Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản nghệ an giai đoạn 2006-2010.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.96 KB, 34 trang )

ĐỀ ÁN
PHÁT TRIỂN CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN NGHỆ AN
GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
( Ban hành kèm theo Quyết định số: 82 /2006/ QĐ - UBND
ngày 22 tháng 8 năm 2006 của UBND tỉnh Nghệ An )
MỞ ĐẦU
Nền kinh tế của Việt Nam nói chung, kinh tế thủy sản nói riêng đang trong
quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây cũng là cơ hội rất lớn
cho hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu ra thị trường thế giới. Thị trường xuất khẩu
ngày càng được mở rộng, hàng thủy sản Việt nam tham gia vào một sân chơi bình
đẳng hơn. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt Ngành thuỷ sản trước những thách thức
không nhỏ phải cạnh tranh gay gắt, các hàng rào thương mại như các quy định về an
toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe, các vụ kiện chống bán phá giá dễ xẩy ra
hơn do chính sách bảo hộ của các nước lớn.
Trước bối cảnh đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An có Nghị quyết 01/ NQ -
TU ngày 26/12/2005 về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, trong đó có Đề án Phát triển Chế biến và xuất khẩu
thủy sản thuộc chương trình phát triển kinh tế biển và ven biển.
Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu về phát triển kinh tế thủy sản mà Nghị
quyết đề ra cần có chương trình phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản tới năm
2010 phù hợp với thực tiễn phát triển của Ngành trong thời kỳ mới nhằm đảm bảo sự
phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản gắn với khả năng và nguồn cung cấp
nguyên liệu, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ
sinh thực phẩm và thị hiếu của các thị trường, đưa sản xuất kinh doanh phát triển
một cách có hiệu quả và bền vững.
Những căn cứ để xây dựng đề án:
- Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2006-
2010;
- Nghị quyết số 01/NQ-TU ngày 26/ 12/ 2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Nghệ An khóa XVI, về chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI;


- Quyết định số 436/ QĐ-UBND ngày 03/ 02/ 2006 của UBND tỉnh Nghệ An
về việc ban hành kế hoạch triển khai các chương trình, đề án trọng điểm thực hiện
Nghị quyết 01/ NQ-TU của ban thường vụ Tỉnh ủy khóa XVI;
- Kế hoạch phát triển kinh tế thủy sản Nghệ An giai đoạn 2006-2010 của
Ngành Thủy sản Nghệ An.
1
Bản đề án này bao gồm các nội dung chính sau:
Phần I: THỰC TRẠNG VỀ SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN XUẤT KHẨU
THỦY SẢN NGHỆ AN HIỆN NAY.
Phần II: MỤC TIÊU VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHẾ BIẾN
VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN ĐẾN 2010 .
Phần III: TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHẦN I
THỰC TRẠNG VỀ SẢN XUẤT CHẾ BIẾN, XUẤT KHẨU
THỦY SẢN CỦA NGHỆ AN HIỆN NAY
A. THỰC TRẠNG
I. TÌNH HÌNH CUNG CẤP NGUYÊN LIỆU THỦY SẢN PHỤC VỤ CB-
XK HIỆN NAY
Nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến sản phẩm thủy sản trong những
năm gần đây ở tỉnh ta được lấy từ khai thác, nuôi trồng. Tỷ trọng nguyên liệu đưa
vào chế biến còn thấp (Nằm trong khoảng từ 37%- 49 % của sản lượng khai thác
được); Nghề nuôi tôm của tỉnh ta chỉ có một vụ, thời gian thu hoạch ngắn; Vì vậy,
dù sản lượng khai thác và nuôi trồng trong tỉnh hàng năm tương đối lớn, nhưng do
cơ cấu, mùa vụ chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất nên nhiều doanh nghiệp còn phải
mua thêm nguyên liệu từ các tỉnh bạn.
1. Hiện trạng cung cấp nguyên liệu từ NTTS.
Được sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước thông qua chương trình phát triển
nuôi trồng thuỷ sản nên nghề nuôi trồng thuỷ sản có sự phát triển vượt bậc về mọi
mặt, đối tượng nuôi ngày một đa dạng; diện tích, năng suất nuôi trồng thủy sản
không ngừng tăng lên qua các năm. Tốc độ tăng trưởng sản lượng nuôi trồng trong

