Lời nói đầu
Mâu thuẫn là hiện tợng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và t
duy con ngời. Trong hoạt động kinh tế, mặt trận cũng mang tính phổ biến, chẳn
hạn nh cung - cầu tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp,
từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá Mâu
thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật
mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật
trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn
khác lại hình thành.
Trong sự nghiệp đổi mới ở nớc ta do Đảng khởi xớng và lãnh đạo đã
dành đợc nhiều thắng lợi bớc đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc
chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản
lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó
đã đạt đợc nhiều thành công to lớn nhng trong những thành công đó luôn luôn
tồn tại những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi
hỏi phải đợc giải quyết và nếu đợc giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của
nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền kinh tế, quan điểm
lý luận cũng nh những vớng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn đề
chính trị - xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc
chuyển nền kinh tế em chọn làm đề tài cho tiểu luận môn triết học Mác - Lênin.
1
Nội dung
I. Lý luận chung
Mỗi một sự vật, hiện tợng đang tồn tại đều là một thể thống nhất đợc cấu
thành bởi các mặt, các khuynh hớng, các thuộc tính phát triển ngợc chiều nhau,
đối lập nhau ở đây chúng ta chia làm hai phần.
1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất.
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những thuộc tính, những khuynh hớng ngợc chiều nhau tồn tại trong cùng một
sự vật hiện tợng, tạo nên sự vật hiện tợng đó. Do đó, cần phải phân biệt rằng bất
kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật hiện t-
ợng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Trong cùng
một thời điểm ở mỗi sự vật hiện tợng có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ
có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nh một chỉnh
thể, nhng có khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, bài trừ, phủ định và
chuyển hoá lẫn nhau thì có hai mặt đối lập nh vậy mới gọi là hai mặt đối lập
mâu thuẫn "thống nhất" của hai mặt đối lập đợc hiểu với ý nghĩa không phải
chung đứng cạnh nhau mà nơng tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng nh
liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối
lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngợc lại. Nếu thiêu một trong hai
mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật.
Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu đợc cho
sự tồn tại của bất kỳ sự vật nào.
- Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất đợc khái quát từ các
mặt phù hợp khác nhau phản ánh đựơc bản chất của sự phù hợp của lực lợng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
- Thứ hai: Đó phải là một khái niệm "động" phản ánh đợc trạng thái biến
đổi thờng xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ sản xuất và lực lợng
sản xuất.
2
- Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa
nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất
đợc coi là thoả đáng phải có tác dụng định hớng, chỉ dân cho việc xây dựng
quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao
nhất với lực lợng sản xuất.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tơng đối, bản thân
nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tơng đối của nó; Thống nhất của
cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
Đấu tranh các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời
sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong
một sự vật thống nhất nh một chỉnh thể trọn vẹn nhng không nằm yên bêNhà n-
ớc hau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của
bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các
mặt trong thế giới khách quan thể hiện dới nhiều hình thức khác nhau.
2. Chuyển hoá của các mặt đối lập
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến
một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đén chuyển hoá,
bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập
thờng diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối
lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con ngời.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ
là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thờng thì mâu thuẫn
chuyển hoá theo hai phơng thức:
Phơng thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia
nhng ở trình độ cao hơn xét về phơng diện chất của sự vật.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo
thành sự vật mới hơn. Cứ nh vậy mà các sự vật, hiện tợng trong thế giới khách
3
quan thờng xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là
nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.
II. Tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trờng ở
Việt Nam
1. Kinh tế thị trờng và những đặc điểm
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hớng xã hội chủ nghĩa là một tất
yếu lịch sử. Nó nhằm dẫn đến những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách
mạng. Nó thay cũ đổi mới hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn, cả về kinh tế và
chu trình xã hội, nó bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí
Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
Nh chúng ta đã biết từ khi chủ nghĩa xã hội đợc xây dựng, tất cả các nớc
xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập trung cơ chế vận hành
và quản lý kinh tế này đợc duy trì trong một thời gian khá dài và xem nh là một
đặc trng riêng biệt của chủ nghĩa xã hội, là cái đối lập với cơ chế thị trờng của
CNTB. Sự thực thì không phải hoàn toàn nh vậy, nền kinh tế tập trung không
chỉ là sản phẩm riêng biệt của CNXH, cũng nh nền kinh tế tập trung không chỉ
là sản phẩm riêng biệt của CNXH, cũng nh nền kinh tế thị trờng không phải duy
nhất đợc thiết lập trong CNTB. Nền kinh tế tập trung đã đợc các nớc t bản áp
dụng từ trớc nhiều nớc xác lập chế độ XHCN. Nhng các nớc TBCN đã xóa bỏ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt đợc những
thành tựu lớn về kinh tế, xã hội. Nhng công bằng mà nói, nền kinh tế thị trờng
cũng cha phải là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trởng và phát triển của xã
hội.
