Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Thực trạng về quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH được lâu dài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.45 KB, 80 trang )


Lời nói đầu
Từ hàng chục năm nay, chính sách Bảo hiểm xã hội đã góp phần quan
trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tợng hởng bảo
hiểm xã hội và gia đình họ khi gặp phải rủi ro, biến cố trong cuộc sống nh ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc chết dẫn đến giảm
hoặc mất nguồn thu nhập. Chính sách BHXH cũng có tác dụng động viên công
nhân viên chức, lực lợng vũ trang yên tâm công tác sản xuất, chiến đấu góp
phần thắng lợi vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế thị trờng với
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nớc theo
định hớng XHCN. Bớc sang cơ chế kinh tế mới với quan hệ lao động phong
phú, đa dạng, chính sách BHXH trong cơ chế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó
việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện
chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết.
Quỹ BHXH là một nội dung rất quan trọng trong chính sách BHXH. Quỹ
BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng nó vừa mang tính
kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan
trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Chính vì vậy,
việc đảm bảo hệ thống tài chính cho quỹ BHXH là hết sức cần thiết và mang ý
nghĩa sống còn đối với hoạt động của BHXH. Thông qua việc xem xét đánh giá
cơ chế quản lý BHXH ở Việt Nam từ đó đa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
và đổi mới cơ chế quản lý quỹ BHXH cho phù hợp với giai đoạn mới. Từ những
lý do trên và quá trình thực tập tôi đã chọn đề tài "Thực trạng về quỹ BHXH ở
Việt Nam hiện nay, kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cân đối quỹ
BHXH đợc lâu dài".
Kết cấu đề tài gồm 3 chơng:
CHƯƠNG I:Lý luận chung về BHXH và quỹ BHXH.
1
CHƯƠNG II:Thực trạng về quỹ BHXH ở Việt Nam.
CHƯƠNG III:Một số kiến nghị nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH


đợc lâu dài.
2
Chơng I
lý luận chung về BHXH Và Quỹ BHXH
I.Một số vấn đề tổng quan về BHXH:
1. Sự cần thiết và tác dụng của BHXH:
1.1. Sự cần thiết của BHXH:
Con ngời muốn tồn tại và phát triển luôn cần phải thoả mãn các nhu cầu
tối thiểu về vật chất và tinh thần,để đáp ứng các nhu cầu đó con ngời phải lao
động, sản xuất ra các sản phẩm. Mặt khác, con ngời ai cũng phải trải qua các
giai đoạn phát triển của đời ngời đó là: sinh ra, lớn lên, trởng thành và chết.
Trong các giai đoạn sinh, lão, bệnh tử của con ngời thì không ai có thể tồn tại
độc lập khỏi sự giúp đỡ, chia sẻ của những ngời xung quanh. Cuộc sống không
phải lúc nào cũng diễn ra bình thờng, con ngời không phải bao giờ cũng gặp
thuận lợi, có đủ thu nhập và điều kiện sinh sống mà trái lại rủi ro luôn đi kèm
với con ngời. Trong nhiều trờng hợp rủi ro bất ngờ xảy ra làm cho ngời lao động
bị giảm hoặc mất thu nhập hay những điều kiện sinh sống khác do ốm đau,
TNLĐ, già yếu. Khi rơi vào các trờng hợp đó, các nhu cầu cần thiết của cuộc
sống con ngời không vì thế mà giảm đi hoặc mất đi, thậm chí còn tăng lên hoặc
phát sinh những nhu cầu mới nh chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau xảy ra. Bởi
vậy, muốn đảm bảo duy trì cuộc sống ngời lao động làm thế nào để tạo ra
nguồn thu nhập thay thế hoặc bù đắp.
Trong xã hội nguyên thuỷ, con ngời phần vừa tự lực, phần biết kết hợp
đoàn kết để đi săn bắt, hái lợm để kiếm sống. Khi gặp rủi ro, tai nạn thì họ vừa
tự mình chịu đựng khắc phục vừa đợc các thành viên trong cộng đồng hỗi trợ, c-
u mang. Trong xã hội phong kiến, quan lại dựa vào bổng lộc của nhà vua, còn
dân c thì đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, làng xóm ... Ngành công nghiệp hình
thành cùng với nền kinh tế hàng hoá phát triển đã làm xuất hiện quan hệ thuê
mớn nhân công. Những ngời làm công phải hoàn toàn dựa vào tiền lơng làm
nguồn sống chủ yếu. Có việc thì mới có lơng dù đó là đồng lơng ít ỏi. Khi ốm

đau, tai nạn, sinh đẻ ... thì phải nghỉ việc và không có lơng, cuộc sống bị đe doạ.
3
Ngời lao động đã ý thức đợc sự cần thiết phải có thu nhập đề phòng khi họ gặp
rủi ro, tai nạn bất ngờ nên họ đấu tranh đòi giới chủ phải cam kết đảm bảo một
số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi ốm đau, thai
sản ... Lúc đầu giới chủ cam kết đảm bảo cho ngời lao động những khoản thu
nhập nhất định đó. Song nhiều khi rủi ro xảy ra liên tục buộc ngời chủ phải chi
ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn. Do vậy, giới chủ đã chi ít hơn nên
xuất hiện mâu thuẫn và tranh chấp giữa chủ và thợ, mâu thuẫn này ngày càng
gay gắt.
Để giải quyết mâu thuẫn này đã xuất hiện một bên thứ ba, đóng vai trò
trung gian nhằm giải quyết mâu thuẫn và điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ. Điều
đó thay cho việc giới chủ và giới thợ phải trả trực tiếp một khoản tiền khi ngời
lao động bị ốm đau, tai nạn ... Giới chủ có thể trích ra hàng tháng một số tiền
nhỏ đợc tính toán chặt chẽ dựa trên những biến cố của tập hợp những ngời lao
động. Số tiền này giao cho bên thứ ba dồn tích thành một quỹ tiền tệ. Khi ngời
lao động gặp rủi ro, bên trung gian sẽ chi trả theo cam kết không phụ thuộc vào
giới chủ có muốn hay không, làm nh thế một mặt giới chủ đỡ khó khăn về mặt
kinh tế do không phải chi trả một lúc những khoản tiền lớn, mặt khác ngời lao
động làm thuê cũng đợc đảm bảo một phần thu nhập khi họ gặp rủi ro. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện thì cơ chế này bộc lộ nhiều bất cập, tính pháp lý
không cao. Do vậy, nhiều chủ sử dụng lao động đã không tự giác tham gia, tính
chất rủi ro còn quá lớn không có sự đảm bảo về tài chính một cách vững chắc.
Trớc tình hình đó Nhà nớc phải đứng ra can thiệp một mặt làm tăng vai trò của
Nhà nớc,mặt khác nhà nớc hỗ trợ thêm từ ngân sách và buộc giới chủ và thợ
phải góp thêm để đảm bảo chi trả các chế độ cho ngời lao động. Từ đó, cả giới
chủ và thợ đều đợc đảm bảo và họ thấy có lợi. Các nguồn đóng góp của giới
chủ, thợ và sự hỗ trợ của Nhà nớc hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung,đó là
quỹ BHXH.
Mặt khác, khi nền kinh tế ngày càng phát triển,công nghiệp hoá,hiện đại

