Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Hình tượng nhân vật trong xứ tuyết của y kawabata

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.96 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

VŨ THỊ THOA

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG
XỨ TUYẾT CỦA Y.KAWABATA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Người hướng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Bích Dung

Hà Nội – 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ
văn – trường ĐHSP Hà Nội 2, trong tổ bộ môn văn học nước ngoài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy, cô trong
khoa, tổ, đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Bích Dung – người đã trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2015
Sinh viên

Vũ Thị Thoa


LỜI CAM ĐOAN


Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS.
Nguyễn Thị Bích Dung, tôi xin cam đoan rằng:
- Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
- Kết quả này không trùng với kết quả của bất kỳ tác giả nào đã được
công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2015
Sinh viên

Vũ Thị Thoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
1.1. Lý do khoa học ........................................................................................ 1
1.2. Lý do sư phạm ......................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 5
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát ................................................. 6
5.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 6
5.2. Phạm vi khảo sát ..................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 6
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................ 6
NỘI DUNG ................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG XỨ TUYẾT
CỦA Y.KAWABATA .................................................................................. 7
1.1. Vấn đề về hình tượng nhân vật văn học ................................................... 7
1.2. Hình tượng nhân vật nữ trong Xứ tuyết của Y.Kawabata........................ 8
1.2.1. Đặc điểm ngoại hình nhân vật nữ ......................................................... 8

1.2.1.1. Komako – vẻ đẹp ngoại hình trong sáng, đầy sức sống .................... 10
1.2.1.2. Yoko – một dáng vẻ cổ xưa huyền bí ................................................ 14
1.2.2. Đặc điểm tính cách nhân vật nữ ......................................................... 18
1.2.2.1. Komako – con người nồng nhiệt, mạnh mẽ ...................................... 21
1.2.2.2. Yoko – vẻ đẹp cao khiết, thánh thiện ................................................ 32
CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NAM TRONG XỨ TUYẾT
CỦA Y.KAWABATA ................................................................................ 38
2.1. Đặc điểm ngoại hình của nhân vật nam ................................................. 38


2.2.Vẻ đẹp Nhật Bản trong con mắt nhìn của người đàn ông trong Xứ tuyết
của Y.Kawabata ........................................................................................... 40
2.2.1. Shimamura- lữ khách trong hành trình tìm kiếm cái đẹp..................... 40
2.2.2. Vẻ đẹp của người phụ nữ Nhật ........................................................... 45
2.3.Đặc điểm tâm lý nhân vật nam trong Xứ tuyết của Y.Kawabata ............. 47
KẾT LUẬN ................................................................................................. 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lý do khoa học
Y.Kawabata ( 1899 – 1972) được đánh giá là hiện tượng kỳ lạ của văn
học Nhật Bản thế kỷ XX. Ông sống và sáng tạo trong thời kỳ Nhật Bản có
nhiều biến động dữ dội. Văn hóa phương Tây tràn vào Nhật Bản mạnh mẽ,
làm ảnh hưởng tới tư tưởng của các nghệ sĩ đương thời cũng như những sáng
tác của Kawabata. Song trong những tác phẩm của ông, tinh thần và cốt cách
con người Nhật Bản vẫn không hề thay đổi. Tác phẩm của ông là sự kết hợp
hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại cả về nội dung tư
tưởng và hình thức biểu hiện. Cả thế giới biết đến Kawabata như một tâm hồn

tiêu biểu cho Nhật Bản, một con người luôn tôn thờ, trân trọng và giữ gìn cái
đẹp. Chính vì vậy, ông được coi là “Người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp”,
“Người cứu rỗi cái đẹp”.
Kawabata là nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải thưởng Nobel văn học
vào năm 1968 với bộ ba tiểu thuyết: Xứ tuyết (1947), Ngàn cánh hạc (1951),
Cố đô (1962). Với sự kiện này, ông được các nhà nghiên cứu tôn vinh như
người “Mở cánh cửa tâm hồn Nhật Bản” ra thế giới.
Những tác phẩm của Yasunary Kawabata giữ vị trí đặc biệt quan trọng
trong văn học cận hiện đại Nhật Bản nói riêng và cho cả nền văn học Nhật
Bản nói chung. Trong bộ ba tác phẩm giành giải Nobel văn học thì Xứ tuyết
được xem là một trong những tác phẩm toàn bích, là quốc bảo của nền văn
học Nhật Bản thế kỷ XX. Qua Xứ tuyết, thiên nhiên, con người cũng như
những nét đẹp văn hóa của xứ Phù Tang đều đẹp lộng lẫy, hấp dẫn, kỳ thú.
Để tạo nên kiệt tác này là sự kết hợp của rất nhiều yếu tố, trong đó hình
tượng nhân vật đóng vai trò quan trọng. Vì vậy, việc tìm hiểu về hình tượng
nhân vật trong tác phẩm này là điều thú vị, là sự quan tâm của nhiều người.

1


Đã có nhiều nghiên cứu về kiệt tác văn học này, song Hình tượng nhân
vật trong Xứ tuyết của Y.Kawabata vẫn là đề tài thu hút nhiều sự quan tâm,
chú ý của những người say mê nền văn học xứ Phù Tang.
1.2. Lý do sư phạm
Việc tìm hiểu sáng tác của Y. kawabata sẽ giúp người giáo viên tương lai
hiểu hơn về tác giả, đồng thời có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về văn học
nước ngoài, đặc biệt là văn học Nhật Bản. Đây là điều cần thiết cho việc dạy và
học ở nhà trường phổ thông, cung cấp cho học sinh những tri thức về văn học,
văn hóa Nhật Bản, giúp các em hiểu sâu sắc hơn các tác phẩm thơ Haikư của
Basho. Từ những nét đẹp của nền văn hóa truyền thống Nhật Bản, giáo viên có

thể liên hệ tới văn hóa truyền thống Việt Nam, giúp các em có ý thức giữ gìn,
trân trọng những giá trị truyền thống khi xã hội đang tiến lên và hội nhập.
Một kiệt tác văn chương cần hội tụ rất nhiều yếu tố, trong đó Hình tượng
nhân vật là đề tài độc đáo và đặc sắc. Việc nghiên cứu đề tài này, không chỉ
giúp nắm được nội dung tư tưởng của tác phẩm mà còn là dấu hiệu nhận biết
phong cách nhà văn.
Từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài Hình tượng nhân vật trong Xứ
tuyết của Y.Kawabata với hi vọng khám phá được phần nào đóng góp của tác
giả làm nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Y.Kawabata là một văn hào lỗi lạc của Nhật Bản mà vị thế và sự
nghiệp của ông mãi mãi bất hủ. Với sự nghiệp cao cả và những đóng góp
lớn lao cho văn học Nhật Bản nói riêng và văn học thế giới nói chung, sáng
tác của Kawabata đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà phê bình, nghiên
cứu trên thế giới.

