Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

tiểu luận môn quản lý cơ sở vật chất và thiết bị trong giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.93 KB, 36 trang )

Đề bài:
Câu 1: Những biện pháp cơ bản của hiệu trưởng đối với việc quản lý:
trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện?
Câu 2: Phân tích và liên hệ thực tiễn các nguyên tắc chung của quản lý
cơ sở vật chất – thiết bị trường học?

1


PHẦN BÀI LÀM
Câu 1:
Cơ sở vật chất – thiết bị trong giáo dục mà cụ thể là trường sở, thiết bị
giáo dục và thư viện là một trong những thành tố cấu thành quá trình giáo
dục, và là thành tố có vai trò quan trọng trong đảm bảo chất lượng giáo dục.
Quản lý cơ sở vật chất và thiết bị trong giáo dục là một trong những
nhiệm vụ quan trọng cơ bản của người hiệu trưởng.
1. Khái niệm và vị trí vai trò của trường sở, thiết bị giáo dục và thư
viện.
Trước hết chúng ta cần nắm được khái niệm cơ sở vật chất – thiết bị
giáo dục. Một cách đơn giản thì có thể hiểu cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục
là tất cả các phương tiện vật chất được sử dụng vào việc giảng dạy, học tập và
các hoạt động mang tính giáo dục khác để đạt được mục tiêu giáo dục. Cơ sở
vật chất – thiết bị trong giáo dục bao gồm trường sở, thiết bị giáo dục và thư
viện.
1.1. Khái niệm và vị trí vai trò của trường sở:
1.1.1. Khái niệm:
Trường sở là nơi tiến hành dạy học và giáo dục, đó là những tòa nhà,
sân chơi, vườn trường… và quang cảnh tự nhiên bao quanh trường.
Theo nghĩa bao quát hơn thì trường sở thống nhất hữu cơ với hoàn
cảnh, nó bao gồm: thiên nhiên, lao động và hoạt động xã hội của những người
xung quanh.


1.1.2. Vị trí – vai trò của trường sở.
- Trường sở là một trong các yếu tố cấu thành nên cơ sở vật chất – thiết
bị giáo dục, là điều kiện đầu tiên để hình thành một nhà trường.
- Trường sở là trung tâm văn hóa, khoa học và kỹ thuật của một địa
phương

2


- Trường sở là nơi tuyên truyền nếp sống văn hóa mới, phổ biến các
thông tin khoa học kỹ thuật ở địa phương.
- Trường sở là hình ảnh đẹp, là niềm tự hào của mọi người, là sự thể
hiện cho truyền thống cần cù, chăm chỉ, hiếu học của bao thế hệ tại địa
phương.
Điều 2 Luật Giáo dục đã khẳng định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người mới Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Đáp ứng yêu cầu trên, mỗi trường học cần phải có một môi trường
tương ứng bao gồm các yếu tố có tác dụng giáo dục trực tiếp đến học sinh.
Để hình thành nhân cách và phẩm chất đạo đức cho học sinh ngoài sự
giáo dục và dạy dỗ của nhà trường thì trường sở phải có phòng truyền thống,
phòng để sinh hoạt đoàn đội; để học sinh trở thành người có tri thức, ngoài sự
giảng dạy của giáo viên trường sở cần có: phòng học với bàn ghế, bảng và các
trang thiết bị bên trong đúng quy cách, phòng bộ môn với các điều kiện riêng
biệt cho đặc trưng từng môn học, có phòng thiết bị giáo dục, có phòng làm
thư viện với đầy đủ sách báo, tài liệu tham khảo cho học sinh tự học; để giáo
dục thể chất sức khỏe cho học sinh trường sở phải có: sân bãi, nhà luyện tập
thể dục thể thao, các dụng cụ thể dục thể thao; để giáo dục thẩm mỹ vệ sinh

trường sở phải có khung cảnh nhà trường xanh – sạch – đẹp, có cây xanh
bóng mát, bãi cỏ vườn hoa, tất cả các loại, tất cả các loại phòng học phải sạch
sẽ, sáng sủa…
Trường sở là tổng thể gồm nhiều khối công trình, có thiết kế cấu trúc
đặc trưng riêng, có các tính năng riêng biệt nhưng tựu trung là góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục. Nghiên cứu ở đây là nghiên cứu mối quan hệ giữa:
Mục đích dạy học – phương pháp dạy học – phương tiện dạy học. Cũng chính