hoá ngày càng cao thì những rủi ro đi liền với nó cũng xuất hiện thêm nh nạn
thất nghiệp, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, ốm đau ngày càng nhiều
4
hơn. Do vậy, BHXH cũng ngày càng phải hoàn thiện hơn để thích ứng với tình
hình cụ thể.
Nh vậy, BHXH ra đời là một đòi hỏi khách quan của thực tế và ngày
càng phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia,
mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết phải tham gia BHXH, nó trở
thành quyền lợi và nhu cầu của ngời lao động và đợc thừa nhận là nhu cầu tất
yếu khách quan, một trong những quyền lợi cơ bản của con ngời nh Tuyên ngôn
nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948: Tất
cả mọi ngời, với t cách là thành viên của xã hội đều có quyền đợc hởng
BHXH ...
1.2. Tác dụng của BHXH:
Trên cơ sở cơng lĩnh công ớc Giơnevơ (Công ớc năm 1952) các quốc gia
tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình mà có những hình thức tổ chức
BHXH riêng phù hợp. Tuy vậy, ở tất cả các quốc gia đều có chung một điểm là:
BHXH do Nhà nớc thống nhất và quản lý. Từ khi BHXH xuất hiện đến nay,
hoạt động này vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính cộng đồng, nhân văn lớn,
điều này cũng có nghĩa là dù kinh tế có phát triển đến mức độ nào, dù có biến
động nh thế nào về thể chế chính trị, xã hội thì bản chất BHXH vẫn không thay
đổi, vẫn là một trong những chính sách quan trọng của một quốc gia. BHXH có
những tác dụng sau:
a.BHXH nhằm giúp ngời lao động ổn định cuộc sống khi họ gặp rủi ro:
Mục đích lớn nhất của BHXH là bảo đảm cuộc sống ổn định cho ngời lao
động và gia đình họ khi họ gặp rủi ro, giảm hoặc mất sức lao động ảnh hởng
đến thu nhập. Do đó, BHXH có tác dụng rất lớn đối với ngời lao động làm cho
họ yên tâm với công việc.
Nói là bảo đảm thay thế bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động là
nói sự thay thế bù đắp đó nhất định phải xảy ra, chắc chắn xảy ra khi ngời lao

động bị rơi vào các trờng hợp làm giảm hoặc mất thu nhập nói trên và hội đủ
các điều kiện quy định thì họ đợc hởng trợ cấp với mức hởng, thời điểm và thời
gian hởng theo quy định của Nhà nớc. Ngoài ra, BHXH còn làm cho ngời lao
5
động gắn bó hơn với công việc, sống và làm việc có trách nhiệm hơn đối với
chính mình và đối với cộng đồng- điều này đã góp phần đáng kể vào việc nâng
cao năng suất, hiệu quả làm việc của ngời lao động. BHXH góp phần hạn chế
và điều hoà các mâu thuẫn xảy ra giữa những ngời lao động và giới chủ, tạo môi
trờng làm việc ổn định cho tất cả các bên khi tham gia BHXH để từ đó tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, thực hiện tăng trởng
và phát triển kinh tế.
b.Gắn bó lợi ích giữa ngời lao động, ngời sử dụng lao động và Nhà nớc:
BHXH không chỉ bảo đảm ổn định cuộc sống cho ngời lao động và gia
đình họ khi ngời lao động gặp rủi ro mà nó còn bảo vệ cho ngời sử dụng lao
động, tạo điều kiện cho họ ổn định tài chính để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh đạt hiệu quả.
BHXH còn bảo vệ và tăng cờng sức khoẻ cho ngời lao động góp phần tái
sản xuất giản đơn sức lao động cho ngời lao động. Giúp ngời lao động nhanh
chóng trở lại làm việc góp phần tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp và nền kinh
tế quốc dân.
BHXH góp phần ổn định xã hội ,an toàn xã hội ,nhà nớc đỡ gánh nặng
đối với ngời bị tàn tật, ngời già vì họ có thu nhập từ BHXH.
c.Phân phối lại thu nhập giữa những ngời tham gia:
Cũng giống nh tất cả các loại hình bảo hiểm khác, BHXH cũng dựa trên
nguyên tắc lấy số đông bù số ít và vì vậy ngời lao động bình đẳng trong nghĩa
vụ đóng góp cũng nh trong quyền lợi nhận đợc từ quỹ BHXH. Tập hợp tất cả
những ngời đóng BHXH thuộc tất cả các ngành nghề, lĩnh vực hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Bao gồm tất cả các loại công việc
từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ nhàng đến nặng nhọc độc hại... Chính vì thế
tính chất xã hội của BHXH là rất cao. BHXH phân phối lại thu nhập giữa các