2


Ở Nhật Bản, một công trình khá nổi bật nghiên cứu về Kawabata nhưng
lại chủ yếu lý giải phương pháp sáng tác của nhà văn, như: Kawabata
Yasunari: Sự giao hòa giữa bài ca cổ điển phương Đông với những kỹ thuật
tiên tiến của tác giả Setsuko Tsutsumi. Trong bài viết này, tác giả đã tập trung
lý giải, tìm hiểu tác phẩm tác giả ở phương diện phương pháp sáng tác dựa
trên sự kết hợp của văn hóa, mĩ học, triết học… Nhật Bản.
Ở Nga, năm 1971, Nhà xuất bản Matxcơva đã cho xuất bản tuyển tập tác
phẩm của Y.Kawabata. Khi tác phẩm này xuất hiện, đông đảo độc giả Nga đã
nồng nhiệt đón nhận nó và hướng về đất nước hoa anh đào.
Nhà nghiên cứu người Nga N. Fedorenko trong các bài viết: Y.Kawabata
với triết học và mĩ học và Kawabata – con mắt nhìn thấu cái đẹp đã trình bày

những tình cảm, suy ngẫm của mình về nguyên lý của thuyết duy mỹ Nhật
Bản và phát hiện thấy trong kinh nghiệm nghệ thuật của Y.Kawabata chịu ảnh
hưởng sâu sắc của mĩ học thiền.
Tại lễ trao giải thưởng Nobel văn học năm 1968, Anders Usterling đã ca
tụng Kawabata: “ Ông là người tôn vinh vẻ đẹp huyền ảo và hình ảnh u ẩn
hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người”
Ở Việt Nam, năm 1969, tạp chí Văn (Sài Gòn) đã phát hành số đặc biệt
về Y.Kawabata và đăng hàng loạt những truyện ngắn, những bài nghiên cứu
về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của ông.
Tạp chí văn học số 9 năm 1999, tác giả Lưu Đức Trung có bài viết bàn
về Thi pháp tiểu thuyết Y.Kawabata – Nhà văn lớn của Nhật Bản. Bài viết thể
hiện rõ thi pháp đặc trưng trong sáng tác của Y.Kawabata là thi pháp Chân
không. Đồng thời, với công trình nghiên cứu Yasunari Kawabata, cuộc đời và
tác phẩm, tác giả đã đi sâu phân tích tư tưởng, cuộc đời, tác phẩm cùng những
yếu tố ảnh hưởng đến con đường nghệ thuật của Kawabata.
Tạp chí văn học số 15 (tháng 6/ 2010) có bài: Đọc Xứ tuyết suy nghĩ về
cái nhìn huyền ảo của Y.Kawabata của tác giả Đào Ngọc Chương. Ở bài viết

3


này, người nghiên cứu không đề cập tới lý thuyết tiếp cận như một cơ sở để
xây dựng các luận điểm, mà chỉ dừng lại ở việc so sánh, hệ thống các yếu tố
trong tác phẩm, hướng tới lý giải cái nhìn huyền ảo của Y.Kawabata trong Xứ
tuyết như một đặc trưng thi pháp của ông.
Tạp chí văn học tháng 2 năm 2002, tác giả Nhật Chiêu có bài Thế giới
Kawabata Yasunary (hay cái đẹp hình và bóng). Bài viết đi sâu vào cái đẹp
hiện hữu thông qua thẩm mĩ chiếc gương soi.
Trong bài viết: Mĩ học Kawabata Yasunari, Khương Việt Hà đã giới
thiệu và đưa ra những dẫn chứng dày đặc cho các phương thức biểu hiện cái

đẹp của Yasunari Kawabata. Đồng thời tác giả cũng liệt kê khá nhiều những
biểu tượng và đi sâu vào biểu tượng gương soi.
Trong tạp chí văn học số 7 năm 2005, Đào Thị Thu Hằng có bài
Y.Kawabata giữa dòng chảy Đông – Tây, nghiên cứu về sự ảnh hưởng của
văn hóa Đông Tây đối với Y.Kawabata và khẳng định văn hóa phương Đông
là gốc rễ trong tư tưởng nhà văn.
Tạp chí văn học số 11 năm 2005 với bài: Y. Kawabata – Lữ khách muôn
đời đi tìm cái đẹp của tác giả Nguyễn Thị Mai Liên đã nghiên cứu đi sâu vào
vẻ đẹp Nhật Bản trong sáng tác của Y.Kawabata: Vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp
phong tục, vẻ đẹp của tâm hồn con người.
Trong nghiên cứu văn học số 6 năm 2006, Khương Việt Hà có bài bàn
về Mỹ họcY.Kawabata. Bài viết tình bày rõ quan điểm về cái đẹp của
Y.Kawabata và nguồn gốc hình thành quan điểm đó.
Tác giả Đào Thị Thu Hằng với cuốn chuyên luận Văn hóa Nhật Bản và
Yasunary Kawabata viết về những nét văn hóa đặc sắc của Nhật Bản, về tác
giả Y.Kawabata và nghệ thuật kể chuyện trong sáng tác của ông.
Trong những năm gần đây cũng đã xuất hiện khá nhiều những khóa luận,
luận văn tìm hiểu về sáng tác của Kawabata. Có thể kể tới như: Luận văn thạc sĩ
năm 2006 với đề tài Y.Kawabata – người đi tìm cái đẹp (Từ quan niệm đến thực

4


tiễn sáng tác) của Trần Thị Tố Loan. Luận văn thạc sĩ năm 2007 của Nguyễn
Thị Thu Hương tập trung phân tích Nghệ thuật thể hiện tâm lí nhân vật trong
tiểu thuyết của Y.Kawabata. Khóa luận tốt nghiệp đại học năm 2005 của Trần
Thi Thúy Quỳnh với đề tài Bản sắc Nhật trong sáng tác của Y.Kawabata…
Nhìn chung đã có những bài viết đề cập đến “hình tượng nhân vật” trong
sáng tác của Y.Kawabata, nhưng chưa được khai thác sâu.
Trong khóa luận này, người viết muốn tìm hiểu, khám phá sâu hơn

phương diện Hình tượng nhân vật trong Xứ tuyết của Y.Kawabata.
Xứ tuyết là một trong ba tác phẩm đạt giải Nobel của Y.Kawabata, được
viết từ năm 1934 và hoàn thành vào năm 1947. Tác phẩm được viết nhằm tôn
vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Nhật Bản cũng như thiên nhiên và những giá trị
văn hóa của Nhật Bản. Các nhà nghiên cứu đành giá Xứ tuyết là bài ca về tình
yêu tuyệt vọng của một geisha. Một tình yêu được hình thành như tuyết và tan
ra như tuyết”. Trong Xứ tuyết, số lượng nhân vật trong tác phẩm không nhiều,
nhưng mỗi nhân vật lại mang một nét cá tính khác nhau, hình dáng khác
nhau. Đó cũng chính là bóng dáng của con người Nhật Bản trong sáng tác của
Y.Kawabata.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích khám phá hình tượng nhân vật trong Xứ tuyết của
Y.Kawabata. Qua đó thấy được tài năng của nhà văn và những đóng góp lớn
lao của ông cho nền văn học Nhật Bản nói riêng và cho nhân loại nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, người nghiên cứu sẽ tìm hiểu về hình tượng nhân vật
trong tác phẩm, chỉ ra vai trò, vị trí của hình tượng nhân vật trong Xứ tuyết
của Y.Kawabata.