3


là nghiên cứu mối quan hệ giữa: Mục tiêu giáo dục – Nguyên lý giáo dục –
Cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục. Và chỉ thực hiện một cách đầy đủ mục tiêu
với một cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục tương ứng phù hợp, trong đó có
trường sở thì mới góp phần vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài để nhằm phục vụ cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Điều 103 của Luật Giáo dục đã khẳng định: “Ưu tiên đầu tư xây dựng
trường học; Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
các cấp có trách nhiệm đưa việc xây dựng trường học, các công trình thể dục
thể thao, văn hóa, nghệ thuật phục vụ giáo dục vào quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương; ưu tiên đầu tư tài chính và đất
đai cho việc xây dựng trường học và ký túc xá cho học sinh, sinh viên trong
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Vì vậy, để làm tốt các vai trò trên thì toàn bộ khung cảnh nhà trường
với các công trình phải được xây dựng đúng chuẩn mực, trang bị đầy đủ
khang trang sạch đẹp thể hiện nét hiện đại của nhà trường xã hội chủ nghĩa
bền vững theo thời gian, phù hợp với tâm sinh lý của học sinh, tạo được cảm
giác yên tâm của các bậc phụ huynh, đồng thời nó sẽ có giá trị giáo dục hết
sức to lớn, gây ấn tượng mạnh và lưu lại suốt đời trong ký ức học sinh.

1.2. Khái niệm và vị trí vai trò của thiết bị giáo dục.
1.2.1. Khái niệm thiết bị giáo dục:
Thiết bị giáo dục bao gồm thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập ở tại
lớp, thiết bị phòng thí nghiệm, thiết bị thể dục thể thao, thiết bị nhạc – họa và
các thiết bị khác trong xưởng trường, vườn trường, phòng truyền thống.
Nhằm đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện.
1.2.2. Vị trí – vai trò của thiết bị giáo dục:

4


- Thiết bị giáo dục là một trong những điều kiện vật chất của nhà
trường
- Thiết bị giáo dục có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện mục tiêu,
nguyên lý giáo dục của Đảng và Nhà nước: “Học đi đôi với hành, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”
- Thiết bị giáo dục đã nêu trong Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành
Trung ương 2 Khóa VIII: “… Tất cả các trường phổ thông đều có… các trang
thiết bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm trong chương trình. Sớm chấm
dứt tình trạng dạy chay” để nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
- Thiết bị giáo dục là công cụ lao động của giáo viên, là phương tiện
giúp học sinh dễ hiểu các khái niệm, dễ lĩnh hội kiến thức, giúp học sinh hình
thành các kỹ năng thói quen cần thiết, bước đầu luyện tập thực hành, lao động
ứng dụng trong đời sống.
- Thiết bị giáo dục có vai trò hết sức cần thiết cho các quá trình sư
phạm.
Thật vậy, thiết bị giáo dục mà hầu hết là các sản phẩm khoa học kỹ
thuật có chức năng xác định và mang tính mục đích sư phạm rất cao, chúng
chứa đựng một tiềm năng tri thức to lớn, đồng thời giữ vai trò là đối tượng

nhận thức, ví dụ như: kính hiển vi là thiết bị giáo dục dùng để quan sát các vật
nhỏ bé mà mắt thường không thấy được, nhưng trong môn quang học kính
hiển vi lại là đối tượng cần được người học nhận thức về mặt cấu tạo và các
quy luật quang học. Có thể nói thiết bị giáo dục vừa là phương tiện để nhận
thức vừa lại là đối tượng chứa nội dung cần nhận thức
Hiện nay có rất nhiều thiết bị giáo dục mới được sử dụng trong dạy
học, đặc biệt là việc ứng dụng tin học. Với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa
học và công nghê, thiết bị giáo dục trong nhà trường ngày càng nhiều đã làm
thay đổi một cách căn bản về phương pháp, làm cho quá trình giáo dục sinh
động và hiệu quả hơn.

5


Thiết bị giáo dục chẳng những tạo điều kiện đi sâu vào các đề tài
nghiên cứu, mà còn cho phép trình bày các vấn đề trừu tượng một cách sinh
động, do khả năng sư phạm to lớn hỗ trợ cho giáo viên và học sinh như: tăng
tốc độ truyền tải thông tin mà không làm giảm chất lượng thông tin; thực hiện
các phương pháp trực quan, thực nghiệm, tạo ra những vùng hợp tác giữa thầy
và trò, khả năng thực hành, củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng làm việc,
học tập, sự khéo léo chân tay, bồi dưỡng khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri
thức, tạo ra sự hứng thú lôi cuốn khi học, tiết kiệm thời gian trên lớp, cải tiến
các hình thức lao động sư phạm, tạo khả năng tổ chức một cách khoa học và
điều khiển các hoạt động giáo dục.
Bên cạnh các thiết bị giáo dục được sản xuất theo các quy trình công
nghiệp, cũng cần chú ý đến các thiết bị giáo dục tự làm. Cơ quan UNESCO
của Liên Hợp Quốc đã khuyến khích và bảo trợ cho hoạt động này vì nó
hướng vào việc khai thác trí tuệ và lao động của thầy và trò từ các nguyên liệu
tại địa phương để góp phần giải quyết kịp thời yêu cầu dạy và học. Do đó,
việc tự làm thiết bị giáo dục được coi là một hoạt động có tính chất nghiệp vụ

của nhà trường, của mỗi giáo viên, là hoạt động có ý nghĩa giáo dục lại vừa có
ý nghĩa kinh tế.
Đánh giá chung về hiệu quả của quá trình giáo dục và đào tạo thì mỗi
phương pháp gắn liền với từng loại phương tiện sẽ đạt hiệu quả như sau:
- 10% đối với những gì ta đọc được.
- 20% đối với những gì ta nghe được.
- 30% đối với những gì ta nhìn được.
- 50% đối với những gì ta nhìn và nghe được
- 80% đối với những gì ta nói được
- 90% đối với những gì ta nói và làm được.
Do đó trong nhà trường cần phải có thiết bị giáo dục đầy đủ để học sinh
thực hành thí nghiệm.