đối tợng khác nhau giữa những ngời có thu nhập cao và những ngời có thu nhập
thấp, giữa những ngời khoẻ mạnh đang làm việc và những ngời ốm đau bệnh
tật, thai sản ... Thực hiện chức năng phân phối lại, BHXH cũng đồng thời góp
phần thực hiện công bằng xã hội.
6
d.BHXH tập trung đợc nguồn vốn lớn cho phát triển sản xuất:
Nguồn quỹ hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia cũng là
nguồn vốn nhàn rỗi có thể dùng để đầu t vào nền kinh tế quốc dân. Quỹ BHXH
có thể có số d và phần quỹ nhàn rỗi đợc đầu t cho các chơng trình kinh tế, xã
hội, vừa đóng góp vào xây dựng đất nớc vừa làm tăng trởng quỹ. Trong điều
kiện hiện nay hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng.
Ngoài ra, với chức năng giám đốc của mình, BHXH tiến hành kiểm tra,
giám sát việc tham gia và thực hiện chính sách BHXH để đảm bảo thực hiện các
nghĩa vụ và quyền lợi của ngời sử dụng lao động và ngời lao động theo những
quy định của pháp luật. Qua đó tạo điều kiện để ngời lao động yên tâm làm
việc, còn ngời sử dụng lao động chủ động hơn trong việc quản lý và sử dụng
lao động trong quá trình hoạt động của mình. Chức năng giám đốc còn thể
hiện ở các khâu nghiệp vụ của hoạt động BHXH và thực hiện chính sách
BHXH.
2.Khái niệm và bản chất của BHXH:
2.1Khái niệm về BHXH:
Nh đã nêu ở trên BHXH ra đời là một đòi hỏi khách quan của thực tế
đồng thời nói lên bản chất của BHXH là đảm bảo cuộc sống cho ngời lao động
đảm bảo an toàn xã hội.
Nhng cho đến nay, hầu nh cha có một định nghĩa chính thống về BHXH.
Mặc dù, gần đây trong một số tài liệu nghiên cứu về BHXH các tác giả đã đề
cập đến khái niệm này. Đã hơn 100 năm nay, các nớc trên thế giới có xu hớng
chung là thực hiện hệ thống an sinh xã hội mà trong đó BHXH là một trong các
tầng an sinh xã hội chủ yếu và đợc phân biệt với các nội dung khác trong hệ
thống thông qua những đặc trng cơ bản của BHXH.

Trong tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua
ngày 10/12/1948 có nêu: Tất cả mọi ngời với t cách là thành viên của xã hội có
quyền hởng BHXH. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thoã mãn các quyền về kinh tế,
xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con ngời ...
7
Theo Tổ chức lao động thế giới gọi tắt là ILO, BHXH đợc hiểu là sự bảo
vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp
công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để chống lại tình trạng
khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi ốm
đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật, chết; thêm vào đó BHXH bảo vệ
việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình.
BHXH đợc định nghĩa nh vậy phản ánh tổng quát về mục tiêu, bản chất
và chức năng của sự nghiệp này. BHXH có mục đích cuối cùng là hớng tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách
nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội với mỗi ngời.
BHXH là một trong những quyền cơ bản của con ngời trong một xã hội
hiện đại và mục tiêu cao cả nhất của nó là vì sự an toàn, phòng tránh đợc hậu
quả về những tổn thất, gây ra bởi những rủi ro trong cuộc sống hay trong quá
trình lao động. BHXH hớng tới sự phát triển, sự đảm bảo tốt nhất cho con ngời,
góp phần quan trọng vào tạo lập sự ổn định và thịnh vợng của xã hội .
Nh vậy ta có thể nêu khái niệm BHXH nh sau:
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với ng-
ời lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính độc
lập ,tập trung do sự đóng góp của ngời sử dụng lao động và ngời lao động,nhằm
đảm bảo sự an toàn đời sống cho ngời lao động và gia đình họ,góp phần đảm
bảo an toàn xã hội.
2.2 Bản chất của BHXH:
2.1. Về phơng diện cá nhân, BHXH là một nhu cầu khách quan của con ng-
ời:

BHXH là một nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp, nó nhằm đảm
bảo an toàn về kinh tế, giữ cho cuộc sống ổn định, an toàn, tránh đợc đói nghèo
sa sút khi bị mất nguồn thu nhập trong cuộc sống. Đó chính là các nhu cầu về
BHXH và cũng là những nhu cầu tự nhiên trong hệ thống các nhu cầu về cuộc
sống của con ngời. Điều này xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo các tiêu
8
chuẩn hay giá trị cho một cuộc sống tối thiểu. Theo nhà nghiên cứu tâm lý và
hành vi của con ngời Maslow, nhu cầu BHXH nằm trong nhóm nhu cầu ở bậc
thiết yếu cùng với các nhu cầu về điều kiện sinh tồn khác là ăn, ở, mặc và đi lại
mức tối thiểu nhất. BHXH cần phải đợc đảm bảo trớc khi thoả mãn các nhu cầu
xã hội khác rộng hơn trong đời sống con ngời.
BHXH thực sự là một nhu cầu bức thiết. C. Mác đã từng viết Vì nhiều
rủi ro khác nhau nên phải dành một số thặng d nhất định cho quỹ BHXH để mở
rộng theo kiểu luỹ tiến quá trình tái sản xuất ở mức độ cần thiết, phù hợp với sự
phát triển của nhu cầu và tình hình tăng dân số. BHXH thoả mãn các nhu cầu
về đảm bảo cuộc sống nh đã trình bày ở trên, BHXH còn là cần thiết để tái sản
xuất sức lao động, một trong những tiền đề quan trọng nhất để tái sản xuất xã
hội.
2.2.Dới góc độ kinh tế:
BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp. Trong đó: đối với những ngời
hởng các chế độ BHXH, đó là sự đảm bảo thu nhập, bảo đảm cuộc sống khi họ
ở trong điều kiện khó khăn do giảm hoặc mất khả năng lao động mà giảm hay
mất thu nhập, thông qua việc tích luỹ dần của cá nhân trong quỹ BHXH và sự
đóng góp của số đông những ngời có cùng khả năng gặp rủi ro nh nhau. Trong
phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hoạt động BHXH mang nội dung của
quá trình phân phối lại một phần thu nhập trong dân c thông qua việc hình
thành và sử dụng quỹ BHXH, một quỹ tiền tệ tập trung có quy mô rất lớn và
ngày càng tăng lên.
Khi có sự phát triển của thị trờng tài chính và nếu đợc sự quản lý và sử
dụng tốt, quỹ BHXH còn có khả năng sinh lời từ đầu t hợp pháp khác nhau.