5


5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tượng nhân vật trong Xứ tuyết của Y.Kawabata.
5.2. Phạm vi khảo sát
Tiểu thuyết Xứ tuyết trong Y.Kawabata. Tuyển tập tác phẩm (2005),
(nhiều người dịch), Nxb Lao động và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ
Đông Tây Hà Nội.
Tuy nhiên, để tiện cho việc phân tích, đối chiếu, người viết có thể mở

rộng sang một số tác phẩm khác của Y.Kawabata nếu cần thiết.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện phương pháp này, người viết thực hiện các phương pháp như
- Phương pháp khảo sát tác phẩm.
- Phương pháp phân tích, so sánh.
- Phương pháp tổng hợp nâng cao vẩn đề.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Hình tượng nhân vật nữ trong Xứ tuyết của Y.Kawabata.
Chương 2: Hình tượng nhân vật nam trong Xứ tuyết của Y.Kawabata

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG XỨ TUYẾT
CỦA Y.KAWABATA
1.1. Vấn đề về hình tượng nhân vật văn học
Theo góc độ văn học và nghệ thuật, hình tượng được hiểu là sự phản ánh
hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện
tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính. Cùng
với tác phẩm, hình tượng thường được xem là đơn vị hoàn chỉnh trong nghiên
cứu văn học. Trong nhiều trường hợp, thuật ngữ hình tượng thường được hiểu
đồng nhất với hình tượng nhân vật, cũng có lúc, người ta dùng hình tượng để
chỉ một tác phẩm.
Trong phạm trù cơ bản của mĩ học, hình tượng nghệ thuật dùng để chỉ
một hình thức phản ánh hiện thực đặc thù bằng các phương tiện nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật khác với các phạm trù của tư duy khoa học và các
phạm trù khác như: cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nó thâm nhật vào bản chất
của các hiện tượng trong đời sống và làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa của chúng.

Hình tượng nghệ thuật là phương tiện nghệ thuật nhằm thể hiện cuộc sống.
Phát sinh từ cuộc sống, các hình tượng nghệ thuật trở về với cuộc sống, tác
động vào tình cảm, thức tỉnh tư duy, giúp cho con người ý thức được mình, ý
thức được mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, giữa cá nhân và xã hội,
giữa hiện thực và lý tưởng. Hình tượng nghệ thuật là điều kiện đầu tiên để tạo
nên giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Sự khác biệt giữa hình tượng nghệ thuật
trong tác phẩm văn chương và các loại hình nghệ thuật khác đó là hình tượng
nghệ thuật trong tác phẩm văn chương được thể hiện thông qua hình tượng
nhân vật, đó là phương tiện hình thức để nhà văn bộc lộ giá trị tư tưởng và
phong cách nghệ thuật của mình. Mỗi khi cầm bút, nhà văn phải không ngừng

7


tìm tòi, sáng tạo để xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu, đặc sắc. Không
phải tác phẩm nào cũng có hình tượng văn học. Không phải nhân vật nào
trong tác phẩm văn học cũng trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở
thành hình tượng văn học, điều kiện tiên quyết là phải có tính điển hình.
Trong văn học, hình tượng nhân vật phải là: nhân vật điển hình trong hoàn
cảnh điển hình. Nghĩa là nhân vật văn học ấy phải có sức tập trung, khái quát
cao. Nhân vật ấy phải có những nét chung nhất của tầng lớp, giai cấp…mà
mình đại diện. Và bối cảnh mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển
hình của một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định.
1.2. Hình tượng nhân vật nữ trong Xứ tuyết của Y.Kawabata
1.2.1. Đặc điểm ngoại hình nhân vật nữ
Xứ tuyết là tiểu thuyết đầu tay của văn hào Nhật Bản Kawabata
Yasunary, được khởi bút từ năm 1935 và hoàn thành năm 1947. Sự ra đời của
tác phẩm đã đem lại niềm tự hào lớn lao cho nước Nhật nói chung và
Kawabata nói riêng, khiến tác phẩm được đánh giá là quốc bảo của nền văn
học Nhật Bản. Đánh giá về tác phẩm, dịch giả người Pháp Armel Guerne cho

rằng “đây là một tác phẩm thuần túy Nhật Bản khác với lối tư duy trong ngôn
ngữ phương Tây vốn nặng về gò bó duy lý. Nghệ thuật mờ ảo, cái Đẹp được
miêu tả tinh tế lộng lẫy, lối kết cấu gần như vô hình”. Có thể nói Xứ tuyết là
một hành trình đi tìm cái đẹp mà Kawabata là người lữ khách u sầu trên hành
trình vĩ đại ấy. Cái đẹp mà Kawabata thể hiện trong tác phẩm đó là cái đẹp
của con người, mà đặc biệt là người phụ nữ, cái đẹp của thiên nhiên, của tuyết
trắng, của nghệ thuật geisha, và của nghề dệt vải Chijimi truyền thống.
Trong hành trình đi tìm cái đẹp của Kawabata, có lẽ cái đẹp mà ông nâng
niu, trân trọng nhất là cái đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Kawabata quan niệm phụ nữ là cái đẹp tượng trưng cho vẻ đẹp của Nhật Bản
cổ xưa, Nhật Bản thời Heian. Trong Xứ tuyết, vẻ đẹp của người phụ nữ Nhật