6


1.3. Khái niệm và vị trí vai trò của thư viện
1.3.1. Khái niệm thư viện.
UNESCO (Tổ chức Văn hoá Giáo dục và Khoa học của Liên Hợp
Quốc) đã đưa ra định nghĩa sau: “Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi của
nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào của sách, ấn phẩm định kỳ hoặc các tài
liệu khác kể cả đồ hoạ, nghe nhìn và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ
chức cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó nhằm mục đích thông tin, nghiên
cứu khoa học, giáo dục hoặc giải trí”
Tại điều 1, Pháp lệnh Thư viện của nước ta, thư viện được định nghĩa
như sau: “Thư viện có chức năng, nhiệm vụ giữ gìn di sản thư tịch của dân
tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu
trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học
tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học,

công nghệ, kinh tế, văn hoá, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước”.
1.3.2. Vị trí của thư viện và sách
* Vị trí của thư viện.
- Thư viện trường học là một trong những yếu tố cơ sở vật chất quan
trọng của nhà trường, là phương tiện không thể thiếu được để phục vụ cho
việc dạy và học. Lênin đã chỉ rõ: “Sự nghiệp thư viện là một bộ phận quan
trọng của cách mạng văn hóa và tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân”
- Vị trí của thư viện trường học đã được xác định rõ ở các Nghị quyết
của Đảng và các văn bản pháp quy
- Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII: “Tích cực xây dựng trường sở,
tăng thêm các thiết bị và thư viện, tủ sách cho các trường bổ túc văn hóa và
trường phổ thông”

7


- Nghị quyết Trung ương 2 – khóa VIII: “Tất cả các trường phổ thông
đều có tủ sách, thư viện và các trang thiết bị tối thiểu để thực hiện các thí
nghiệm trong chương trình. Sớm chấm dứt tình trạng “dạy chay”…”
- Điều 1 – Quy chế thư viện kèm theo Quyết định 61/1998/QĐBGD&ĐT ngày 6/11/1998 của Bộ Giáo dục và đào tạo cũng đã xác định:
“Thư viện trường phổ thông là một bộ phận cơ sở vật chất trọng yếu, trung
tâm sinh hoạt văn hóa và khoa học của nhà trường. Thư viện trường phổ
thông thuộc thư viện khoa học chuyên ngành giáo dục và đào tạo, nằm trong
hệ thống thư viện chung và thực hiện nghiêm chỉnh những văn bản quy phạm
pháp luật về công tác thư viện của nhà nước”
* Vị trí của sách
- Sách là một bộ phận của cơ sở vật chất của nhà trường. Có thể xem nó
là vũ khí, là công cụ của giáo viên và học sinh.
- Sách không chỉ là một thứ sản phẩm văn hóa – vật chất đơn thuần mà

là một thứ vật chất có tính chất đặc trưng vì trong đó nó chứa đựng những giá
trị tư tưởng, văn hóa, trí tuệ và tình cảm mà nhân dân thế giới và dân tộc đã
tích lũy được, đã khẳng định những giá trị ấy và truyền lại cho đời sau.
- Khẳng định vị trí của sách Lênin nói: “Không có sách thì không có tri
thức, không có tri thức thì không có Chủ nghĩa cộng sản” (Lênin TT, NXB.ST
– HN 1976 trang 175)
- Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Nếu tôi là ông thầy thì
điều tôi giảng trên lớp chưa phải là điều quan trọng mà sách tôi chỉ cho học
sinh đọc, mới là điều quan trọng nhất” (Phát biểu tại hội nghị giáo viên dạy
giỏi toàn quốc miền Bắc).
- Nhà giáo dục Nga Xu-khom-lin-xki nói về tầm quan trọng của sách và
của thư viện nhà trường: “Sách là ngọn đèn sáng vĩnh viễn, là nguồn gốc làm
giàu trí lực và đời sống tinh thần của con người. Đọc sách là con đường đi tới
trái tim của học sinh. Chừng nào trước mắt các em không bừng cháy ngọn lửa