những năm gần đây khá cao (bình quân hàng năm giai đoạn 2000 - 2005 đạt 17,3
%/năm), trong đó nổi bật là sự phát triển vượt bậc của nghề nuôi tôm Sú. (Xem phụ
lục 1: Kết quả đạt được của nghề nuôi thủy sản giai đoạn 2001-2005).
Năm 2005, sản lượng thủy sản nuôi đạt 18.000 tấn. Trong đó tập trung vào phát
triển nuôi các đối tượng có giá trị xuất khẩu và có khả năng về thị trường như: tôm
sú, cá rô phi đơn tính, cá giò.....Cụ thể:
1.1. Nhóm sản phẩm tôm:
Tôm sú là đối tượng nuôi chủ lực phục vụ xuất khẩu và nghề nuôi tôm sú phát
triển rất nhanh. Tính đến năm 2005 diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh (
TC&BTC) là 800 ha, sản lượng đạt 1.500 tấn. Năng suất nuôi tôm bình quân toàn
tỉnh đạt gần 1tấn/ha; năng suất tôm thâm canh đạt 1,9 tấn/ha.
2
Tôm thẻ chân trắng đã du nhập vào nuôi trong tỉnh nhưng mới ở mức khảo
nghiệm, do vậy loài tôm này chưa có sản luợng cung cấp cho chế biến xuất khẩu
(CBXK).
1.2. Nhóm cá nước mặn:
Đã bước đầu quan tâm nhưng sản lượng chưa nhiều, chủ yếu tiêu thụ nội địa.
Đối tượng nuôi chủ yếu là cá giò, cá mú, cá vược..vv. Năm 2005 có 30 lồng nuôi
biển nhưng do ảnh hưởng của thiên tai (Bão lụt) nên phong trào nuôi biển phát triển
chưa mạnh, chưa tương xứng với tiềm năng. Theo số liệu điều tra, diện tích có khả
năng nuôi biển 1.300ha vì vậy nó có thể được xem là nguồn cung cấp nguyên liệu
cho chế biến và xuất khẩu. Hiện nay tỉnh ta đang có chủ trương quan tâm khôi phục
và phát triển nghề nuôi này.
1.3. Nhóm nhuyễn thể:
Đối tượng nuôi hiện nay trong tỉnh ta chủ yếu là ngao. Năm 2005, diện tích
nuôi ngao gần 100 ha, năng suất bình quân đạt 14 tấn/ha.
Tuy nhiên nghề nuôi ngao vẫn trong tình trạng nuôi quảng canh, nhỏ lẻ, dựa
vào nguồn giống tự nhiên là chính. Sản phẩm chủ yếu tiêu thụ nội địa.
1.4. Cá rô phi đơn tính:
Cá rô phi đơn tính là đối tượng nuôi nước ngọt có tiềm năng phục vụ xuất

khẩu. Từ năm 2003 tỉnh đã triển khai chương trình phát triển nuôi cá rô phi. Năm
2005, sản lượng cá rô phi xuất khẩu đạt 2.500 tấn tăng 277,7% so năm 2003. Tuy
nhiên do kích cỡ cá nuôi nhỏ không đáp ứng yêu cầu của chế biến, xuất khẩu. Vì vậy
chỉ dùng cho tiêu thụ nội địa.
1.5. Nhóm sản phẩm cua:
Nghề nuôi cua đang được phát triển, nhưng mới chỉ ở quy mô nhỏ tại các
huyện thị ven biển. Sản phẩm chủ yếu xuất sang thị trường Trung Quốc theo đường
tiểu ngạch và tiêu thụ nội địa. Hiện nay chúng ta đã sản xuất nhân tạo được giống
cua là điều kiện thuận lợi cho việc nuôi cua thương phẩm.
Ghẹ biển là sản phẩm có thị trường tiêu thụ rộng, nhưng sản lượng khai thác
còn hạn chế; trong khi ta chưa chủ động được giống và công nghệ nuôi nên chưa
kích thích nghề nuôi ghẹ phát triển.
2. Hiện trạng cung cấp nguyên liệu từ khai thác
( Xem phụ lục2: Kết quả đạt được của nghề khai thác thủy sản giai đoạn 2001-
2005).
Đội tàu khai thác thuỷ sản của toàn tỉnh từ năm 2001 đến nay mặc dù có sự
thay đổi đáng kể về số lượng và công suất máy. Cơ cấu đội tàu phát triển theo hướng
giảm dần loại tàu thuyền có công suất nhỏ dưới 20 CV và tăng dần loại tàu có công
suất từ 50 CV trở lên để khai thác có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nghề khai thác chủ
yếu đang ở ven bờ, công nghệ khai thác còn chậm đổi mới; Số lượng tàu to máy lớn
tham gia đánh cá xa bờ không nhiều, hiệu quả khai thác còn thấp. Năm 2005 số
lượng tàu thuyền có công suất trên 90 CV khai thác vùng khơi mới chỉ có 275 chiếc,
chiếm 8,5% số lượng tàu thuyền hiện có.
3
Nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, đặc biệt 5 năm gần đây; Nhiều chủng
loại nguyên liệu có giá trị xuất khẩu cao như tôm he, cá nhỡ, ốc hương... rất khan
hiếm. Chỉ tính riêng tôm he ở vùng vịnh Diễn Châu trước đây cung cấp hàng trăm
tấn mỗi năm nhưng hiện nay trữ lượng loài tôm này quá ít ỏi.
Sản lượng khai thác hải sản tăng không nhiều qua các năm (Năm 2001 sản
lượng khai thác đạt 30.000 tấn, đến năm 2005 đạt 37.000 tấn, chỉ tăng bình quân 6%/