8


Bản được hội tụ đầy đủ ở hai nhân vật Komoko và Yoko. Dưới ngoài bút tài
hoa, tinh tế của Y.Kawabata, chỉ qua một vài nét về hình dáng bên ngoài của
nhân vật, người đọc cũng thấy toát lên những vẻ đẹp cao quý của tâm hồn, đó
là những trái tim đầy vị tha, nhân hậu, những trái tim bồ tát. Vẻ bề ngoài yêu
kiều, quyến rũ của họ khiến chàng lãng tử Shimamura đến từ Tokyo phải
sửng sốt, choáng ngợp.
Trong sáng tác của Kawabata, người phụ nữ xuất hiện với số lượng đông
đảo và hết sức phong phú đa dạng, ở mọi lứa tuổi mà đặc biệt là tuổi trẻ. Họ
có thể làm nhiều nghề khác nhau và ở những địa vị khác nhau, mỗi người đều
có một tính cách, đặc điểm, cuộc đời riêng như công chức, dạy trà đạo, thư kí,
nội trợ,… Xứ tuyết là điểm nhấn để cho bức tranh về phụ nữ Nhật Bản trong
sáng tác của Kawabata được phong phú, đầy đủ hơn, đó là nghề Geisha, một
ngành nghệ thuật gần như sắp tàn ở Nhật Bản. Và nếu như các nhân vật nam
thường được Y.Kawabata chú trọng vào nội tâm mà ít chú ý đến miêu tả về
ngoại hình thì ngược lại nhân vật nữ lại được ông đặc biệt chú trọng về ngoại

hình dù đó là nhân vật chính hay nhân vật phụ. Trong Xứ tuyết, Komako và
Yoko được đặc tả khá đầy đủ các bộ phận trên cơ thể. Đối với Komako, đó là
làn da, mắt, lông mi, dáng người, tóc,… còn với Yoko thì tác giả chủ yếu tập
trung vào giọng nói, ánh mắt và khuôn mặt lạnh lùng xa cách.
Bên cạnh lối miêu tả chi tiết, kỹ lưỡng là lối đặc tả chi tiết nhằm cá thể
hóa nhân vật. Mỗi nhân vật nữ của ông là một con người rất riêng, cụ thể,
không thể lẫn lộn, thể hiện khả năng quan sát hết sức tinh tế của Y.Kawbata.
Yoko được Kawabata nhấn đi nhấn lại vẻ đẹp của đôi mắt. Đó là “đôi mắt đen
lánh như ngọc huyền” như ám ảnh Shimamura cũng như độc giả. Đôi mắt
cháy lửa ấy được miêu tả tới mười lần, và gương mặt quyến rũ nhưng lạnh
lùng, xa cách được miêu tả tới chín lần, đặc biệt là âm giọng của nàng tới
mười lăm lần. Đối với Komako, Kawabata lại nhấn mạnh vào làn da “làn da
cô khiến ta nhớ tới cái nhẵn của một củ hành tươi bóc vỏ hoặc hơn thế nữa,

9


của một củ huệ”. Dưới ngòi bút của Kawabata, mỗi nhân vật nữ hiện lên với
một vẻ đẹp ngoại hình khác nhau, và họ đều đẹp lộng lẫy, đầy sức sống.
1.2.1.1. Komako – vẻ đẹp ngoại hình trong sáng, đầy sức sống
Trong Xứ tuyết, nhân vật Komako đã gây được ấn tượng mạnh mẽ về
một ngoại hình trong sáng, đầy sức sống. Gặp Komako lần đầu, Shimamura
không tránh khỏi cảm giác ngỡ ngàng: “sững sờ đứng dậy vì ngạc nhiên… Cô
gái gây cho Shimamura một cảm giác tuyệt vời bởi vẻ sạch sẽ và tươi mát của
cô… thân thể cô chắc phải sạch sẽ lắm, sạch đến tận chân tơ kẽ tóc, thậm chí
anh tự hỏi sự tinh khiết ấy phải chăng là ảo ảnh” . Komako gợi lên trong anh
những tình cảm bạn bè trong sạch, anh thực lòng muốn giữ mãi tình cảm đó
và cô sẽ là người bạn gái tuyệt vời cho vợ anh khi cả gia đình đến đây. Nhưng
cuối cùng, chính ấn tượng kì lạ rất tươi mát và cực kì sạch sẽ mà cô gây nên
là nguồn gốc cho sự ham muốn đột ngột ở Shimamura: “rõ ràng ngay từ đầu

anh chỉ muốn có mình cô”.
Vẻ đẹp gợi cảm của Komako còn được tác giả đặc tả trên khuôn mặt
“một vẻ gợi tình đằm thắm, có lẽ tại hàng mi dày và dài của cô, mà đôi mắt
cụp xuống lại càng tôn thêm giá trị”. Đôi mắt của Komako được miêu tả
mang vẻ đẹp huyền bí và có chút gì đó phi nữ tính: “Hàng mi của cô không
cong, cũng không hướng lên phía trên, cắt ngang mí mắt thành một đường
thẳng đến nỗi trông có vẻ kì dị, thậm chí buồn cười, nếu nó không được bao
bọc một cách tế nhị bởi hàng lông mày rậm, cong và mượt như tơ lụa”. Mặc
dù mắt cô không được miêu tả đẹp lộng lẫy, kết hợp với “mặt cô rất tròn và
hai gò má hơi cao kể ra thì không có gì đáng chú ý”, nhưng “ với nước da
hồng hào mịn màng với cái cổ trinh bạch và đôi vai mảnh dẻ còn sắp đầy lên
chút nữa, cô gợi một ấn tượng tươi mát, trong sạch đến nỗi cô có tất cả vẻ đẹp
quyến rũ của một sắc đẹp, cho dù cô không đẹp hoàn hảo”. Và đôi mắt đó còn
cho thấy sự trong sáng, hồn nhiên của cô gái miền cao, sống hồn hậu, mộc

10


mạc, chân thành như chính thiên nhiên nơi đây: “ Ánh mắt cô ướt và sáng một
cách ngây thơ lại càng non trẻ; đôi mắt cô vẫn là đôi mắt của một thiếu nữ
mới lớn, gần như của một đứa bé…”. Như vậy, chỉ qua một vài nét vẽ về đôi
mắt, Kawabata đã khắc họa được phần nào vẻ bề ngoài trong sáng, chân thành
của Komako, một đôi mắt của sự quyến rũ, đầy sức sống.
Miêu tả về ngoại hình Komako, Kawabata tập trung nhiều nhất ở làn da.
Nước da hồng hào của cô được miêu tả một cách đầy ấn tượng: “Với màu da
tự nhiên khỏe khoắn của cô gái miền núi xiết bao trong trắng với gương mặt
mịn màng bóng bẩy của một geisha thị thành, làn da cô khiến ta nhớ tới cái
nhẵn của một củ hành tươi bóc vỏ hoặc hơn thế nữa, của một củ huệ, nhưng
với một chút ửng hồng tỏa xuống tận hõm ngực. Một hương thơm của sự sạch
sẽ thoang thoảng quanh cô”. Làn da của Komako gợi lên một vẻ đẹp trong