8


sáng chói do những con người mà tên tuổi của họ trở thành ngọn lửa dẫn
đường cho nhiều thế hệ, thì các em không thể nhìn thấy tường tận lý tưởng
của chính bản thân các em. Nếu như các bạn muốn cho tuổi trẻ luôn luôn
thèm khát với kiến thức, thì các bạn hãy quan tâm đến lò lửa quan trọng nhất,
chủ yếu nhất của nền văn hóa tinh thần, tức là các thư viện”
1.3.3. Vai trò của thư viện và sách
* Vai trò của thư viện
- Thư viện trường học không chỉ là một bộ phận cơ sở vật chất trọng
yếu mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa và khoa học của nhà trường.
- Thư viện góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, tham
gia tích cực vào việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị và nếp sống văn hóa mới
cho các thành viên trong nhà trường

- Thư viện giúp bồi dưỡng kiến thức cơ bản về khoa học thư viện và
xây dựng thói quen tự học, tự nghiên cứu cho học sinh
- Vì vậy, “Sự nghiệp thư viện phát triển sẽ củng cố thêm nhà trường và
làm cho công việc của nhà trường dễ dàng hơn” (Krupskaia – TTGDH- trang
20)
* Vai trò của sách
- Sách báo là nguồn sức mạnh để nhận thức cuộc sống, giáo dục con
người và là công cụ lao động của con người
- Sách báo giúp bồi dưỡng thêm tri thức cho các nhà giáo dục, góp
phần cập nhật, hiện đại hóa những phương thức giáo dục mới nhằm thực hiện
tốt mục tiêu đào tạo
- Sách cũng là nguồn sức mạnh ảnh hưởng đến nhận thức, tình cảm, lý
trí, trí tuệ và tâm hồn con người
- Sách giúp con người tìm hiểu quá khứ, nắm vững hiện tại và hiểu biết
tương lai
- Sách giúp nâng cao khả năng độc lập suy nghĩ sáng tạo trong học tập

9


- Sách là phương tiện tái hiện giờ lên lớp, mở rộng thêm kiến thức đã
học cho người học.
Từ những phân tích trên đã chứng minh một cách rõ ràng vai trò to lớn
của trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện trong sự nghiệp giáo dục. Muốn
đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục người hiệu
trưởng cần quan tâm và có những biện pháp quản lý phù hợp nhằm xây dựng,
duy trì bảo quản và khai thác có hiệu quả hệ thống cơ sở vật chất – thiết bị
trong giáo dục này.
2. Những biện pháp cơ bản của hiệu trưởng đối với việc quản lý:
trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện.

2.1. Vai trò và nhiệm vụ của hiệu trưởng trong việc quản lý cơ sở
vật chất – thiết bị trong giáo dục.
- Theo luật Giáo dục được Quốc hội ban hành năm 2005 và sửa đổi bổ
sung năm 2009 thì điều 54 và điều 58 đã nêu hiệu trưởng có nhiệm vụ quản lý
hoạt động của nhà trường và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu
chuẩn hóa, hiện đại hóa.
- Hiệu trưởng phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và làm cho mọi thành
viên của nhà trường nhận thức rõ vai trò của trường sở, thiết bị giáo dục và
thư viện trong mọi quá trình sư phạm và mối quan hệ của chúng với đổi mới
phương pháp và nâng cao chất lượng.
- Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm về trường sở, thiết bị giáo dục
và thư viện: chịu trách nhiệm bảo quản, sử dụng phát huy hiệu quả.
2.2. Những biện pháp cơ bản của hiệu trưởng đối với việc quản lý:
trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện.
2.2.1. Xây dựng kế hoạch về trường sở, thiết bị giáo dục và thư
viện:
Hiệu trưởng cần lập kế hoạch về trường sở, thiết bị giáo dục và thư
viện. Đó là kế hoạch xây dựng và mua sắm, bổ sung thường xuyên và kế

10


hoạch cải tạo, nâng cấp, sửa chữa để hình thành một hệ thống hoàn chỉnh cơ
sở vật chất – thiết bị trong giáo dục phục vụ nhu cầu dạy học và giáo dục.
Hiệu trưởng cần căn cứ vào kế hoạch kế hoạch chiến lược phát triển
nhà trường, kế hoạch năm học để xây dựng kế hoạch về cơ sở vật chất – thiết
bị trong giáo dục cho phù hợp. Trong kế hoạch về trường sở, thiết bị giáo dục
và thư viện đó phải hướng đến xây dựng môi trường sư phạm đảm bảo thuận
lợi cho việc sử dụng thiết bị dạy học. Môi trường sư phạm đối với vấn đề thiết
bị giáo dục ở đây được đặt ra trên bình diện tổng hợp. Đó là môi trường nhằm