năm), chủ yếu bán tươi, chế biến nội địa; cung cấp cho chế biến hàng xuất khẩu còn
ít.
Hiện nay, bằng việc hướng dẫn và phối hợp giữa chế biến, xuất khẩu với khai
thác hải sản, ngư dân đã chuyển dần từ việc khai thác theo số lượng sang những đối
tượng có giá trị xuất khẩu. Trong đó phải kể đến việc chuyển hướng sang nghề chụp
mực, rê mực, nghề câu cá hố... Trước tác động của giá nhiên liệu liên tục tăng trong
thời gian qua, nhiều tàu thuyền đã chuyển nghề khai thác tốn ít nhiên liệu và lựa
chọn đối tượng khai thác chất lượng cao và có giá trị xuất khẩu.
Nhiều loại cá trước đây không xuất khẩu được nay nhờ có thị trường và đổi
mới công nghệ chế biến, đổi mới quản lý an toàn vệ sinh mà trở thành đối tượng
khai thác có hiệu quả như: Cá hố, cá Bánh đường, cá Lưỡng còm và các loại cá tạp
thịt trắng khác ...
3. Bảo quản sau thu hoạch
- Vấn đề bảo quản sau thu hoạch đã ngày càng được quan tâm, nhất là đối với
các loại hải sản có giá trị xuất khẩu. Nhiều nơi ngư dân đã đầu tư trang bị dụng cụ
bảo quản lạnh trên tàu khai thác hải sản xa bờ nhằm mục đích giữ tươi nguyên liệu
khai thác được trong từng chuyến biển. Dịch vụ hậu cần nghề cá cũng phát triển,
nhiều cơ sở sản xuất đá lạnh được xây dựng cung cấp hảng nghìn tấn đá lạnh hàng
năm, cơ bản đáp ứng nhu cầu về bảo quản nguyên liệu của tàu khai thác. Tỷ trọng
sản phẩm xuất khẩu trong sản lượng khai thác đã tăng từ 6% năm 2001 lên 10% năm
2005. Tuy nhiên, ngoài các chủng loại nguyên liệu dùng để chế biến nước mắm và
các loại mắm khác được bảo quản bằng muối thì hầu hết các tàu thuyền đánh cá đều
dùng nước đá xay nhỏ để bảo quản sản phẩm, chưa có hệ thống thiết bị bảo quản
lạnh hiện đại trên tàu nên thời gian bảo quản ngắn, chất lượng nguyên liệu còn hạn
chế. Điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được chú trọng nên tác động
không nhỏ đến chất lượng nguyên liệu.
- Nguyên liệu thủy sản đến nhà máy chế biến qua hệ thống các đại lý thu gom
trung gian nhiều nấc, nên ảnh hưởng không tốt đến chất lượng và yêu cầu về an toàn
vệ sinh thực phẩm. Mặc dù đã được các cơ quan chức năng tuyên truyền, kiểm tra
giám sát nhưng hiện tượng ngâm nước, dùng các hóa chất và phụ gia bảo quản

không đúng quy định làm ảnh hưởng đến chất lượng nguyên vẫn còn.Vì vậy, công
tác bảo quản sau thu hoạch cần được quan tâm hơn nữa, nhất là đối với các loại sản
phẩm có giá trị kinh tế cao.
II. VỀ CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN
4
1. Về chế biến nôi địa
Các cơ sở chế biến nội địa không ngừng được đầu tư phát triển cả ở các HTX
lẫn tư nhân. Hiện tại có 03 công ty Cổ phần thủy sản, gần 50 cơ sở chế biến tư nhân
và nhiều doanh nghiệp tư nhân. Đã đầu tư mới và đưa vào hoạt động 4 cơ sở chế
biến bột cá, với tổng công suất 4.000 tấn sản phẩm/năm (tương đương với 16.000
tấn nguyên liệu). Nghề chế biến thuỷ sản truyền thống được khôi phục và phát triển
với chất lượng, mẫu mã ngày càng đẹp như nước mắm cao đạm, mắm tôm, mắm
nêm, … Năm 2005 sản xuất được 15 triệu lít nước mắm; mắm các loại đạt 4.500 tấn;
bột cá đạt 1.500 tấn; sản phẩm khô (mực khô, cá khô, ruốc khô) đạt hàng nghìn tấn.
Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm mới được chuyển giao công nghệ đưa vào sản
xuất được thị trường chấp nhận như cá tẩm gia vị, mắm tôm chua nguyên con, cá
hấp sấy ăn liền, chả cá, … Đặc biệt với sản phẩm cá phi lê sấy tẩm gia vị đã làm cho
nguyên liệu cá khai thác tăng giá trị từ 500 đồng/kg năm 1999 lên 2.500 đồng/kg
năm 2003. Ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân làm ăn có hiệu quả và đầu tư lớn
trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản.
Tuy nhiên các cơ sở chế biến chủ yếu dựa vào sức mình là chính, chưa có sự
quan tâm đầu tư đúng mức của nhà nước về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh.
2.Về chế biến xuất khẩu
Ngành chế biến thủy sản ngày càng được nâng cao về công suất và trình độ
công nghệ. Hiện nay có 02 công ty chế biến xuất khẩu thủy sản: công ty Xuất nhập
khẩu thuỷ sản Nghệ An, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản nghệ An II. Ngoài ra còn
nhiều cơ sở tư nhân ở các huyện thị ven biển tham gia hoạt động xuất khẩu theo
đường tiểu nghạch.
- Tổng sản phẩm xuất khẩu năm 2005 đạt 3.350 tấn, tăng 59,5% so với năm
2001.

- Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 16 triệu USD; Trong đó xuất chính ngạch
chiếm 5%; xuất tiểu ngạch đạt chiếm 95%.( Xem phụ lục 3: Kết quả đạt được của
nghành chế biến và xuất khẩu thủy sản giai đoạn 2001-2005).
Các cơ sở chế biến đã từng bước được nâng cấp, mở rộng và đầu tư theo chiều
sâu, làm đa dạng hóa sản phẩm, gia tăng tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao, đảm bảo
chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm.
Nhà máy chế biến 38A đã được nâng cấp hoàn thiện, trang thiết bị tương đối
hiện đại cho phép sản xuất các sản phẩm đông lạnh chất lượng cao.Trước đây chủ
yếu sử dụng công nghệ đông tiếp xúc, tạo sản phẩm block với thời gian cấp đông
kéo dài từ 4-6h/mẻ, nay cơ sở đã nâng cấp và đầu tư mới dây chuyền IQF làm đông
nhanh với thời gian chỉ còn dưới 2h/mẻ. Đã áp dụng chương trình quản lý chất lượng
theo HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu hàng vào thị trường EU, Mỹ và các thị trường
khó tính khác.
Nhà máy 38B thuộc Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Nghệ An II bước đầu đã
được đầu tư để từng bước cải tiến, nâng cấp đồng bộ nhằm đảm bảo sản xuất ra sản
phẩm có chất lượng tốt. Nhà máy đang áp dụng chương trình quản lý chất lượng
5
theo HACCP, cố gắng phấn đấu đủ điều kiện được cấp Code xuất khẩu vào thị
trường EU.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chính ngạch trong thời gian gần đây
chững lại, nguyên nhân chủ yếu là máy móc thiết bị, nhà xưởng của các công ty chế
biến xuất nhập khẩu chưa được cải tiến, nâng cấp đồng bộ, nguồn tài chính eo hẹp,
năng lực cán bộ còn hạn chế; khả năng tiếp cận thị trường, trình độ công nhân còn
thấp. Bên cạnh do đặc thù về điều kiện tự nhiên và tính mùa vụ rõ rệt trong khai
thác, nuôi thủy sản nên tình trạng thiếu hụt nguyên liệu thường xuyên xảy ra. Do đó
vài năm gần đây các doanh nghiệp này làm ăn sa sút, làm mất đi vị thế đầu đàn của
mình.
Nhiều cơ sở chế biến tư nhân mới ra đời như Công ty Phương Mai và nhiều
hộ dân khác đã tham gia thu mua, chế biến nội địa và xuất khẩu tiểu nghạch. Cơ cấu
sản phẩm chế biến ngày một đa dạng và phong phú hơn. Nhiều mặt hàng mới đã

xuất hiện đáp ứng các yêu cầu tiêu dùng ở các thị trường khác nhau, trong đó thị
trường trong nước và thị trường Trung quốc chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng tươi
sống như cua, ghẹ, nhuyễn thể cũng tăng lên đáng kể. Sản xuất hàng khô của các cơ
sở này chưa được quan tâm, chưa có điều kiện đổi mới công nghệ sản xuất, do vậy
sản phẩm có tính cạnh tranh chưa cao.
3. Về phát triển thị trường
Những kết quả đạt được trong chế biến xuất khẩu thủy sản những năm qua
không thể tách rời với việc tập trung chỉ đạo công tác phát triển thị trường. Các cơ
sở dần chuyển từ bán hàng và tiếp thị thụ động sang bán hàng và tiếp thị chủ động.
a. Thị trường nội địa:
Trong những năm gần đây các sản phẩm chế biến thuỷ sản của các đơn vị
không những cung cấp cho thị trường trong tỉnh mà còn cung cấp cho các tỉnh lân
cận cũng như khu vực miền Bắc, như sản phẩm nước mắm đã có mặt ở các thị
trường Hà Nội, Hải Phòng.....vv. Một số sản phẩm đã giải quyết được nhu cầu thị
trường trong tỉnh như: Ruốc, mắm chua, cá tẩm gia vị....trước đây chủ yếu nhập từ
các tỉnh phía Nam ra.
Nhìn chung các cơ sở đã bước đầu chú trọng đến chất lượng sản phẩm, mẫu
mã bao bì kích thích thị hiếu người tiêu dùng, cũng như xây dựng thương hiệu cho
sản phẩm như thương hiệu nước mắm Vạn Phần, nước mắm Cửa Hội... Tham gia
các hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao nhằm quảng bá sản phẩm của mình.
b. Thị trường xuất khẩu:
Hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt tại 105 nước và vùng lãnh thổ, trong đó
các thị trường lớn như Nhật bản, Mỹ, EU chiếm thị phần quan trọng.
Xuất khẩu thủy sản Nghệ An cuối những năm 90 của thế kỷ 20 cùng trong xu
thế chung ấy. Vào thời điểm đó, Công ty XNK thủy sản Nghệ An đã có Code EU và
có hàng hóa thâm nhập vào các thị trường EU, Mỹ, Nhật bản, Hàn quốc, Arập -
Sêut...với kim ngạch xuất khẩu tăng hàng năm.
6
Những năm gần đây, do khó khăn nhiều mặt các công ty XNK thủy sản Nghệ
An chỉ còn là các cơ sở gia công, xuất ủy thác cho các đơn vị lớn trong nước nên vấn