sạch đến tinh khiết toát lên từ mọi biểu hiện của cơ thể nàng, khiến cho
Shimamura cảm nhận vẻ đẹp thanh khiết của Komako phô bày như một ảo
mộng về sự trinh bạch. Shimamura quyến luyến xứ tuyết cũng phải thừa nhận
bởi có Komako trong đó, chàng say mê nét nữ tính ở làn da, ở dáng điệu hồn
nhiên của cô như người ta say mê những dòng ôn tuyền nơi xứ lạnh, và anh
“ngây ngất ngắm làn da mát rượi lành mạnh trắng đến tinh khiết gợi đến sự
sạch bóng của những đồ phơi giặt ngoài trời”. Làn da, cảm giác buốt giá của
bàn tay Komako là nỗi ám ảnh đọng lại rất lâu trong Shimamura. Nên khi
thiếu vắng nàng, anh chợt đắn đo: “Phải chăng con người nhờ có làn da mịn
dịu thơm mà con người biết yêu thương?”. Rồi như một thói quên vụng dại
dành cho Komako, anh luôn nghĩ về cô với sự khao khát đụng chạm với làn
da mịn màng, thanh khiết: “đúng ra đó là một giấc mơ hơn là sự thèm muốn
thân xác, trở thành nỗi niềm thương nhớ nảy ra trong anh, như nỗi niềm
thương nhớ huyền bí về những đỉnh núi cao”.
Màu sắc của làn da dường như đối lập với màu sắc ấm áp ở đôi gò má
của cô: “Má cô hơi hồng hồng, ở phía dưới đôi mắt, nơi cô vừa áp tay

11


Shimamura vào, màu hồng vẫn lộ rõ bất chấp lớp phấn trắng thoa khắp mặt
cô”. Làn da và gò má của Komako đều được đặc tả bằng ấn tượng về màu sắc.
Màu trắng và vẻ sạch sẽ của làn da cô khiến Shimamura nghĩ tới màu của xứ
tuyết, nghĩ đến cái lạnh ở đây. Tương phản với nó là sự ấm áp rực lên từ gò
má Komako mà Shimamura nhiều lần nhìn ngắm. Sự đối lập mạnh mẽ này
phần nào đã khắc họa được vẻ đẹp tràn đầy, một vẻ đẹp của vùng núi tuyết
hiện lên qua ngoại hình của người phụ nữ này. Và vẻ đẹp trong sáng, đầy sức
sống ấy được nhân lên gấp bội khi nó được phản chiếu qua chiếc gương soi:
“Cái màu trắng ở tít sâu trong gương, đó là màu tuyết, ở giữa đó rực lên màu
đỏ của đôi má người đàn bà trẻ. Vẻ đẹp của sự tương phản ấy cực kì trong

sạch, nó vô cùng dữ dội vì nó sắc nhọn và sống động”.
Một đặc điểm không thể thiếu trong ngoại hình của Komako chính là
mái tóc. Shimamura dường như đã ngắm nhìn mái tóc ấy rất kĩ và miêu tả nó
thật ấn tượng: “Thực ra thì tóc cô không dày lắm, có lẽ nó đẹp là bởi sức sống
của nó, bởi tóc cô cứng gần như tóc đàn ông nên cô có thể chải cao lên một
cách hoàn hảo, cách điệu hóa theo mốt cổ xưa, bóng như sơn, khiến trông như
cô đội một tác phẩm điêu khắc chắc nịch bằng đá đen”. Mỗi lần ngắm nhìn
mái tóc ấy của Komako, anh dường như lại phát hiện ra một vẻ đẹp trong cô.
Mái tóc gần như một biểu tượng cho sức sống trong người đàn bà trẻ. Đôi khi
vẻ đẹp ngoại hình ấy lại gợi lên chút gì đó huyền bí, mờ ảo dưới con mắt của
Shimamura: “Màu đen của mái tóc người đàn bà trẻ hình như không sâu như
trước, mà lại ẩn hiện sắc thái của màu tím”. Các đặc điểm ngoại hình của
Komako được chú trọng miêu tả rất nhiều bằng màu sắc và tạo sự tương phản
giữa chúng. Kawabata đã thật khéo léo khi miêu tả làn da Komako đỏ ửng
dưới áo kimono hơi hở ra “trông thật khêu gợi và khi tương phản với mái tóc
đen sẫm, da thịt cô chỗ ấy càng làm anh thèm muốn. Trong cơn thèm khát rạo
rực cháy bỏng anh tưởng như cô đang khỏa thân trước mặt anh”. Mỗi một đặc

12


điểm ngoại hình lại là một vẻ đẹp của Komako nhưng có thể nói, nó đều gợi
nên một vẻ đẹp tràn trề, đầy sức sống và rực rỡ ở người phụ nữ này.
Vẻ đẹp ngoại hình đầy sức sống còn được miêu tả qua sống mũi và đôi
môi của Komako. Kawabata đã đặc tả đôi môi của Komako với vẻ đẹp đầy
quyến rũ: “Đôi môi của cô thì giống như một bông hoa lúc chụm lúc nở, nồng
nàn, sống động và khát khao. Ngay cả khi cô không nói gì, đôi môi cô cũng
rất linh hoạt và hình như tự nó luôn chuyển động. Nếu bị nứt nẻ hoặc nhăn
nheo, hoặc chỉ nhợt nhạt thôi, đôi môi có thể trông sẽ hơi khó chịu, nhưng
đằng này, môi cô lại mịn màng đỏ mọng đầy sức sống”. Từng cử chỉ, động

tác, từng biểu hiện của đôi môi ấy đều được Shimamura ghi lại trong ấn tượng
về sự căng mọng, tràn đầy sức sống, khi cô hát cử động cặp môi thật quyến
rũ: “Chúng căng lên chỉ cốt để sau đó dãn ra buông thả hơn – đó cũng là biểu
lộ của toàn bộ thân thể cô, căng lên giây lát để rồi lả lơi hơn đầy nữ tính trong
sự trẻ trung, đẹp đẽ của cô”. Cùng với đôi môi, sống mũi cô càng tôn thêm nét
thanh tú của khuôn mặt, toát lên cái vẻ thanh sạch, tinh khiết và những vẻ đẹp
vô hình mà Shimamura đã cảm nhận được: “Mũi cô thanh tú và cao, vẻ côi
cút trên gương mặt khiến anh cảm động và gợi một chút buồn…”.
Vẻ đẹp trong sáng của Komako còn được bộc lộ ở dáng người thẳng ra
“trong một tư thế khiến cô lại càng trẻ trung hơn bao giờ hết”, trong giọng nói
“thẳng thắn, tính tự nhiên hoàn toàn đi thẳng vào tình cảm”. Cảm nhận vẻ đẹp
trong sáng, thánh thiện của cô là một ấn tượng mạnh khiến Shimamura dường
như lúc nào cũng nhận thấy ở mỗi đặc điểm ngoại hình của cô, nhưng vẫn
luôn bất ngờ về nó, đến mức có cảm tưởng rằng diễn tả nhiều đến thế nhưng
anh vẫn cảm thấy chưa hết được vẻ đẹp thánh thiện của Komako. Một vẻ đẹp
trong sáng đến mức thánh thiện đã gây cho Shimamura nhiều cảm xúc: từ
sững sờ, sung sướng, bối rối đến cảm thấy có lỗi, hổ thẹn khi chinh phục cô
quá dễ dàng và càng yêu quý trân trọng cô hơn bao giờ hết.