nâng cao ý thức trách nhiệm của người quản lý nhà trường, nâng cao sự hăng
hái sử dụng thiết bị giáo dục của giáo viên vào việc đổi mới nội dung phương
pháp dạy học, nâng cao thói quen kết hợp học và hành của người học, ít nhất
qua việc nghiên cứu lý thuyết và thực hành thí nghiệm. Muốn vậy, người hiệu
trưởng cần:
- Xây dựng trường sở với các khối công trình đặc biệt là hệ thống lớp
học, phòng thí nghiệm, phòng thực hành, phòng bộ môn. Các phòng bộ môn
cần được xây dựng theo hướng ngày càng chuyên môn hóa, đảm bảo cho giáo
viên và học sinh có thể dạy học theo phòng bộ môn. Phòng bộ môn về thực
chất tạo ra những điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh sử dụng thiết
bị dạy học đảm bảo sự thoải mái về tâm lý, về vệ sinh học đường, về tổ chức
lao động một cách khoa học, gây được hứng thú học tập, phát triển tư duy kỹ
năng của học sinh trong giờ học.
Trong điều kiện chưa thể xây dựng phòng bộ môn cho từng môn học thì
có thể xây dựng phòng bộ môn có cùng chung tính đặc thù như: Phòng nghe
nhìn, phòng lý hóa, phòng kỹ thuật, phòng hóa sinh… và các phòng chuyên
dụng như phòng học tiếng nước ngoài, phòng tin học.
- Mua sắm thiết bị giáo dục theo yêu cầu của chương trình và kế hoạch
trang bị của trường. Có kế hoạch sử dụng nguồn kinh phí mua sắm đúng mục
đích, tuyệt đối không cắt xén. Hiệu trưởng nên xem chi tiết bảng giá từng loại

11


thiết bị, xem xét từ nhiều nguồn, nhiều cửa hàng khác nhau và tham khảo ý
kiến chuyên gia để lựa chọn được cơ sở vật chất – thiết bị trong giáo dục phù
hợp nhất. Nếu kinh phí có hạn nên lựa chọn những thứ cần thiết, cơ bản trang
bị trước, cần trang bị một số phương tiện Nghe – Nhìn, đưa máy vi tính vào
mục đích dạy học, tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh tiếp cận các
phương tiện dạy học hiện đại hiệu quả cao.

- Phải có kế hoạch xây dựng, trang bị cơ sở vật chất trước mắt và lâu
dài cho trường bằng các nguồn lực khác nhau: Ngân sách nhà nước, nhân dân
đóng góp, nguồn vốn tự có do lao động sản xuất, do nghiên cứu khoa học,
giáo viên và học sinh tự làm.
Cần có kế hoạch và tổ chức tốt việc huy động các nguồn lực phục vụ
cho việc mua sắm, trang bị cơ sở vật chất – thiết bị trong giáo dục. Tổ chức
các cuộc thi tự làm thiết bị trong giáo dục trong nhà trường, phát động phong
trào ủng hộ thiết bị giáo dục, sách cho các nhà trường. Thực tế cho thấy nhiều
giáo viên có khả năng và kinh nghiệm tự tạo ra các thiết bị giáo dục rẻ tiền mà
lại hiệu quả giáo dục khá cao, nhiều học sinh trong các nhà trường cũng có
thể cộng tác đắc lực với thầy dạy của mình để làm thiết bị giáo dục, khôi phục
lại các thiết bị đã bị hư hỏng, cải tiến thiết bị để sử dụng thuận tiện hơn, hiệu
quả hơn. Ngoài ra công tác này còn có ý nghĩa đối với việc trau dồi năng lực
sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở các nhà trường.
- Xây dựng kế hoạch từng năm về bảo quản, cải tạo, nâng cấp, mua
sắm, sửa chữa hoàn chỉnh hệ thống trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện.
- Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các
trường cần chú trọng xây dựng và phát triển thư viện điện tử. Thư viện điện tử
là thư viện có vốn tài liệu dưới dạng điện tử ( tạp chí điện tử (e- journal); sách
điện tử (e- book); các trang web; cơ sở dữ liệu; tài liệu điện tử trên CDROM, DVD- ROM; tài liệu điện tử truy cập trực tuyến trên mạng...). Hiệu
trưởng (nhất là đối với các trường đại học, cao đẳng) cần chỉ đạo người xây

12


dựng vốn tài liệu của thư viện điện tử, xây dựng mạng lưới truy cập dễ dàng
tạo điều kiện cho mọi giáo viên và người học có thể tìm kiếm và cập nhật.
2.2.2. Chỉ đạo nâng cao hiệu quả sử dụng trường sở, thiết bị trong
giáo dục và thư viện.
Khó có thể thực hiện được quá trình dạy học nếu thiếu hệ thống trường