Việc sử dụng quỹ BHXH để đầu t sinh lời đợc thấy rõ trong các nớc có nền kinh
tế thị trờng phát triển. Hiện tại BHXH Việt nam bắt đầu thực hiện hoạt động
này nh dùng quỹ để mua trái phiếu. Trong tơng lai, việc sử dụng quỹ BHXH
vào các hoạt động đầu t cũng sẽ đợc mở rộng ra với nhiều hình thức khác nhau.
Kinh tế càng phát triển thì BHXH ngày càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế, có
9
thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vợt quá trạng thái kinh
tế của mỗi nớc.
2.3.Về phơng diện chính trị:
BHXH là sự liên kết giữa những ngời lao động khác nhau trong xã hội
cũng vì lợi ích chung của cộng đồng, trong đó có cá nhân tham gia BHXH.
BHXH cũng phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định. Đối với quốc
gia đây còn là những hoạt động thể hiện thái độ trách nhiệm của Chính phủ đối
với ngời dân trong xã hội. Trong rất nhiều nớc, sự không ổn định hay khủng
hoẳng của hệ thống BHXH có tác động rất mạnh đến hệ thống chính trị của các
nớc đó. Chính vì vậy chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của các
chính sách về kinh tế, xã hội và là một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ
thống chính sách quản lý đất nớc của các quốc gia.
2.4.Về mặt xã hội:
BHXH đợc xem nh là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm
đảm bảo đời sống cho ngời dân và làm lành mạnh xã hội. Thông qua đó, bảo vệ
và phát triển nguồn lao động xã hội, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn
định trật tự xã hội nói chung. BHXH mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì
lợi ích của con ngời trong những hoàn cảnh gặp khó khăn, vì an toàn xã hội và
có ý nghĩa xã hội lâu dài. Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên
cơ sở quan hệ lao động và diển ra giữa 3 bên: bên tham gia, bên BHXH và bên
đợc BHXH.
Nh vậy, tổ chức và vận hành một hệ thống BHXH phải đứng trên một
quan điểm tổng thể, toàn diện. BHXH không thể tách khỏi một thể chế chính trị
nhất định và phải dựa trên nền tảng kinh tế cụ thể. BHXH không phải là loại

hình bảo hiểm cá nhân hay cá nhân tự bảo hiểm mà đó là sự bảo hiểm đặt trong
những ràng buộc giữa những con ngời với nhau trong những mối quan hệ nhất
định trong cộng đồng mặc dù xuất phát điểm bao giờ cũng là nhu cầu của mỗi
con ngời. BHXH gắn liền với những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm, đó có thể là những rủi ro ngẫu nhiên: ốm đau, tai nạn lao
động ... nhng cũng có thể là những trờng hợp xảy ra hoàn toàn không ngẩu
10
nhiên nh: tuổi già, thai sản. Đồng thời những biến cố đó có thể xảy ra cả trong
và ngoài quá trình lao động. Sự giảm hoặc mất khả năng lao động làm giảm
hoặc mất thu nhập, phần thu nhập này sẽ đợc bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ
tiền tệ tập trung do các bên tham gia đóng góp.
3. Nội dung cơ bản của BHXH:
a.Đối tợng của BHXH:
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và nền
kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nớc châu Âu. Từ năm
1883, ở nớc Phổ (CHLB Đức) đã ban hành đạo luật bảo hiểm y tế. Một số nớc
châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối những năm 1920 mới có đạo luật về BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi
do ngời lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, bị mất việc làm vì các
nguyên nhân rủi ro nh ốm đau, tai nạn lao động, già yếu ... Chính vì vậy, đối t-
ợng của BHXH chính là thu nhập của ngời lao động bị biến động giảm hoặc
mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những ngời
tham gia BHXH.
Đối tợng tham gia BHXH là ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Tuy
vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nớc mà đối tợng này có
thể là tất cả hoặc một bộ phận những ngời lao động nào đó.
Hầu hết các nớc khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối
với các viên chức Nhà nớc, những ngời làm công hởng lơng. Việt nam cũng
không vợt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng nh vậy là không bình đẳng giữa
tất cả những ngời lao động.

Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài ngời lao
động còn có ngời sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dới sự bảo trợ của Nhà
nớc. Ngời sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để
bảo hiểm cho ngời lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng
góp của ngời lao động và ngời sử dụng lao động, phải có trách nhiệm quản lý và
sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với ngời lao động. Nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
11
b. Các loại chế độ BHXH:
Theo công ớc số 102 Công ớc về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
quy định gồm có 9 chế độ BHXH nh sau:
1) Chăm sóc y tế.
2) Trợ cấp ốm đau.
3) Trợ cấp thất nghiệp.
4) Trợ cấp tuổi già.
5) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
6) Trợ cấp gia đình.
7) Trợ cấp thai sản.
8) Trợ cấp tàn tật.
9) Trợ cấp mất ngời nuôi dỡng.
c.Mức đóng và hởng:
Tuỳ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế và của lĩnh vực BHXH
mà có thể xác định một số mức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đa dạng về
BHXH của ngời lao động. Mức đóng BHXH có liên quan đến thu nhập dùng để
tính tỷ lệ đóng BHXH. Mức đóng và hởng có tác động, ảnh hởng trực tiếp đến
quy mô và số lợng tham gia vào BHXH. Điều này đòi hỏi phải có những nghiên
cứu, thiết kế các chính sách và nội dung của từng chế độ cụ thể thích hợp trong
BHXH.
II. Khái niệm chung về quỹ BHXH:
1.Sự cần thiết của quỹ BHXH:

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, ngời lao động luôn phải gánh chịu,
đơng đầu với vô vàn các rủi ro. Những rủi ro đó có thể làm cho ngời lao động
mất khả năng lao động tạm thời hay vĩnh viễn, mất nguồn sống hay chết ngời,
con cái mất nơi nơng tựa, hoặc lúc về già không còn khả năng lao động để có
thu nhập đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, để có nguồn thu nhập duy trì, ổn định
cuộc sống của bản thân và gia đình họ trong lúc gặp rủi ro hoặc tuổi già thì tất
yếu phải lập quỹ dự trữ bảo hiểm thích hợp, đủ lớn để có thu nhập ổn định đảm
bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình trong tơng lai.
12
Mặt khác do quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lức lợng lao động cho t-
ơng lai của xã hội, những ngời lao động nữ họ còn phải làm nghĩa vụ sinh con,
nuôi con và chăm sóc khi con ốm đau ... cũng đòi hỏi phải có quỹ bảo hiẻm
giúp đỡ... Việc tạo lập quỹ BHXH cho ngời lao động những lúc gặp rủi ro bất
ngờ hoặc lúc tuổi già có thể đợc tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau. Do
vậy, quỹ BHXH có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của ngời lao động.
Trong thực tế không ai muốn mất việc làm hoặc mất, giảm khả năng lao
động để đợc hởng trợ cấp từ quỹ BHXH, do đó nó phù hợp với nguyên tắc lấy
số đông bù số ít. Nguyên tắc này thể hiện việc phân phối lại thu nhập giữa
những ngời lao động có thu nhập khác nhau, giữa những ngời khoẻ mạnh đang
làm việc và những ngời đang ốm đau phải nghỉ việc hay giữa những ngời đang
hởng trợ cấp BHXH khác nhau. Từ đó cũng thấy rằng khả năng, vai trò của quỹ
BHXH trong việc phân phối lại thu nhập và công bằng xã hội, động viên ngời
lao động hăng hái làm việc: Khi ngời lao động đang làm việc sẽ có thu nhập,
còn khi mất khả năng lao động thì họ lại đợc hởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Nh
vậy, họ đã có van an toàn để đảm bảo cuộc sống cho họ, đó là chỗ dựa vững
chắc khi họ không có khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn và làm cho ng-
ời lao động yên tâm gắn bó với công việc.
Bên cạnh đó quỹ BHXH đầu t một phần vào các hoạt động kinh tế - xã
hội, khoản này không những tạo thêm khả năng mở rộng quỹ BHXH mà còn
góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Qũy BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết hậu
quả của rủi ro cho ngời tham gia, đảm bảo an toàn kinh tế cho ngời lao động và
gia đình họ, giảm thiểu tối đa thiệt hại kinh tế cho ngời sử dụng lao động, tiết
kiệm cho ngân sách Nhà nớc. Quỹ sử dụng để trợ cấp cho ngời lao động và gia
đình họ khi họ gặp phải rủi ro và một phần chi phí cho sự nghiệp quản lý
BHXH.
2. Khái niệm quỹ BHXH:
Trong đời sống kinh tế- xã hội ngời ta thờng nói đến rất nhiều loại quỹ
khác nhau nh quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lơng, quỹ dự
13
trữ quốc gia. Tất cả các loại quỹ này đều có điểm chung đó là tập hợp các ph-
ơng tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo những
mục tiêu và định hớng trớc. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng và điều kiện vật
chất để thực hiện các hoạt động BHXH.
Tất cả các loại quỹ không chỉ tồn tại với một khối lợng tính tại tại một
thời điểm mà luôn luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm
đi ở đầu ra với một khoản chi nh một dòng chảy liên tục. Để đảm bảo cho đầu
ra ổn định, ngời ta thiết lập một lợng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và điều hành đợc
một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm đợc khối lợng của nó tại một thời điểm
mà quan trọng hơn là phải nắm đợc lu lợng của nó trong một khoảng thời gian
nhất định.
Theo những quan điểm nói trên về quỹ nói chung thì quỹ BHXH là tập
hợp những đóng góp bằng tiền của những ngời tham gia BHXH hình thành một
quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những ngời đợc BHXH khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm.
Nh vậy, quỹ BHXH vừa là một quỹ tiêu dùng vừa là một quỹ dự phòng.
Quỹ tiêu dùng đợc thể hiện ở mục đích chi của quỹ BHXH là cho những ngời h-
ởng BHXH, là một quỹ dự phòng thể hiện quỹ chi trả trợ cấp khi có rủi ro xảy
ra và ngời lao động có thể đợc hởng trợ cấp ở một thời điểm rất xa so với thời
điểm đóng góp. Đồng thời quỹ BHXH còn mang tính chất kinh tế và mang tính

chất xã hội cao, là điều kiện và cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn
bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
3. Nguồn hình thành quỹ BHXH:
Quỹ BHXH là một yếu tố mang tính chất sống còn đối với sự nghiệp
BHXH. Do đó, nguồn hình thành quỹ bao giờ cũng đợc quan tâm đúng mức
nhằm đảm bảo chi trả cho các đối tợng đợc hởng BHXH và đảm bảo cho hệ
thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả.
3.1. Sự đóng góp của ngời lao động:
Hệ thống BHXH ở các nớc trên thế giới từ trớc đến nay chủ yếu vẫn thực
hiện trên nguyên tắc: Ngời tham gia BHXH phải đóng góp cho quỹ BHXH mới
14
đợc hởngrợ cấp BHXH. Ngời lao động tham gia đóng góp là để bảo hiểm cho
mình, vừa thực hiện nghĩa vụ cao đẹp với cộng đồng. Thực chất ở đây ngời lao
động đã dàn trải rủi ro theo thời gian.
3.2. Sự đóng góp của ngời sử dụng lao động:
Ngời sử dụng lao động đóng góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho ngời
lao động mà mình thuê mớn. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối
với ngời lao động. Đồng thời còn thể hiện chính lợi ích của ngời sử dụng lao
động. ở đây ngời sử dụng lao động san sẻ rủi ro cho nhau để khi xẩy ra rủi ro
đối với ngời lao động thì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để bồi thờng,
vì quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hởng khi ngời lao động có
nhu cầu BHXH.
3.3. Nhà nớc đóng góp và hỗ trợ:
Ngời sử dụng lao động đóng góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho ngời
lao động mà mình thuê mớn. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối
với ngời lao động. Đồng thời còn thể hiện chính lợi ích của ngời sử dụng lao
động. ở đây ngời sử dụng lao động san sẻ rủi ro cho nhau để khi xẩy ra rủi ro
đối với ngời lao động thì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để bồi thờng,
vì quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hởng khi ngời lao động có
nhu cầu BHXH.

3.4. Các nguồn thu khác:
Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau:
- Tiền lãi, tiền lời từ các hoạt động đầu t nhằm bảo toàn và phát triển quỹ
BHXH. Nhng phải chú ý là phần vốn nhàn rỗi mới đợc mang đi đầu t. Bởi vì khi
thực hiện các hoạt động này nếu bị rủi ro thì không ảnh hởng đến phần quỹ
BHXH chi trả cho các đối tợng đợc hởng.
- Các nguồn tài trợ và viện trợ khác ở trong nớc, ngoài nớc và cộng đồng
quốc tế, kể cả các tổ chức phi Chính phủ và các cá nhân hảo tâm ... Tuy nhiên
nguồn này không ổn định và không nhiều.
15
- Giá trị các tài sản cố định của BHXH đợc đánh giá lại theo các quy định
của Nhà nớc.
- Các nguồn thu khác: Tiền phạt do nộp chậm BHXH so với thời gian quy
định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và ngời lao động đóng thiếu
tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ đợc hởng thụ.
Thông thờng sự đóng góp của ba bên: Ngời lao động, ngời sử dụng lao
động và Nhà nớc tạo ra nguồn quỹ cơ bản nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tùy
theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nớc mà tỷ lệ đóng góp của mỗi
bên đợc quy định khác nhau.
Ví dụ: ở Việt Nam, theo Nghị Định 12/CP (26/1/1995) đã quy định: Quỹ
BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung ngoài ngân sách Nhà nớc đợc hình
thành từ ba nguồn:
+ Ngời sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lơng của những
ngời tham gia trong đơn vị.
+ Ngời lao động đóng bằng 5% lơng hàng tháng.
+ Ngân sách Nhà nớc (NSNN) đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện
chế độ BHXH đối với ngời lao động.
Nguyên tắc hoạt động của quỹ BHXH là cân đối thu- chi.
4. Phân loại quỹ BHXH:
Để quản lý và sử dụng quỹ BHXH một cách có hiệu quả cần phải phân