13


Sự gợi cảm quyến rũ mạnh mẽ của Komako là một sự tổng hòa được
cảm nhận bởi tất cả các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác,
cảm giác, và bằng cả tâm hồn Shimamura. Phải chăng vẻ đẹp mà Komako có
được là bởi nàng “đã được thấm đẫm những ngọn nguồn thần diệu, những sức
mạnh huyền bí và những đức hạnh của thiên nhiên ở đây mà có lẽ nàng
không hay biết”.
1.2.1.2. Yoko – một dáng vẻ cổ xưa huyền bí
Có thể nói, nhân vật Komako và Yoko, là những hình tượng nhân vật

tiêu biểu cho người phụ nữ Nhật Bản. Cả hai nhân vật đều được vẽ bằng
những nét vẽ tuyệt vời, thể hiện một vẻ đẹp lộng lẫy, khiến “chim sa cá lặn”,
nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, nói như Nguyễn Du thì đó
là: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.Mặc dù Yoko ít được Kawbata
chú ý miêu tả hình dáng bên ngoài, nhưng chỉ qua một vài nét phác thảo thôi,
ta cũng thấy được một nhan sắc “nghiêng thành” của một thiếu nữ vùng cao,
sắc đẹp đó làm mê mẩn cả những người lần đầu tiên thấy nàng, một nét đẹp
cổ xưa huyền bí.
Vẻ đẹp bên ngoại của Yoko không được miêu tả một cách đầy đủ, cũng
không quá nhiều nhặn trong tác phẩm, những ấn tượng về ngoại hình của
nàng chỉ hiện lên thông qua điểm nhìn và cảm nhận của Shimamura. Và bức
chân dung về ngoại hình của Yoko cũng chỉ có hai nét phác thảo chính: đôi
mắt, trang phục và một vài nét về gương mặt, còn lại tất cả đều là cảm nhận
của Shimamura. Lần đầu tiên Shimamura gặp Yoko là lúc họ lên tàu, nhưng
lúc đó, vẻ đẹp lạnh lùng của nàng khiến Shimamura không dám đối diện nhìn
thẳng: “Anh chỉ mới thoáng nhìn đã phải cụp ngay mắt xuống vì quá sửng sốt
trước sắc đẹp của nàng và vẻ lạnh lùng xa cách của nàng khiến anh e ngại”.Sự
trong sáng, thánh thiện của Yoko đã được bộc lộ ở ngay ngoại hình, tạo nên
một sức quyến rũ của nội lực huyền bí. Vẻ lạnh lùng ấy đã ám ảnh

14


Shimamura sâu sắc, cuốn hút Shimamura, và trở thành niềm khao khát không
thể với tới, dáng vẻ ấy khiến shimamura nghĩ tới một nhân vật xa xưa trong
huyền thoại hơn là một con người trong thế giới thực tại: “Dáng vẻ vẫn
nghiêm trang và quý phái,cảm giác đầu tiên của anh làm anh ít nghĩ tới chính
nàng mà lại nghĩ nhiều tới một nhân vật nào đó xa xưa, tới một con người lý
tưởng nào đó của thế giới huyền thoại”, “Cái lạnh lùng ở Yoko, mặc dù nàng
vẫn nhiệt tình chăm sóc người ốm, như đã thấm vào Shimamura và làm anh

nản lòng”. Trong thời gian ở lại Xứ tuyết, cũng nhiều lần Shimamura tiếp
xúc, nói chuyện trực tiếp với Yoko, nhưng lần nào anh cũng ấn tượng sâu sắc
trước cái phong thái không bao giờ thay đổi, ngay cả trong tình huống xúc
động nhất, khi Yoko vừa chạy bộ hai cây số để tới cầu xin Komako về vì
Yukio đang hấp hối “Shimamura đứng đó sửng sốt tự hỏi tại sao bao giờ nàng
cũng biết điều đến thế, nghiêm túc đến thế, anh lại còn tự trách mình đã có
những ý nghĩ như vậy trong lúc này”. Cái sức hấp dẫn kì lạ và mãnh liệt từ
Yoko phải chăng là nét đẹp ngàn đời của người phụ nữ Nhật Bản kết tụ lại nơi
nàng, một nét đẹp truyền thống, cổ xưa huyền bí xa vời chỉ có thể ngắm nhìn
mà không với tới được.
Miêu tả vẻ đẹp bên ngoài của Yoko, Kawabata đặc biệt chú ý miêu tả đôi
mắt, một đôi mắt cháy lửa hút hồn người. Trên chuyến tàu đêm tới Xứ tuyết,
Shimamura vô tình vạch tay lên tấm kính cửa sổ mờ hơi nước, và anh đã sững
sờ, suýt kêu lên một tiếng khi ở đó xuất hiện một con mắt phụ nữ. Tấm kính
cửa sổ như một tấm gương chiếu rõ khuôn mặt cô gái ngồi ở phía bên kia với
đôi mắt có vẻ đẹp kì lạ, “sự căng thẳng ở con mắt đăm đăm của nàng, với hai
hàng mi sững lặng” đã khiến chàng lãng tử Shimamura mê mẩn. Và “ánh mắt
tuyệt vời, ánh mắt xuyên thủng cả người ai đó bắt gặp” với cái nhìn ngấn
nước đã tạo nên vẻ quyến rũ của “một vẻ đẹp huyền bí đến xiêu lòng”. Ánh
mắt liếc xéo của Yoko như để lại một vết bỏng giữa trán Shimamura, và cái
ấn tượng sâu sắc nhất mà Shimamura bị ám ảnh mãi không thôi, đó là khi ánh