sở, thiết bị giáo dục và thư viện. Nhưng không phải cứ có hệ thống này là tự
nó phát huy hiệu quả sư phạm. Thực tiễn cho thấy rằng mọi thiết bị đều thông
qua việc sử dụng vào mục tiêu giáo dục, dạy học mới phát huy hiệu quả.
- Trước hết hiệu trưởng cần nâng cao nhận thức đối với việc sử dụng
trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện. Một thói quen cố hữu là nhiều người
quản lý, nhiều giáo viên, học sinh, sinh viên vẫn xem thường tác dụng của
trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện. Thậm chí có những học sinh, sinh
viên khi được hỏi thì số lần đến thư viện trong suốt quá trình học tập chỉ đếm
trên đầu ngón tay.
Nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh sinh viên về việc sử dụng
trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện nhằm giúp họ ý thức được sự cần thiết
và có nhu cầu sử dụng thường xuyên hệ thống cơ sở vật chất – thiết bị trong
giáo dục này, tiến tới phát huy hiệu quả sử dụng chúng trong các giờ học.
Muốn vậy, người hiệu trưởng cần:
+ Bồi dưỡng giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn gắn với sử dụng
thiết bị giáo dục và đổi mới phương pháp. Tập huấn các phương pháp dạy học
cải tiến có kết quả trong đó phải sử dụng thiết bị dạy học.
+ Biểu diễn các tính năng đưa lại hiệu quả dạy học đối với các thiết bị
dạy học đang có.
+ Phát huy, khuyến khích, động viên giáo viên, học sinh tăng cường
khai thác sử dụng thư viện, thiết bị giáo dục, tiến hành cải tiến sáng tạo các
thiết bị giáo dục…

13


- Chỉ đạo các tổ bộ môn lên kế hoạch đào tạo thì nhất thiết trong kế
hoạch này phải có mục đề xuất các thiết bị giáo dục cần sử dụng. Mỗi tổ bộ
môn lại quy định cho giáo viên khi lên kế hoạch bài giảng cho mỗi chuyên đề
mình phụ trách phải có kế hoạch thiết bị giáo dục phục vụ cho bài giảng đó.

- Tổ chức kiểm tra thường xuyên việc sử dụng thiết bị trong giáo dục
của giáo viên: có thể kiểm tra đột xuất hoặc kiểm tra qua các đợt thao giảng,
dự giờ.
- Rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm khai thác, sử dụng trường
sở, thiết bị giáo dục và thư viện thông qua các cuộc họp toàn nhà trường, qua
tổ chuyên môn…
- Xây dựng các quy tắc, nội dung sử dụng trường sở, thiết bị giáo dục
và thư viện và bắt mọi người phải thực hiện, có thể đưa vào làm tiêu chí đánh
giá bình xét thi đua.
- Kịp thời giới thiệu được danh mục các thiết bị giáo dục mới, các tài
liệu mới mà nhà trường có. Hình thức giới thiệu rất phong phú, đa dạng: Tổ
chức buổi giới thiệu, đưa lên trang web của nhà trường… Với những học sinh
sinh viên khóa mới thì ngay từ đầu năm học nên tổ chức một buổi gặp gỡ trao
đổi giới thiệu tuyên truyền về thư viện nhà trường, về hệ thống các tài liệu
hiện có và những tài liệu mới khi được bổ sung… Tuyên truyền miệng do cán
bộ thư viện trực tiếp thực hiện hoặc mời diễn giả giới thiệu sách, tọa đàm
trao đổi về cuốn sách đã đọc, một cuốn sách mới phát hành.
- Tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn cách sử dụng thiết bị giáo dục nhất là
đối với những thiết bị mới.
- Chọn lựa, cử cán bộ phụ trách các phòng chức năng và giáo viên đi
học tập, dự các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và kỹ năng sử dụng cơ sở vật chất –
thiết bị giáo dục do các cơ quan quản lý tổ chức.
- Mời chuyên gia từ nơi khác đến trường bồi dưỡng, tập huấn cho cán
bộ, giáo viên về kiến thức, kỹ năng sử dụng các cơ sở vật chất – thiết bị giáo

14


dục. Đặc biệt là về phía giáo viên, đối với các thiết bị giáo dục mới lạ, cấu tạo
phức tạp, quy trình sử dụng nghiêm ngặt thì cho đi huấn luyện, tập dượt thật

thành thạo.
- Tổ chức tập huấn, hội thảo, báo cáo chuyên đề tại chỗ về các kỹ năng
sử dụng cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục. Người báo cáo, người hướng dẫn
được chọn trong số cán bộ giáo viên đã đưa đi bồi dưỡng hoặc đã am hiểu
tinh thông về kiến thức và kỹ năng sử dụng các thiết bị, máy móc. Thông qua
đợt tập huấn nhằm phổ biến các kiến thức thông tin mới về công nghệ, về kỹ
thuật tiên tiến.
- Tổ chức cho giáo viên tham quan nơi sản xuất, nơi cung cấp thiết bị
giáo dục hoặc tổ chức cho nhà sản xuất, nhà cung cấp thiết bị giáo dục đem
các thiết bị giáo dục đến chào hàng giới thiệu cho giáo viên.
2.2.3. Chỉ đạo bảo quản, giữ gìn trường sở, thiết bị giáo dục và thư
viện.
Thực tế thì đây là nội dung ít được các trường chú trọng, dẫn đến tình
trạng bị xuống cấp, mối mọt nhanh chóng của hệ thống trường sở, thiết bị
giáo dục và thư viện. Bên cạnh đó ý thức bảo quản, giữ gìn của đội ngũ cán
bộ giáo viên, chuyên viên và học sinh các trường nhìn chung chưa cao.
- Hiệu trưởng cần xây dựng nội quy giữ gìn trường sở, thiết bị giáo dục
và thư viện. Nội quy này cần được phổ biến rộng rãi đến toàn bộ đội ngũ cán
bộ giáo viên và học sinh trong trường bằng nhiều hình thức khác nhau như
qua các cuộc họp, qua tổ trưởng chuyên môn, qua giáo viên chủ nhiệm và cán
bộ lớp… Những nội quy này cần được dán ở những nơi theo đúng quy định
để mọi người thấy được.
- Bảo quản theo chế độ quản lý tài sản của Nhà nước:
+ Thực hiện chế độ trách nhiệm:
Đảm bảo số lượng phụ tá nhân viên theo quy định.