loại quỹ BHXH. Có nhiều cách phân loại quỹ BHXH theo các tiêu thức khác
nhau, có thể phân loại nh sau:
* Phân loại theo tính chất sử dụng.
- Quỹ ngắn hạn: Chi trả cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp nhẹ.
- Quỹ dài hạn: Chi trả trợ cấp hu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp nặng. Quỹ này chịu ảnh hởng của tài chính tiền tệ.
* Phân loại theo các chế độ.
16
- Quỹ hu trí, tử tuất.
- Quỹ TNLĐ và BNN.
- Quỹ thất nghiệp.
- Quỹ ốm đau, thai sản.
* Phân loại theo đối tợng.
- Quỹ cho công chức.
- Quỹ cho lực lợng vũ trang.
- Quỹ cho ngời lao động trong các doanh nghiệp.
- Quỹ cho các loại lao động khác.
5. Quản lý quỹ BHXH:
Quản lý quỹ BHXH bao gồm quản lý thu, quản lý chi và tình hình đầu t
tăng trởng quỹ BHXH.BHXH đợc tổ chức theo ngành dọc từ trung ơng xuống
từng địa phơng, cho nên khi thực hiện thu thì BHXH của từng địa phơng thu rồi
nộp nên cơ quan trung ơng hình thành nên quỹ BHXH tập trung.Khi thực hiện
chi trả cho các chế độ thì cơ quan trung ơng sẽ lấy từ quỹ BHXH phân bổ xuống
từng địa phơng.Để cho công tác quản lý quỹ BHXH đạt hiệu quả cao thì công
tác thu và chi cũng phải đạt hiệu quả cao.Phải thu đúng thu đủ đảm bảo bằng
tiền mặt vì công tác thu có ý nghĩa sống còn đối với toàn ngành BHXH vì đây là
phần quan trọng để chi trả cho các chế độ.Khi thực hiện chi trả cho các chế độ
thì cơ quan trung ơng phải chỉ đạo cho các cơ quan BHXH địa phơng chi đúng
chi đủ chi kịp thời đến từng đối tợng để tạo niềm tin với ngời tham gia.Để cho

quỹ BHXH ngày càng nhiều hơn thì ta phải đem một phần đi đầu t nhng phải
đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Mục tiêu hoạt động của quỹ BHXH là tự cân đối thu, chi do đó quỹ
BHXH luôn luôn phải có một lợng tiền tích luỹ để chi cho các chế độ trợ cấp
dài hạn nh: hu trí, tử tuất, thơng tật. Lợng tiền tồn tích này đợc Chính phủ cho
phép đầu t tăng trởng quỹ BHXH. Tuy nhiên việc sử dụng quỹ BHXH để đầu t
phải theo đúng quy định của Nhà nớc, đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro đến mức
thấp nhất, bảo toàn giá trị và hiệu quả kinh tế - xã hội. Để việc quản lý công tác
đầu t BHXH đạt hiệu quả, chúng ta đi tìm hiểu các nguyên tắc trung đầu t quỹ
BHXH.
17
- An toàn: thực sự có tầm quan trọng đặc biệt đối với dự trữ kỹ thuật của
hệ thống trợ cấp, thậm chí rủi ro mất giá trị có thể xảy ra đối với đầu t của dự
trữ sự cố trong hệ thống trợ cấp ngắn hạn.
- Lợi nhuận: Bất cứ một khoản đầu t nào đợc mang đi đầu t đều cũng
muốn đạt đợc một khoản lợi nhuận nhất định. Tính toán tài chính đợc dựa trên
lãi suất tính toán, nếu không hệ thống sẽ bị thâm hụt tài chính, mà phải bù đắp
bằng cách này hay cách khác.
- Khả năng thanh toán:
- Lợi ích kinh tế - xã hội:
Hiểu biết đợc tầm quan trọng của công tác đầu t tăng trởng quỹ BHXH
mà Chính phủ cho phép đợc sử dụng lơng tiền nhãn rỗi của quỹ BHXH để đầu
t. Mục 2 Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ - TTg ngày 26/1/1998 của Thủ t-
ớng Chính phủ có quy định.
BHXH Việt Nam đợc thực hiện các biện pháp đầu t để bảo tồn và tăng tr-
ởng quỹ BHXH nh:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu của kho bạc Nhà nớc và các ngân hàng thơng
mại của Nhà nớc.
+ Đầu t vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nớc có nhu
cầu về vốn đợc Thủ tớng Chính phủ cho phép và hỗ trợ.

III. Tình hình thực hiện BHXH ở một số quốc gia trên
thế giới.
1. Mỹ.
a. Đối t ợng tham gia:
ở Mỹ tất cả những ngời trong độ tuổi lao động là công dân Mỹ có thu
nhập, kể cả những ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc hộ gia
đình và lao động tự cung tự cấp có thu nhập trên mức thu nhập tối thiểu (do
Nhà nớc quy định mức tối thiểu) đều phải nộp thuế (một hình thức đóng
BHXH) hay còn gọi là thuế lơng cho quỹ BHXH.
18
b. Quỹ BHXH.
Nguồn tài trợ cho các chế độ trợ cấp BHXH là từ thuế phúc lợi xã hội mà
chính quyền liên bang thu. Trong số tiền lơng của ngời lao động, chính quyền
sẽ khấu trừ bớt số tiền thuế cố định. Sau đó đa các khoản thu này vào các quỹ
BHXH. Mức khấu trừ cụ thể:
- Ngời sử dụng lao động: 13,65%.
- Ngời lao động: 7,65%.
Tổng cộng: 21,3%.
Để đợc hởng trợ cấp, ngời đóng BHXH phải nộp đến một mức nào đó.
Chính quyền liên bang Mỹ có cách tính thống kê từng ngời đã nộp đủ tiền thuế
hay cha. Kể từ năm 1993, một ngời đóng BHXH nếu nộp đủ 590 $ thì đợc một
điểm hởng thụ. Mỗi ngời phải có đủ 40 điểm trong 10 năm trớc khi nghỉ hu.
Nh vậy, cơ chế thu BHXH ở Mỹ là vừa theo tỷ lệ trích nộp, vừa phải thu
đến một ngỡng do chính quyền quy định, cơ chế này có vẽ đơn giản. Mặt
khác tỷ lệ đóng góp cũng không quá cao.
c. Các chế độ BHXH.
- Trợ cấp hu trí.
- Trợ cấp tử tuất.
- Trợ cấp y tế.
- Trợ cấp thơng tật.