15


lửa ở một ngọn núi xa trùng khít với đồng tử của Yoko “Một thế giới đẹp
khôn tả mà Shimamura cảm thấy thấm tận vào tim anh, anh bàng hoàng khi
một ánh lửa xa tít trong núi bỗng lóe sáng ở giữa gương mặt đẹp của người
đàn bà trẻ, khiến cho vẻ đẹp không thể nào kể xiết ấy đạt tới đỉnh điểm”.
Chàng lãng tử ấy như chìm đắm trong vẻ đẹp choáng ngợp toàn bộ tâm trí lẫn

con người mình “Shimamura nhìn dõi theo ánh sáng từ từ dịch chuyển trên
khuôn mặt mà không làm mờ nó, đó là một đốm lửa lạnh lẽo thấp thoáng rất
xa. Và khi nó rơi vào đúng đồng tử của người đàn bà trẻ, khi ánh mắt và ánh
lửa trùng khít nhau. thì đó là một vẻ đẹp huyền diệu lạ kì, con mắt sáng rực
như lênh đênh trên đại dương đêm tối và trên những cơn sóng xô nhanh của
các núi non”. Vẻ bừng sáng trong đôi mắt của Yoko được miêu tả với ánh
sáng lóe lên trong tấm kính trên toa tàu đã cho thấy một vẻ đẹp phi thực hiện
lên trong ngoại hình của người phụ nữ này. Và vẻ đẹp phi thực ấy nhiều lần
ám ảnh tâm trí Shimamura, khiến cho anh cảm thấy việc ngắm nhìn vẻ đẹp ấy
đối với anh như một giấc mộng “Và anh nhớ lại vẻ đẹp tinh khiết, khó tả nên
lời của đốm lửa lạnh lẽo ở xa kia, vẻ thần tiên của điểm sáng ấy khi nó dịch
chuyển qua khuôn mặt của người đàn bà trẻ… ánh sáng ấy trong một lúc đã
rọi chiếu đầy vẻ siêu nhiên cái nhìn của nàng. Sự say đắm tuyệt diệu và bí ẩn
của cái nhìn ấy đã được trái tim Shimamura đáp lại tối hôm ấy bằng cách nó
đập gấp gáp hơn”. Như vậy, nếu như Komako với ánh mắt giống như trẻ thơ
thì đôi mắt của Yoko được đặc tả với vẻ đẹp huyền diệu đầy cuốn hút, qua đó
ta thấy được vẻ đẹp khác biệt giữa các nhân vật của Kawabata, thể hiện tài
năng quan sát hết sức tinh tế của ông. Với đôi mắt cháy lửa, Kawabata đã
khiến vẻ đẹp của Yoko trở thành nỗi ám ảnh đối với Shimamura cũng như
độc giả và khiến cho vẻ đẹp của nàng trở nên siêu thực.
Bên cạnh đôi mắt được miêu tả nhiều nhất, gương mặt quyến rũ nhưng
lạnh lùng, xa cách của Yoko được miêu tả tới chín lần. Ngắm nhìn gương mặt
xinh đẹp ấy, Shimamura như quên hết tất cả, phớt lờ mọi thứ, thậm chí anh

16


như đang mê đi trước bức tranh vừa không thực lại vừa siêu nhiên, và không
phút nào anh cảm thấy bất nhã khi chăm chăm ngắm nhìn cô gái ấy.
Shimamura không thể không thừa nhận rằng vẻ đẹp của Yoko “có sự ám ảnh

quyến rũ và huyền diệu” với “một khuôn mặt gợi cảm đậy nữ tính và tuổi
trẻ”. Mặc dù luôn e ngại trước dáng vẻ nghiêm trang, quý phái của Yoko
nhưng trước “sắc đẹp kì lạ của khuôn mặt… Anh quên cả bản thân anh, anh
hoàn toàn bị cuốn hút vào những điều thần diệu và không biết mình mơ hay
tỉnh”. Xúc động sâu sắc trước cái đẹp tới mê người, Shimamura như người
đang say, chàng không ngừng ngắm nhìn và cảm nhận “ và gương mặt xinh
đẹp và cảm động ấy như thể hất tất cả cái buồn tẻ âm u xung quanh. Hình ảnh
gương mặt đó có vẻ phi thực và nếu vậy cũng phải trong suốt”. Khuôn mặt ấy
dù ở trạng thái cảm xúc nào cũng toát lên một vẻ đẹp kì diệu, khiến cho
Shimamura có nhiều cảm xúc khác nhau “Mặt nàng sững lặng như một cái
mặt nạ, vẻ nghiêm nghị đến nỗi không biết nàng kinh ngạc, khiếp sợ hay giận
dữ. Một gương mặt mà Shimamura thấy trong trắng và giản dị khác thường”.
Cái vẻ nghiêm nghị và lạnh lùng toát ra từ gương mặt thiên thần ấy đã tạo một
ấn tượng sâu sắc trong lòng Shimamura, khiến Shimamura không khỏi
ngượng ngùng, lúng túng mỗi khi đối diện.
Vẻ đẹp truyền thống cổ xưa qua bề ngoài của Yoko còn thể hiện qua
trang phục mà nàng mặc. Shimamura không khai thác những đặc điểm khác
về ngoại hình mà tiếp tục miêu tả những đặc điểm gây ấn tượng mạnh với anh
“Anh chỉ cần nhìn cái cách thức nàng mặc chiếc quần bakama miền núi,… :
nhưng mẫu hình trang nhã ở đai thắt lưng của nàng chỉ lộ ra một nửa ở phía
trên chiếc quần rộng xẻ ống như rọi sáng những đường kẻ nâu và kẻ đen xấu
xí ở vải quần, đồng thời làm cho hai ống tay dài ở áo kimono bằng len của
nàng có vẻ quyến rũ hơn”. Bộ trang phục và cách ăn mặc của Yoko không có
gì nổi bật, thậm chí có phần giản đơn, xấu xí nhưng dưới con mắt của
Shimamura, mọi thứ dù xấu hay đẹp đều góp phần tôn thêm vẻ đẹp quyến rũ

17


của nàng. Tất cả những đặc điểm ngoại hình của Yoko qua con mắt nhìn của

Shimamura được miêu tả đầy tính thẩm mĩ và phi thực, tạo nên những đặc
trưng nổi bật về ngoại hình của Yoko, một dáng vẻ cổ xưa, huyền bí.
Trong tác phẩm, thời lượng tác giả miêu tả Yoko không nhiều nhưng
không lần nào không nhắc đến ấn tượng của vẻ đẹp đầy gợi cảm và quyến rũ
của nàng đối với Shimamura khiến anh tự thấy “chẳng biết vì sao, sự thực ra
sao, khi mình bị người con gái ấy hút hồn”. Vẻ đẹp của cô tác động vào tâm
hồn Shimamura một cách mạnh mẽ. Mỗi lần gặp gỡ, cô lại để lại một ấn
tượng mới, một sự ngạc nhiên mới dù cô không cố tình thể hiện, mà hơn thế
cô còn tỏ ra “lạnh lùng” với dáng vẻ lúc nào cũng “nghiêm trang và quý phái”
khiến cho Shimamura nản lòng nhưng rồi lại bị cuốn hút hơn. Từ những ấn
tượng cảm nhận về ngoại hình của Yoko, ta thấy toát lên những vẻ đẹp truyền
thống của người phụ nữ Nhật Bản, rất tiêu biểu cho vẻ đẹp Nhật Bản, lặng lẽ,
thanh cao, cổ xưa, huyền bí.
1.2.2. Đặc điểm tính cách nhân vật nữ
Thạch Lam từng nói: “cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang
cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi sự vật tầm thường. Công việc của nhà văn là
phát hiện cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo che lấp
của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Mỗi nhà
văn đều có sự lựa chọn riêng cho tác phẩm và sự nghiệp sáng tác của mình.
Từ xưa đến nay, nhiều người đã chọn phụ nữ làm đối tượng thẩm mĩ như R.
Tagore, M. Goky, L. Tônxtôi, Nguyễn Du, Thạch Lam,… Tuy nhiên, với
Y.Kawabata ông có cách nhìn riêng về người phụ nữ. Với ông, người phụ nữ
đẹp phải là sự kết tinh của truyền thống, tâm hồn và tính cách dân tộc.
Người phụ nữ xuất hiện với một số lượng đông đảo như trong tác phẩm
của Y.Kawabata là một hiện tượng khá đặc biệt. Trong Xứ tuyết, nhân vật
chính là nữ có hai người là Yoko và Komako, còn nhân vật chính là nam thì