2. Chuyển sang nền kinh tế thị trờng là một tất yếu khách quan
trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nớc.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy,
mô hình phát triển kinh tế theo hớng thị trờng có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm,
trong bối cảnh của thời đại ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về
đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển.
4
ở nớc ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội
dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa còn là công cụ, là phơng thức để n-
ớc ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.
Nền kinh tế nớc ta hiện nay chỉ có thể nói đang trong giai đoạn quá độ,
chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị tr-
ờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN. Do vậy những đặc điểm
của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nớc ta, đơng nhiên là một vấn đề rất có ý
nghĩa, rất cần đợc nghiên cứu, xem xét. Nhận thức đợc những đặc điểm phức
tạp của giai đoạn quá độ, chi phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh đựơc
những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hớng cực
đoan, máy móc, sao chép, chấp nhận nguyên bản kinh tế thị trờng từ bên ngoài
vào.
Kinh tế thị trờng , nh chúng ta đã biết, là một kiểu quan hệ kinh tế - xã
hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn liền với thị trờng, tức là gắn
chặt với quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Với quan hệ cung - cầu
Trong nền kinh tế thị trờng, nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời
sông xã hội quan hệ hàng hoá.
Nếu nh trớc đây, nền kinh tế nớc ta chỉ có một kiểu sở hữu tơng đối thuần
nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì hiện nay, cùng với thành
phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nớc, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu
khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không
hẳn đã đồng bộ với nhau, đôi khi chúng còn có mâu thuẫn với nhau. Song về
tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp
ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế thị trờng.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nớc ta, thị trờng vừa là
căn cứ, vừa là đối tợng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với
thị trờng, một mặt làm cho nền kinh tế nớc ta thực sự trở thành một thị trờng
thống nhất - thống nhất trong cả nớc và thống nhất với thị trờng thế giới - mặt
khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định khả năng
và vai trò của mình trong thị trờng.
5
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trờng bao nhiêu, chúng ta lại
cũng hiểu rõ hơn bấynhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã
hội. Sự tăng trởng kinh tế đơng nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó
có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhng tăng trởng
kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, những quan niệm của
Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xã hội CNXH với mục tiêu dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị trờng nhất thiết phải có sự quản lý
của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
III. Quy luật mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế
ở nớc ta hiện nay
1. Thực chất nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam
1.1. Khái niệm kinh tế thị trờng
Kinh tế thị trờng là một kiểu quan hệ kinh tế mà trong đó, sản xuất xã hội
gắn chặt với thị trờng, tức là gắn chặt chẽ với quan hệ hàng hoá - tiền tệ,l với
quan hệ cung cầu Trong nền kinh tế thị trờng nét biểu hiện có tính chất bề mặt
của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính
đến quan hệ hàng hoá, hay ít nhất cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá nh
mắt khâu trung gian
1.2. Kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở nớc ta
Thành tựu của 15 năm đổi mới vừa qua ở nớc ta đã có tác dụng làm cho
nớc ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Hàm lợng kinh tế trong các hoạt
động xã hội ngày càng đợc chú ý. Những kế hoạch những hoạt động xã hội bất
chấp kinh tế hoặc phi kinh tế đã giảm đáng kể. Bớc chuyển sang kinh tế thị tr-
ờng này đơng nhiên không tránh khỏi những mặt tiêu cực của nó,nhng dẫu sao
nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của những quan hệ thị trờng "ở
Việt Nam, dù nền kinh tế thị trờng mới chỉ đang hình thành, còn đang trong
những bớc chập chững ban đầu và đợc điều tiết một cách có ý thức theo định h-
ớng XHCN, song cũng tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để
lại đó những dấu ấn của mình" Nếu nh trớc đây, nền kinh tế nớc ta chỉ có một
kiểu sở hữu thuần nhất với hai thành phần kinh tế tập thể và quốc doanh, thì
6