2. Pháp.
a. Đối t ợng tham gia.
BHXH ở Pháp có mầm mống từ thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của cứu
trợ công cộng và tơng hỗ. Hiện nay, đối tợng tham gia BHXH là những ngời lao
động có thu nhập trong tất cả các thành phần kinh tế (Chính phủ quy định mức
gọi là có thu nhập).
b. Quỹ BHXH.
Nguồn tài trợ quỹ BHXH đợc xác định theo một cơ chế hết sức phức
tạp. Cụ thể nh sau:
19
- Quỹ BH y tế, thai sản, thơng tật, chết: Sự đóng góp vào quỹ này đợc
tách biệt ra hai khoản: Đóng cho rủi ro nghề nghiệp và rủi ro phi nghề nghiệp.
Đối với rủi ro nghề nghiệp, nguồn tài trợ chính là các khoản đóng góp trên
lơng: Giới chủ đóng 12,8%, ngời lao động đóng 6,8%.
Đối với rủi ro phi nghề nghiệp khoản này đợc thu trên lơng do giới chủ đóng
toàn bộ. Tỷ lệ đóng góp đợc xác định tuỳ theo số lợng lao động trong mỗi
doanh nghiệp.
- Quỹ trợ cấp hu trí, goá bụa, trợ cấp gia đình: Nguồn tài trợ này cũng
chủ yếu từ các khoảm đóng góp của ngời lao động và ngời sử dụng lao động.
Đối với trợ cấp hu trí, ngời sử dụng lao động phải đóng bằng 9,8%, ngời lao
động đóng 6,55% tiền lơng, tổng cộng 16,35%. Để đợc hởng trợ cấp goá bụa
ngời lao động còn phải đóng góp 0,1%.
Đối với trợ cấp gia đình ngời lao động, ngời sử dụng lao động phải đóng
góp toàn bộ với tỷ lệ 5,4% lơng của ngời lao động.
c. Các chế độ BHXH.
ở Pháp phạm vi BHXH bao gồm hầu hết các chế độ BHXH theo quy định
của ILO (9 chế độ).
3. ở một số nớc Đông á.
ở Đông á, đối với những nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển sớm trong
khu vực, để tạo lập quỹ BHXH cũng dựa vào ba nguồn cơ bản: Ngời lao động,

ngời sử dụng lao động và Nhà nớc. Trớc hết là ngời sử dụng lao động và ngời
lao động phải đóng góp theo tỷ lệ trích vào lơng cho từng chế độ trợ cấp.
- ở Thái Lan, trợ cấp BHXH bao gồm: Thơng tật, ốm đau, thai sản, mất
khả năng lao động, tử tuất, tuổi già và thất nghiệp. Việc đóng BHXH theo cơ
chế: ngời lao động nộp 1/3 trên thu nhập, giới chủ nộp 1/3 và Nhà nớc 1/3. Ví
dụ chế độ thất nghiệp quy định: ngời lao động đóng 5%, ngời sử dụng lao động
đóng 5% và Nhà nớc 5%.
20
- ở Nhật Bản: sự đóng góp vào quỹ BHXH cũng tơng đối cao. Ngời lao
động phải dóng từ 3,5% đến 4,6% thu nhập hàng tháng, giới chủ đóng từ 25,5%
đến 30,5%, còn Nhà nớc trợ cấp cho quỹ BHXH theo nhu cầu thiếu hụt.
- ở Hàn quốc: Đối tợng tham gia là những ngời lao động thờng xuyên ký
kết hợp đồng với các doanh nghiệp, các viên chức làm việc trong các cơ quan
Nhà nớc, các tổ chức đoàn thể, văn hoá giáo dục. Tỷ lệ đóng góp của ngời lao
động và ngời sử dụng lao động tơng tự ở Nhật Bản, phần tài trợ của Nhà nớc là
đáp ứng chi phí quản lý hành chính và hu trí dài hạn cho 1/3 số ngời dân (có
thu nhập thấp).
Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển chính sách BHXH của các
nớc trên thế giới đã đạt đợc những thành tựu đáng kể: Góp phần đảm bảo đời
sống cho mỗi ngời lao động và gia đình họ, thực hiện ổn định chính trị và an
toàn xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, chính sách BHXH đã và
đang đợc nghiên cứu đổi mới để hoàn thiện phù hợp với xu thế phát triển chung
của thời đại.
* Những kinh nghiệm rút ra đợc từ hoạt động BHXH của các nớc trên
thế giới.
Qua kinh nghiệm các nớc trên thế giới có hoạt động BHXH, các nớc
phát triển cũng nh các nớc đang phát triển chúng ta có thể học hỏi đợc một số
vấn đề sau:
Việc xây dựng một mô hình BHXH phải phù hợp với các điều kiện kinh
tế, xã hội của quốc gia mình. Hoạt động BHXH có thành công hay không phụ