đề thị trường nước ngoài không được quan tâm đúng mức.
Riêng hàng thủy sản tươi sống; hàng thủy sản khô ở thị trường Trung quốc
vẫn được duy trì và phát triển.
4. Về thu hút lao động:
Trong những năm qua ngành chế biến đã thu hút được khá đông số lượng lao
động ở các địa phương, đặc biệt là ở các địa phương vùng biển. Tuy nhiên chất
lượng lao động nhìn chung còn quá thấp. Lao động phổ thông chiếm tỷ lệ trên 95%
tổng lao động thuỷ sản của toàn tỉnh; Lao động có trình độ từ trung cấp, cao đẳng,
đại học chiếm tỷ lệ thấp (dưới 5%), đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao
chiếm tỷ lệ không nhiều trong tổng số lao động làm việc trong ngành chế biến thuỷ
sản, do đó hạn chế đến khả năng tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ chế biến,
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị.
III. VỀ ĐÀO TẠO.
Thời gian qua NAFIQAVED, VASEP đã thường xuyên tổ chức các khóa đào
tạo về GMP, SSOP, HACCP... cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng
sản phẩm cho hai công ty XNK thủy sản.
Các công ty CBXK đã tự tổ chức đào tạo về kiến thức an toàn vệ sinh thực
phẩm, quy trình công nghệ mới nhằm nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân.
Trung tâm Khuyến ngư hàng năm đã tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật chế
biến thủy sản, về kiến thức ATVSTPcho các cơ sở thu mua, chế biến thủy sản tư
nhân và hộ dân.
Tuy nhiên, nhìn chung công tác đào tạo còn chưa đáp ứng được yêu cầu đòi
hỏi ngày càng cao phục vụ cho nâng cao năng lực hội nhập đẩy nhanh tốc độ phát
triển chế biến và xuất khẩu thủy sản. Việc đào tạo cán bộ quản lý chất lượng
ATVSTP một cách bài bản cũng mới chỉ dừng ở các công ty XNK thủy sản; các
công ty CBTS nội địa chưa được quan tâm nhiều.
IV. VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
Ngoài các hoạt động khoa học từ nguồn kinh phí nhà nước, các doanh nghiệp đã
đầu tư đổi mới công nghệ áp dụng kỹ thuật mới trong sản xuất từ sản xuất nguyên
liệu đến chế biến, bao gói, bảo quản sản phẩm để nâng cao chất lượng và độ an toàn

của sản phẩm, hạ giá thành và đáp ứng yêu cầu thị hiếu của khách hàng.
Đối với chế biến sản phẩm xuất khẩu: Đã và đang thực hiện đổi mới từng phần
công nghệ như công nghệ đóng gói chân không, công nghệ Sashimi, công nghệ sản
xuất các mặt hàng có giá trị gia tăng, công nghệ đông rời IQF, … tuy vậy tốc độ phát
triển công nghệ tại các đơn vị chế biến thuỷ sản xuất khẩu tỉnh nhà vẫn còn chậm,
chưa theo kịp với tốc độ phát triển công nghệ chung của các công ty chế biến thuỷ
sản trong nước.
7
Đối với chế biến sản phẩm nội tiêu: Chủ yếu sử dụng công nghệ chế biến
truyền thống, bên cạnh đó có một số công nghệ mới như công nghệ sản xuất nước
mắm ngắn ngày bằng Enzim, sản xuất cá tẩm gia vị, tôm nõn, mắm đâm,… tuy
nhiên quy mô sản xuất nhỏ, lượng hàng cung cấp ra thị trường còn ít.
V. VIỆC SẮP XẾP VÀ ĐỔI MỚI DOANH NGHIÊP NHÀ NƯỚC
Các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hóa nhưng hoạt động sản xuất kinh
doanh đang trong tình trạng khó khăn. Đây cũng là tình trạng chung của các doanh
nghiệp CBXK thủy sản khu vực các tỉnh phía bắc hiện nay.
a. Các doanh nghiệp cổ phần:
Các doanh nghiệp trong thời gian gần đây đã có những đóng góp đáng kể vào
sự phát triển sự phát triển của ngành nói chung, chủng loại sản phẩm ngày càng đa
dạng, chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao, thị trường tiêu thụ ngày
một mở rộng, tuy nhiên bên cạnh đó còn nhiều mặt hạn chế, trình độ tổ chức sản
xuất, quản lý chưa cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời gian vừa qua còn
quá thấp thậm chí còn thua lỗ nặng nề.
Hai công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản hiện nay thì chỉ có công ty XNK Thuỷ
sản Nghệ An đã đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường EU và Mỹ; Còn công ty
XNK Thuỷ sản Nghệ An II đang quá trình tiếp cận các thị trường này. Các công ty
cổ phần và các cơ sở chế biến thuỷ sản khác hoạt động trong lĩnh vực chế biến thuỷ
sản nội địa và tham gia xuất khẩu tiểu ngạch hiện có còn gặp nhiều khó khăn như
trình độ tay nghề của người lao động, vốn sản xuất kinh doanh, mặt bằng nhà xưởng,
trình độ công nghệ chế biến, … nên trong những năm gần đây tốc độ phát triển cả về

chiều rộng lẫn chiều sâu của các đơn vị này đang còn thấp.
b. Các loại hình tổ chức sản xuất khác:
Bên cạnh các công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản nội
địa thì chế biến thuỷ sản trong nhân dân chủ yếu là kinh tế hộ gia đình chiếm tỷ
trọng rất lớn trong tổng sản phẩm. Ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân làm ăn có
hiệu quả và đầu tư lớn trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản như doanh nghiệp tư nhân
Phương Mai; doanh nghiệp của anh Thâm (Quỳnh Lưu); doanh nghiệp của anh Sơn
ở Nghi Tân - Cửa Lò, một số cơ sở ở Diễn Bích (Diễn Châu). Các doanh nghiệp này
cùng với các loại hình tổ chức sản xuất phạm vi hộ gia đình đã đóng góp rất lớn vào
sự phát triển của ngành chế biến thuỷ sản tỉnh nhà trong những năm vừa qua.
Tuy nhiên, những năm gần đây các loại hình này còn manh mún, rời rạc,
thiếu tính chất cộng đồng nên tình trạng ô nhiễm môi trường dễ xảy ra, vấn đề quản
lý chất lượng sản phẩm gặp nhiều khó khăn.
VI. VỀ ĐẦU TƯ
Đã có đầu tư cho nuôi trồng, khai thác... góp phần tạo nguyên liệu cho chế
biến và xuất khẩu thủy sản. Hệ thống chợ cá được hình thành cùng với hệ thống
8
cảng cá, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mua, bán nguyên liệu, hạn chế
khâu trung gian, nâng cao lợi ích của người sản xuất, đảm bảo chất lượng nguyên
liệu trước khi đưa vào chế biến nhưng chưa được khai thác tốt.
Cơ sở hạ tầng vùng NTTS được đầu tư khá, đã hoàn chỉnh khu nuôi tôm công
nghiệp Quỳnh Bảng với quy mô 90 ha và giá trị đầu tư gần 8 tỷ đồng; cơ sở hạ tầng
vùng NTTS thuộc các huyện (Quỳnh lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Hưng Hoà, Hưng
Nguyên, Yên Thành....) tiếp tục được đầu tư đồng bộ và đã hình thành được một số
vùng nuôi tập trung đảm bảo đủ tiêu chuẩn ngành.
Các cơ sở chế biến nội địa không ngừng được đầu tư phát triển. Đầu tư mới
và đưa vào hoạt động 4 cơ sở chế biến bột cá với công suất 4000tấn sản
phẩm/năm(tương đương 16.000 tấn nguyên liệu); xây dựng mới 01 cơ sở chế biến
hàng thủy sản xuất khẩu và tiêu thụ nội địa sản phẩm khô với công suất
1.000tấn/năm.