15


Phân công trách nhiệm rõ ràng cụ thể cho hiệu phó phụ trách chuyên

môn, tổ trưởng, nhóm trưởng, xây dựng mối quan hệ và lề lối làm việc của
mỗi người.
Thực hiện nghiêm minh chế độ khen thưởng, kỷ luật theo quy chế.
+ Thực hiện chế độ kiểm kê, kiểm tra mỗi năm học, học kỳ, kiểm kê
bất thường…
- Hiệu trưởng cần quan tâm việc bảo quản theo chế độ đối với dụng cụ,
vật tư khoa học kỹ thuật: Cần quan tâm tới ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu,
môi trường cất giữ… đến các loại dụng cụ tinh vi, đắt tiền. Cần đảm bảo kinh
phí để mua vật tư, vật liệu cho việc bảo quản. Hiệu trưởng cần đảm bảo các
điều kiện vật chất để bảo quản: tủ, giá, khóa, có phương tiện phòng cháy chữa
cháy, chống ẩm, mối mọt…
- Hiệu trưởng cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện đúng quy trình và
phương pháp bảo quản theo hướng dẫn của nhà sản xuất và tuân thủ những
quy định chung về bảo quản
- Cử cán bộ, nhân viên phụ trách quản lý, bảo quản cơ sở vật chất –
thiết bị giáo dục đi đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn để ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu công việc.
2.2.4. Đào tạo nhân viên chuyên môn (hiện nay được gọi là cán bộ
thiết bị dạy học) cho nhà trường.
Vấn đề cung cấp đủ các nhân viên chuyên môn phụ trách trường sở,
thiết bị giáo dục và thư viện cho các trường đang là điều bức xúc. Thiếu họ
khiến cho công tác quản lý cơ sở vật chất – thiết bị trong giáo dục có nhiều
yếu kém lại bị sử dụng lãng phí hoặc hao hụt đi. Nhân viên chuyên môn vừa
là người bảo quản duy tu hệ thống trường sở, thiết bị giáo dục và thư viện,
vừa là người phụ tá giúp giáo viên thực hiện bài giảng để sử dụng thiết bị giáo
dục có năng suất hơn, dễ dàng hơn và hiệu quả hơn.
Giải quyết vấn đề này theo hai hướng:

16



- Hướng thứ nhất: Chọn các nhân viên kỹ thuật có am hiểu về máy móc
và trang bị cho họ thêm những hiểu biết về sư phạm.
- Hướng thứ hai: Chọn giáo viên đã học qua trường sư phạm và bồi
dưỡng năng lực kỹ thuật chuyên dụng về trường sở, thiết bị giáo dục và thư
viện.
Các biện pháp trên đây cần được thực hiện một cách đồng bộ, có sự ưu
tiên tùy theo tình hình thực tế của từng trường, không dàn trải. Nơi nào điều
kiện tổ chức sư phạm cho việc sử dụng thiết bị giáo dục khó khăn song điều
kiện cung ứng kinh tế (vốn) thuận lợi thì phải chú ý đến việc cải thiện môi
trường sư phạm của việc sử dụng thiết bị, nơi nào điều kiện cung ứng kinh tế
(vốn) có khó khăn thì phải chú ý đến việc khai thác sử dụng vốn.

17


Câu 2:
Quản lý cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục là tác động có mục đích của
người quản lý nhằm xây dựng, phát triển và sử dụng có hiệu quả hệ thống cơ
sở vật chất – thiết bị giáo dục phục vụ đắc lực cho công tác giáo dục và đào
tạo.
1. Các nguyên tắc chung của quản lý cơ sở vật chất – thiết bị
trường học.
Hoạt động quản lý nói chung và quản lý cơ sở vật chất nói riêng muốn
thành công thì người quản lý, lãnh đạo phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định. Hoạt động quản lý cơ sở vật chất cần tuân theo những nguyên tắc sau:
1.1. Nguyên tắc 1: Trang bị đầy đủ và đồng bộ các phương tiện cơ sở
vật chất – thiết bị giáo dục để phục vụ cho việc giáo dục và đào tạo của nhà
trường (đồng bộ giữa trường sở với phương thức tổ chức dạy học; giữa
chương trình, sách giáo khoa và thiết bị giáo dục; giữa thiết bị và điều kiện sử

