hết” cho ta thấy bao bất ổn của đời sống hôm
nay, nó luôn rình rập đe dọa cuộc sống của mỗi con ngƣời trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta.
Truyện của Thu Huệ còn tìm hiểu về thực tế cuộc sống với bao bất ổn
của lớp trẻ ngày nay. Với tay là đến là câu chuyện kể về chàng sinh viên đại
học tên Đại Dƣơng. Bố mẹ cố gắng cho Dƣơng đi học, đặt bao niềm hi vọng

vào con. Nhƣng Dƣơng sa đọa, lao vào rƣợu và thuốc phiện, để rồi cậu ta
chạy trốn khỏi gia đình, trƣợt dài trên con đƣờng tha hóa. Rõ ràng, cha ông
thuở trƣớc nghèo khổ về vật chất nhƣng cuộc sống rất bình yên. Còn hôm
nay, đời sống vật chất đầy đủ hơn nhƣng con ngƣời lại mất đi sự bình yên,
mất sự an toàn ở mọi nơi mọi lúc. Cô gái Trong lúc ăn một bát phở gia truyền
muốn thƣởng cho mình những giây phút yên bình khi thƣởng thức hƣơng phở
và hƣơng cà phê. Nhƣng chỉ một nơi bình yên không có cƣớp ấy là “góc
phòng 12 mét vuông, không của sổ” của chính mình. Cô gái này nhất quyết
không chịu đi bệnh viện, vì “vào viện cho bọn bác sĩ dọa khôn dọa dại lấy
tiền. Có ai vào viện mà không moi một đống bệnh?Không vào cũng dễ mà
chết chắc?Luyến một tấc không đi, một li không rời cái tổ chim câu của
mình” (Sống gửi thác về). Truyện Chúng ta cần phải suy nghĩ về việc này,
nhân vật Hân nói: thời buổi này cứ hở ra cái gì là sẽ biến mất, “Hôm qua, hai
đứa thanh niên đi vu vơ qua cửa hàng bán ga. Thấy không ai trông hàng, một
đứa nhảy vào ôm một bình ga rồi nhảy lên xe đứa kia chở đi. Cả ga lẫn bình
chỉ ba trăm ngàn. Thế là xã hội có thêm hai thằng ăn cướp… Anh có thấy
hiếm khi nào phụ nữ ra đường đeo dây chuyền, hoa tai và túi như ngày xưa.
Hở ra là bị giật ngay… Mấy cái bóng đèn cao áp, cột đèn vừa bé vừa trơn,
thế mà chúng nó cũng trèo lên tháo được. Hôm qua, bọn đồng nát cắt hết dây
thép gai nhà bà bún riêu…”

18


Xã hội tiêu dùng, vật chất lên ngôi, đồng tiền ngày càng có vị thế,
“Tiền là tiên, là phật”. Tiền có thể khiến ngƣời cha cảm thấy tâm thế thanh
nhàn, giải quyết đƣợc biết bao day dứt ở trong lòng, khi “vứt” cho đứa con gái
10 nghìn USD (vị chi là 180 triệu tiền Việt Nam đồng). “Đúng là không gì
xoa dịu vết thương tinh thần nhanh bằng một nắm tiền. Ông quên phắt ngay
lũ người thân ít ỏi lâu nay làm nặng lòng, tay trong tay nhân tình trẻ người

Pháp, chu du khắp đó đây. Hóa ra, coi như tao chết rồi hay lũ chúng mày
chết rồi không ổn, mà tao nợ chúng mày một tội, là hồn nhiên cho chúng mày
có mặt trên đời mà không kiểm soát. Giờ, tao trả lại ít tiền, mày tự giải quyết
cái đời mày thích.Thế là tao hết nợ” (Sống gửi thác về). Có đôi khi vì tiền con
ngƣời bất chấp tất cả bán đi cả những thứ mà gắn bó với bao thế hệ của gia
đình. Minh chứng cho điều ấy, Thu Huệ qua truyện Không thể kết thúc, nhân
vật ngƣời bác dâu cả trong truyện lại có thể đem bán và tráo đổi đồ cổ của gia
đình cũng chỉ vì những đồng tiền.
Thu Huệ viết về vấn đề toàn cầu hóa bằng chính sự “thực nghiệm” của
mình, phía sau hào quang của những giá trị tiên tiến là chính những yếu điểm
của bản thân nó. Có thể nói, Nguyễn Thị Thu Huệ đã phanh phui mọi ung
nhọt của hiện thực đời sống hôm nay trong mỗi trang văn của mình.
2.1.2. Đời sống thời văn minh kỹ trị
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ
khiến máy móc đang dần thay thế cho những công việc của con ngƣời. Đây
chính là cơ sở tạo lối sống hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, cũng
xuất hiện không ít nguy cơ mà đáng sợ nhất là con ngƣời cũng trở thành máy
móc, lạnh lùng, vô cảm. Trong truyện của Thu Huệ con ngƣời sống trong ánh
hào quang của nền văn minh kỹ trị, bị vây bọc bởi các thiết bị công nghệ số,
Intenet và truyền thông: “Có ba tivi treo tường chính trung tâm sảnh, ai đến
cũng đi qua. Hai tivi truyền trực tiếp Chung kết Cuộc thi Duyên dáng Quý

19


×