Cơ sở chế biến xuất khẩu đã và đang từng bước được đầu tư về qui mô cũng
như thiết bị, công nghệ sản xuất. Tuy nhiên số lượng các máy móc thiết bị mới, hiện
đại chiếm trong tổng số máy móc thiết bị hiện có của các công ty còn ít,trong số
những tủ đông hiện có thì phần lớn là các tủ cấp đông tiếp xúc đã cũ, năng suất cấp
đông thấp, tiêu tốn năng lượng lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Đối với các công ty cổ phần thuỷ sản: Mặt hàng sản xuất chủ yếu truyền thống
là nước mắm và mắm các loại; Quy trình sản xuất thủ công. Trong những năm gần
đây mặc dù đã đầu tư một số thiết bị để giảm bớt cường độ lao động cho công nhân,
song nhìn chung tỷ lệ lao động công nghiệp tại các công ty cổ phần trong thời gian
qua còn quá thấp. Hệ thống ô bể tuy có đầu tư nhưng không đáng kể.

B. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Việc thực hiện chương trình phát triển chế biến và xuất khẩu thủy sản Nghệ
An giai đoạn 2001 - 2005 mặc dù còn có những khó khăn nhưng đã đạt được một số
kết quả đáng khích lệ, thể hiện:
+ Chế biến và xuất khẩu thủy sản đang thể hiện vai trò cầu nối giữa sản xuất
với thị trường. Tạo đầu ra cho phát triển sản xuất nguyên liệu, kích thích chuyển đổi
cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp nông thôn. Phần nào đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của nhân dân, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu cho tỉnh; Tạo thêm việc làm tăng
thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho nông ngư dân
+ Bước đầu có sự chuyển biến theo hướng tăng cường về chất, thông qua việc
đa dạng hóa các mặt hàng tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, nâng cao trình độ công
nghệ, tăng tỷ lệ hàng giá trị gia tăng.
+ Đã dần hình thành một đội ngũ các nhà doanh nghiệp, có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ ngày càng cao, cán bộ công nhân viên nắm bắt được công nghệ mới
làm cơ sở tiền đề cho việc phát triển về sau. Hình thành hệ thống cơ sở chế biến tư
9
nhân, mặc dù các cơ sở này phải tự bỏ vốn ra, không nhận được sự hỗ trợ kinh phí
ưu đãi từ phía nhà nước. Những sản phẩm làm ra đã chiếm lĩnh thị trường trong tỉnh

và các tỉnh khác.
+ Trong giai đoạn xuất khẩu thủy sản gặp khó khăn, việc hình thành một thị
trường tiêu thụ nội địa đã mở ra một hướng mới, đóng góp một phần vào sự phát
triển kinh tế tinh nhà.
II. CÁC TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN
- Tồn tai:
+ Việc đầu tư chiều sâu cho các cơ sở chế biến xuất khẩu còn chậm. Chẳng
hạn như Công ty XNKTS Nghệ An II với tổng vốn đầu tư 13 tỷ đồng theo kế hoạch
sẽ hoàn thành năm 2002 nhưng đến nay mới chỉ giải ngân 4tỷ.
Bên cạnh đó, việc xây dựng Nhà máy chế biến đông lạnh tại Diễn Châu không
được thực hiện như kế hoạch đã đề ra. Các cơ sở chế biến thủy sản tư nhân, chủ yếu
dựa vào nguồn vốn tự có, sản xuất mang tính thủ công, trang thiết bị cơ giới hóa
không có hoặc còn thiếu. Trong những năm qua việc đầu tư hỗ trợ cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh ta còn quá khiêm tốn. Thành phần chế biến ngoài quốc
doanh còn tủn mủn, nhỏ lẻ.
+ Các cơ sở chế biến thủy sản áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến,
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng sản phẩm xuất khẩu chưa phát huy
được khả năng hiện có của mình. Giá trị kim nghạch XKTS còn thấp, đặc biệt trong
xuất khẩu chính ngạch.
+ Các doanh nghiệp chế biến thủy sản trong tỉnh ta đang ở mức doanh nghiệp
nhỏ; Sản phẩm còn đơn điệu, bao bì mẫu mã kém hấp dẫn, chưa theo kịp với thị hiếu
của khách hàng. Tỷ trọng hàng chế biến GTGT chiếm rất ít trong tổng số sản phẩm.
Các doanh nghiệp chưa chủ động sản xuất các sản phẩm có tính tiện dụng cao đáp
ứng thị hiếu của người tiêu dùng, chưa có sản phẩm chủ lực. Do đó, sản phẩm thiếu
tính cạnh tranh.
+ Công tác quản lý an toàn vệ sinh mới chỉ tập trung thực hiện ở khu vực chế
biến chưa được thực hiện tốt ở khu vực sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu
hoạch nên vẫn còn tình trạng ngâm nước nguyên liệu diễn ra nhiều nơi; Việc sử
dụng kháng sinh trong nuôi trồng, bảo quản nguyên liệu còn chưa được kiểm soát
tốt.