thuộc rất nhiều vào độ chặt chẽ và tính hiệu quả của các cơ chế và chính sách
biện pháp thu BHXH. Có thể dễ dàng nhận ra một thực tế đó là trong bất kỳ một
thể chế kinh tế, xã hội nào thì hoạt động BHXH vẫn phụ thuộc vào ngân sách
Nhà nớc ở các mức độ khác nhau, vấn đề là phụ thuộc ít hay nhiều, điều này
còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế ở mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc
gia.
Kinh nghiệm của một số nớc phát triển cho thấy việc đề ra các chính
sách BHXH phải dựa trên nguyên tắc bắt buộc, để có thể thu hút đợc ngày càng
21
nhiều đối tợng tham gia; vấn đề này ngày càng trở nên quan trọng bởi sự an
toàn của quỹ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH căn cứ vào mức độ đóng
góp của ngời lao động và ngời sử dụng lao động và đặc biệt là phụ thuộc vào
mức lơng của ngời lao động dùng làm căn cứ đóng BHXH trớc khi về hu.
Việc sử dụng các nguồn thu thuế từ lơng của ngời lao động và ngời sử
dụng lao động cho mục đích phúc lợi xã hội, đối với tất cả các công dân làm
việc trên lãnh thổ nớc mình và công dân nớc mình làm việc ở nớc ngoài nhng có
đóng thuế cho Chính phủ. Với cơ chế này, Chính phủ các nớc này cho rằng
không cần thiết có một tổ chức riêng biệt để quản lý quỹ BHXH, việc thực hiện
chi BHXH mang tính bao cấp với mục đích điều tiết thu nhập cá nhân đảm bảo
sự công bằng xã hội, vì vậy những ngời đợc hởng các chế độ BHXH đều nhận
đợc các khoản phúc lợi xã hội vợt quá mức đóng góp của mình. Mô hình xây
dựng hệ thống BHXH theo kiểu này chỉ phù hợp với điều kiện của nền kinh tế
phát triển, những nớc có mức phúc lợi xã hội cao. Trớc đây, chúng ta đã xây
dựng mô hình BHXH gần tơng tự nh mô hình này. Tuy vậy, nó đã không phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế- xã hội Việt nam bởi sự bao cấp quá lớn
của ngân sách Nhà nớc và bởi mức độ phát triển thấp của nền kinh tế.
Nh vậy, việc xây dựng mô hình BHXH phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh
kinh tế - xã hội của Việt nam trong từng thời kỳ, ngoài ra trong điều kiện đất n-
ớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng việc tăng cờng khả năng đóng góp của ng-
ời lao động, ngời sử dụng lao động để có thể giảm nhẹ sự phụ thuộc vào ngân

sách Nhà nớc là một trong những hớng chính trong việc xây dựng và thực hiện
các chế độ, chính sách BHXH ở Việt nam hiện nay.
22
23

CHƯƠNGII
THực TRạng Về Quỹ BHXH ở VIệt NAM
I.Sơ qua về BHXH và quỹ BHXH ở Việt Nam:
1. Thời kỳ thực hiện BHXH trớc năm 1961:
Ngay từ khi thành lập chính quyền nhân dân và suốt trong thời kỳ kháng
chiến, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song Chính phủ đã luôn
chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và riêng đối với
công nhân, viên chức Nhà nớc. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lơng, Chính
phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội mà thực chất là các chế độ
BHXH nh: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp già yếu, trợ cấp
cho cá nhân và gia đình công nhân, viên chức khi chết và xây dựng các khu an
dỡng, điều dỡng, bệnh viện, nhà trẻ...Về mặt luật pháp đợc thể hiện trong các
văn bản sau:
- Sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1947 của Chính phủ.
- Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức.
- Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ về quy chế công nhân.
Các văn bản này đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về bảo
hiểm xã hội, song do hoàn cảnh đất nớc có chiến tranh, trong kháng chiến và
kinh tế khó khăn nên Nhà nớc cha nghiên cứu chi tiết và thực hiện đợc đầy đủ
các quyền lợi về bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ
yếu mang tính cung cấp, bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ. Về nội
dung cha thống nhất giữa khu vực hành chính và sản xuất, giữa công nhân
kháng chiến và công nhân sản xuất dân dụng, các khoản chi về bảo hiểm xã hội
lẫn với tiền lơng, chính sách đãi ngộ mà cha xây dựng theo nguyên tắc hởng
theo lao động là nguyên tắc cơ bản về phân phối XHCN, ngoài ra các văn bản

lại cha hoàn thiện và đồng bộ, ảnh hởng đến việc tổ chức thực hiện. Một số vấn
đề quan trọng, cấp thiết đến đời sống của đông đảo công nhân viên chức nh chế
độ hu trí, trợ cấp mất sức lao động, thôi việc, chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp
cha đợc quy định.
24
Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội cha đợc quy định
một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội cha đợc hình thành. Tuy nhiên, các
chế độ trợ cấp, phụ cấp mang tính chất bảo hiểm xã hội trong giai đoạn đầu
thành lập nớc, trong kháng chiến và những năm đầu hoà bình lập lại đã có tác
dụng rất to lớn, giải quyết một phần những khó khăn trong sinh hoạt của công
nhân viên chức Nhà nớc và gia đình họ, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào
Đảng, Chính phủ và làm cho mọi ngời an tâm, phấn khởi đẩy mạnh công tác,
sản xuất, thu hút lực lợng lao động vào khu vực kinh tế Nhà nớc.
2.Thời kỳ thực hiện BHXH theo điều lệ tạm thời (1961-1995):
2.1 Những quy định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội:
Để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nớc, đáp ứng yêu cầu
không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức Nhà nớc, các chế độ
trợ cấp xã hội cần đợc bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với thời kỳ xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tại Điều 32 Hiến
pháp năm 1959 quy định rõ: quyền của ngời lao động đợc giúp đỡ về vật chất
khi già yếu, mất sức lao động, bệnh tật. Năm 1960 Hội đồng Chính phủ có Nghị
quyết trong đó đã xác định đi đôi với việc cải tiến chế độ tiền lơng, cần cải tiến
và ban hành các chính sách cụ thể về bảo hiểm xã hội và phúc lợi cho công
nhân viên chức, cán bộ. Thực hiện Nghị quyết trên, các Bộ Lao động, Bộ Nội
vụ, Bộ Tài chính, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn Việt Nam đã phối hợp nghiên cứu
xây dựng Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội trình Hội đồng Chính phủ ban
hành. Ngày 14/12/1961 Uỷ ban thờng vụ Quốc hội phê chuẩn, Chính phủ đã ra
Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về
các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nớc. Nội dung của
Điều lệ đợc tóm tắt nh sau:

- Về đối tợng áp dụng là: công nhân viên chức Nhà nớc ở các cơ quan, xí
nghiệp, công trờng, nông trờng, cán bộ, công nhân trong các đoàn thể nhân dân;
công nhân viên chức trong các xí nghiệp công t hợp doanh đã áp dụng chế độ
trả lơng nh xí nghiệp quốc doanh; công nhân viên chức trong các xí nghiệp
công nghiệp địa phơng đã có kế hoạch lao động, tiền lơng ghi trong kế hoạch
Nhà nớc.
25

×