18



chỉ có Shimamura. Đi sâu vào tác phẩm của Kawabata ta thấy rõ một tình cảm
đặc biệt của ông dành cho người phụ nữ. Với ông, phụ nữ là hiện thân của cái
đẹp, là biểu tượng hội tụ cái đẹp của cuộc sống. Ông đã khám phá ra vẻ đẹp
của họ từ những góc nhìn rất độc đáo và “Ở những chỗ mà không ai ngờ tới”.
Trong Xứ tuyết, đó là vẻ đẹp của những cô gái nơi xa xôi, hẻo lánh, phía bắc
Nhật Bản, hơn nữa lại là những geisha. Vẻ đẹp của nàng Komako không chỉ
là sức quyến rũ của ngoại hình mà là vẻ đẹp tinh thần, tâm hồn, vẻ đẹp của
sức sống tràn trề, của tình yêu nồng nhiệt, say mê, hết mình, của sự hồn nhiên,
trong sáng, chân thành, đam mê trong từng hành động, cử chỉ, trong cả lời ca
tiếng đàn của cô. Vẻ đẹp đó là sự hội tụ sức mạnh, tinh thần của thiên nhiên
xứ tuyết. Ở Yoko lại có một vẻ đẹp riêng, khác biệt, nàng là biểu tượng cho
vẻ đẹp tinh thần trong sáng, thuần khiết mà xa với không thể với tới, biểu
tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Nhật Bản, một vẻ đẹp lặng lẽ, thanh cao,
dịu dàng, tận tụy, thủy chung với tình yêu bao la của người mẹ.
Với Y.Kawabata, người phụ nữ là phương tiện tốt nhất để biểu thị cái
đẹp và tư tưởng thẩm mĩ của ông. Vẻ đẹp dù trong trắng, quyến rũ, tuyệt vời
đến mức nào thì cũng hết sức mong manh, không bền vững và cái đẹp là hiện
hữu nhưng không hẳn ai cũng cảm nhận được giá trị đích thực của nó để trân
trọng, nâng niu, giữ gìn. Y.Kawabata đã giành cho người phụ nữ một sự quan
tâm đặc biệt, nhưng họ đều là những người phụ nữ đẹp bất hạnh. Người lữ
khách đi tìm cái đẹp gặp gỡ rồi chia xa, cái đẹp hiện hữu rồi mất đi, chính vì
thế mà hành trình đó vô tận muôn đời.
Trong Dẫn luận nghiên cứu văn học nhà nghiên cứu G.N.Pôxpêlốp
viết: “Thể hiện tâm lý (psychologisme) là phương thức quan trọng nhất để
chiếm lĩnh đời sống con người bằng văn học nghệ thuật. Thuật ngữ này chỉ là
một sự tái hiện cá thể hóa chi tiết các thể nghiệm của nhân vật trong quan hệ
qua lại của chúng với nhau và trong sự vận động” [10, 216]. Với ưu thế của
nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu sáng tạo, văn học có khả năng khám phá

19



và tái hiện một cách sâu sắc, tinh tế thế giới bên trong của con người. Được
xem là một trong những tác giả tiêu biểu của khuynh hướng tiểu thuyết hướng
nội thế kỉ XX, mặc dù toàn bộ tiểu thuyết của ông đều được kể theo ngôi thứ
ba, nhưng ông không trần thuật theo lối khách quan với tư cách “thượng đế
thông toàn” như truyền thống mà ông dịch chuyển điểm nhìn vào nhân vật để
khách quan hóa tự sự và khẳng định vai trò của độc giả trong tiếp nhận văn
học. Và với “nghệ thuật viết văn tuyệt vời và lối tư duy của một tâm hồn Nhật
Bản”, ông “không bao giờ tham gia trực tiếp vào câu chuyện nhưng lại kể với
tư thế của một người trong cuộc” khiến cho việc khám phá tâm lý nhân vật
một cách sâu sắc, hết sức chân thực mà hấp dẫn
Trong Xứ tuyết, qua con mắt nhìn của Shimamura, hay chính là của
Kawabata, vẻ đẹp của người phụ nữ được miêu tả trong sự đối lập với đàn
ông. Mỗi người phụ nữ Nhật Bản trong sáng tác của Kawabata đều như mang
trong mình một trái tim bồ tát, người phụ nữ càng nhân hậu, thánh thiện, nhạy
cảm, vị tha, bao dung thì người đàn ông lại càng méo mó, vô cảm. Komako
cuối cùng cũng phát hiện ra hình như đàn ông không biết yêu. Tình yêu cháy
bỏng, mãnh liệt cùng sự hi sinh, tận tụy, dâng hiến hết mình của Komako
dường như không thể lay động được trái tim vô cảm của Shimamura. Chính
sự méo mó, vô cảm của người đàn ông lại làm nền nổi bật cho cái đẹp của
người phụ nữ. Trong trái tim của người phụ nữ không hề có đàn ông xấu, tất
cả những gì xấu xa khi đi qua trái tim người phụ nữ đều trở nên tốt đẹp cả. Đó
chính là khả năng thanh lọc của trái tim, trái tim người phụ nữ cũng là cái đẹp
và có khả năng cứu rỗi cuộc đời. Đa số những người phụ nữ trong sáng tác
của Kawabata, xét về cuộc sống riêng tư đều là những người bất hạnh, chịu
nhiều thiệt thòi trong cuộc sống gia đình. Dường như với họ, không phải cuộc
sống lúc nào cũng bình lặng, ngược lại, họ phải chịu những bất hạnh mà lẽ ra
họ không phải chịu. Nhưng trên hết, vượt qua nỗi đau, tâm hồn và nhân cách
của họ càng trở nên cao đẹp lạ thường.


20


×