+ Đội ngũ cán bộ làm công tác thị trường vừa thiếu vừa yếu. Phương thức
tiếp thị và bán hàng của các công ty XNK thủy sản của tỉnh hiện nay vẫn thông qua
sử dụng thương hiệu của khách hàng, chưa có khả năng tiếp cận đến người tiêu
dùng; thường bán hàng qua các công ty trung gian. Chưa tổ chức triển khai quảng bá
sản phẩm trên các thị trường lớn một cách bài bản.
+ Công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho sản xuất thuỷ sản tuy có được
quan tâm, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao nhằm tạo sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới. Nhiều kết quả nghiên cúu còn chậm được phổ biến, áp dụng
10
trong sản xuất. Trình độ công nghệ trong khai thác và nuôi trồng còn hạn chế, ảnh
hưởng đến giá thành nguyên liệu.
+ Cơ chế vay vốn đầu tư cũng như vốn tín dụng cho sản xuất kinh doanh còn
nhiều vướng mắc, nhất là về tài sản thế chấp, đã ảnh hưởng lớn đến tốc độ đầu tư
phát triển sản xuất kể cả sản xuất nguyên liệu và chế biến xuất khẩu.
- Nguyên nhân:
+ Trang thiết bị, máy móc và công nghệ không đáp ứng yêu cầu chế biến xuất
khẩu do thiếu vốn đầu tư thiết bị, cơ sở hạ tầng và công nghệ sản xuất sản phẩm chất
lượng cao.
+ Tình trạng thiếu hụt nguyên liệu xảy ra thường xuyên trong khi các doanh
nghiệp thiếu vốn thu mua dự trữ nguyên liệu để sản xuất.
+ Cơ chế hỗ trợ về xúc tiến thương mại còn chưa cụ thể, thiếu sự phối hợp
thống nhất giữa các cơ quan quản lý và doanh nghiệp.
+ Công tác đào tạo cán bộ quản lý, kinh doanh, thị trường và công nhân kỹ
thuật thiếu được quan tâm, chưa đáp ứng được yêu cầu số lượng và chất lượng.
PHẦN II
MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN ĐẾN 2010
I. NHỮNG KHÓ KHĂN, THUẬN LỢI ĐỐI VỚI NGÀNH CHẾ BIẾN
VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN NGHỆ AN
1. Khó khăn:

- Cạnh tranh về thủy sản trên thị trường ngày càng gay gắt, trong khi khả năng
cạnh tranh của hàng thủy sản của ta còn thấp, khả năng tự động hóa trong sản xuất
chưa cao, dẫn đến giá thành một số loại sản phẩm cao hơn so với mặt hàng cùng loại
của các doanh nghiệp trong nước.
- Tiềm năng về diện tích nuôi trồng thuỷ sản tỉnh nhà không lớn, công tác
chuyển đổi diện tích đất trồng lúa, làm màu, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng
thuỷ sản gặp nhiều khó khăn. Qui mô các cơ sở nuôi thủy sản nhỏ, việc áp dụng các
công nghệ mới trong nuôi thủy sản còn nhiều bất cập, là những thách thức trước yêu
cầu đòi hỏi càng cao về chất lượng, ATVS thủy sản.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho chế biến thuỷ sản quá cũ kỹ, công nghệ sản xuất
lạc hậu. Thiếu vốn phục vụ cho việc đổi mới trang thiết bị sản xuất kinh doanh. Chất
lượng lao động trong ngành chế biến thuỷ sản còn thấp hạn chế đến việc tiếp cận
các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Sản phẩm chủ yếu ở dạng sơ
chế, đông block không đáp ứng kịp so với xu hướng tiêu dùng hiện nay là sử dụng
các sản phẩm ăn liền, có giá trị gia tăng.
- Tình hình thiếu nguyên liện vẫn xảy ra. Nguyên nhân chủ yếu do nguồn
nguyên liệu từ khai thác càng ngày càng suy giảm, nguồn nguyên liệu tư nuôi trồng
mang tính thời vụ và dịch bệnh. Việc cạnh tranh thu mua nguyên liệu của các tỉnh
bạn cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp của tỉnh ta.
11
- Các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển chế biến thuỷ sản chưa đồng
bộ và kịp thời.
- Thị trường thế giới biến động bất thường, cạnh tranh lớn; các nước nhập
khẩu hàng thuỷ sản ngày đưa ra những rào cản về thuế quan, kỹ thuật ngày càng khắt
khe.
- Với yêu cầu hạ thấp mức thuế nhập khẩu thủy sản của WTO, cũng như của
các nước trong tiến trình hội nhập kinh tế, thủy sản Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay
gắt với sản phẩm thủy sản đến từ các nước, nhất là thủy sản của các nước trong khu
vực như Thái Lan, Trung Quốc...
- Các doanh nghiệp CBXK còn đang khó khăn về vốn, công nghệ và kinh

nghiệm. Vì vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng thấp.
- Công tác đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật tuy đã được quan tâm
nhưng do hạn chế về kinh phí và kinh nghiệm, nên số lượng các lớp đào tạo chưa
được nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là
thiếu những nhà doanh nghiệp giỏi về kinh doanh, am hiểu về luật lệ thương mại của
các nước nhập khẩu cũng như những quy định của tổ chức thương mại Thế giới
- Tình trạng thiếu những cơ sở dịch vụ như chợ cá tập trung ở các vùng sản
xuất nguyên liệu, cùng với những bất cập trong quản lý chất lượng nguyên liệu, thực
hiện các biện pháp về vệ sinh an toàn thực phẩm, trong khi thị trường thế giới ngày
càng đòi hỏi khắt khe về chất lượng sẽ dễ gây nên những rủi ro cho doanh nghiệp
CBXK thủy sản Việt Nam nói chung.
2. Thuận lợi:
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản trong nước cũng như ngoài nước ngày
một gia tăng:
Nhu cầu cho thị trường nội địa ngày một tăng về số lượng cũng như chất
lượng và ATVSTP. Người tiêu dùng trong nước đã nhận thức được vai trò của sản
phẩm thủy sản trong bữa ăn, vì thế họ đã chuyển hướng dần sang việc sử dụng loại
sản phẩm này.
Theo FAO, sự tăng trưởng dân số, cùng với sự xuất hiện những căn bệnh ở
gia cầm, gia súc và xu hướng chuyển sang ăn thủy sản tăng, mức tiêu thụ thủy sản
trên đầu người sẽ tăng lên khoảng 17-19kg/ người/năm, khiến nhu cầu thực phẩm
thủy sản thế giới sẽ tăng từ 99,4 triệu tấn năm 2001, lên 121 triệu tấn vào năm 2010
( tăng 22%) và 130 triệu tấn vào năm 2020.
Các thị trường tiêu thụ thủy sản lớn của thế giới đều đang có xu hướng tăng
nhập khẩu do dân số tăng lên, càng ngày thủy sản càng được tin tưởng như một loại
thực phẩm ít gây bệnh (tim mạch, béo phì, ung thư...) và ít chịu ảnh hưởng của ô
nhiễm hơn. Mặt khác một số nước đã chủ trương giảm sản lượng khai thác tự nhiên
như: EU, Trung Quốc... khiến nhu cầu thủy sản ở các thị trường lớn ngày càng tăng.
Mặt khác xu hướng các thị trường lớn sẽ tăng cường tỷ trọng nhập khẩu hàng chế
biến sẵn hoặc GTGT.

12
- Khả năng sản xuất nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu tiếp tục tăng do diện
tích và sản lượng nguyên liệu từ nuôi trồng, từ khai thác tăng lên trong thời gian tới.
- Kinh tế thủy sản là lĩnh vực kinh tế đang được Tỉnh quan tâm đầu tư phát triển
trong những năm tới thể hiện ở Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ
XVI.
- Sự hội nhập thương mại khu vực cũng như thế giới là điều kiện để chúng ta
tiếp cận với những thành tựu khoa học, công nghệ mới của thế giới về lĩnh vực thủy
sản, được hưởng sự ưu đãi hơn về thuế quan, phi thuế quan và những lợi ích về đối
xử công bằng, bình đảng hơn khi xảy ra tranh chấp thương mại.
II. MỤC TIÊU
1. Định hướng phát triển
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghệ chế biến theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, giảm giá thành để
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế,
phát triển ổn định và có hiệu quả.
- Hình thành các làng nghề, khu chế biến thuỷ sản tập trung, nâng cấp và hoàn
thiện các nhà máy chế biến; Phát triển các loại hình doanh nghiệp chế biến tương
xứng với tiềm năng thuỷ sản của từng vùng, từng địa phương.
- Phát triển chế biến thuỷ sản nằm trong tổng thể của kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội nói chung, đảm bảo đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho nhân dân.
2. Mục tiêu đến năm 2010
Trên tinh thần Nghị quyết 01/NQ-TU ngày 26 tháng 12 năm 2005 của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ trong đó có chương trình phát triển kinh tế biển và ven biển
Nghệ An giai đoạn 2006 – 2010, phấn đấu đến năm 2010:
- Giá trị chế biến hàng xuất khẩu thuỷ sản đạt 33 triệu USD.
- Sản xuất 18 triệu lít nước mắm trong đó có 10 triệu lít đạt chất lượng cao.
- Mắm các loại đạt 6.500 tấn.
- Sản xuất bột cá: 3.000 tấn thành phẩm.
. ( Xem phụ lục 4: Kế hoạch chế biến thủy sản đến năm 2010 ).

III. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY
SẢN
1. Nhóm giải pháp về nguyên liệu:
1.1 Trong khai thác:
Chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp đội tàu khai thác vùng lộng, phát triển khai thác
vùng khơi, đảm bảo khai thác bền vững, khai thác đi đôi với bảo vệ nguồn lợi thuỷ
sản. Cần tổ chức lại sản xuất trên biển theo tổ đội, hợp tác gắn với sử dụng tàu hậu
cần dịch vụ, quan tâm dịch vụ sữa chữa cơ khí tàu thuyền vốn hiện đang thiếu và
yếu, nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm; đồng thời hỗ trợ ngư dân
đầu tư cải tiến công nghệ khai thác, chuyển đổi nghề nghiệp khai thác sang nghề
13

×