dụng; giữa trang bị và bảo quản; giữa các thiết bị với nhau…)
Cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục vừa là phương tiện để nhận thức, vừa
là đối tượng chứa nội dung cần nhận thức, giúp tăng chất lượng và hiệu quả
của các hoạt động dạy học và giáo dục. Muốn vậy, hệ thống cơ sở vật chất –
thiết bị giáo dục phải được trang bị đầy đủ và đồng bộ. Theo tiêu chuẩn 4
trong điều 7 của Quy chế công nhận trường trung học cơ sở, trường trung học
phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học đạt chuẩn quốc gia (Ban
hành kèm theo Thông tư số 47/2012/TT-BGDĐT ngày 7 tháng 12 năm 2012
của Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định rõ:
Cơ cấu các khối công trình trong trường bao gồm:
a. Khu phòng học, phòng bộ môn:
a.1. Có đủ số phòng học cho mỗi lớp học (không quá 2 ca mỗi ngày);
diện tích phòng học, bàn ghế học sinh, bàn ghế giáo viên, bảng đúng quy
cách; phòng học thoáng mát, đủ ánh sáng, an toàn;

18


a.2. Có phòng y tế trường học đảm bảo theo quy định hiện hành về
hoạt động y tế trong các trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông
và trường phổ thông có nhiều cấp học;
b. Khu phục vụ học tập:
b.1. Có các phòng học bộ môn đạt tiêu chuẩn theo quy định hiện hành
của Qui định về phòng học bộ môn; phòng thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm
với đầy đủ trang thiết bị dạy học;
b.2. Có thư viện theo tiêu chuẩn quy định về tổ chức và hoạt động của
thư viện trường học, chú trọng phát triển nguồn tư liệu điện tử gồm: tài liệu,
sách giáo khoa, giáo án, câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra, đề thi ...; cập nhật
thông tin về giáo dục trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu tham khảo của
giáo viên và học sinh;

b.3. Có phòng truyền thống; khu luyện tập thể dục thể thao; phòng làm
việc của Công đoàn; phòng hoạt động của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh; Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh đối với trường trung học cơ sở
và trường phổ thông có nhiều cấp học;
c. Khu văn phòng:
Có phòng làm việc của Hiệu trưởng, phòng làm việc của từng phó
Hiệu trưởng, văn phòng nhà trường, phòng họp hội đồng giáo dục nhà
trường, phòng họp từng tổ bộ môn, phòng thường trực, kho;
d. Khu sân chơi sạch, đảm bảo vệ sinh và có cây bóng mát;
e. Khu vệ sinh được bố trí hợp lý, riêng cho giáo viên, học sinh nam,
học sinh nữ, không làm ô nhiễm môi trường ở trong và ngoài nhà trường;
g. Có khu để xe cho giáo viên, cho từng khối lớp hoặc từng lớp trong
khuôn viên nhà trường, đảm bảo trật tự, an toàn;
h. Có đủ nước sạch cho các hoạt động dạy học, nước sử dụng cho giáo
viên, học sinh; có hệ thống thoát nước hợp vệ sinh;

19


Có hệ thống công nghệ thông tin kết nối internet đáp ứng yêu cầu quản
lý và dạy học; có Website thông tin trên mạng internet hoạt động thường
xuyên, hỗ trợ có hiệu quả cho công tác dạy học và quản lý nhà trường.
Theo tiêu chuẩn 9 về đánh giá chất lượng trường đại học (trong Quyết
định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và đào tạo về việc ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục trường đại học) cũng quy định rõ các trường cần trang bị đầy
đủ và đồng bộ về cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục.
Sự đồng bộ này trước hết thể hiện giữa trường sở với phương thức tổ
chức dạy học. Nếu trường sở càng khang trang bao nhiêu thì trang thiết bị
phục vụ cho quá trình dạy học phải tương xứng với môi trường đó. Ngược lại

nếu phương thức dạy học tiên tiến, có sự đổi mới bao nhiêu thì cơ sở vật chất,
các trang thiết bị hiện đại cũng phải tương xứng với nó nhằm phục vụ cho quá
trình dạy học của nhà trường. Tránh tình trạng trường sở thì khang trang
nhưng phương thức tổ chức dạy học và các trang thiết bị để hỗ trợ cho quá
trình giảng dạy không đảm bảo, còn thiếu, hỏng hóc.
Đồng bộ giữa chương trình, sách giáo khoa và thiết bị giáo dục: Sự
đồng bộ này là hết sức cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong quá trình
dạy học và giáo dục. Chương trình dạy học, sách giáo khoa ngày càng được
cải tiến hướng đến người học, phục vụ người học, vì người học. Tuy nhiên
các nhà giáo dục không thể đưa tất cả mọi tranh ảnh, mô hình, bản đồ… vào
sách giáo khoa được. Hay những phản ứng hóa học, các hiện tượng vật lý,
sinh học… cần phải có quan sát thực tế. Một tiết học địa lý chắc chắn sẽ lôi
cuốn học sinh và giúp các em ghi nhớ tốt hơn khi có các bản đồ của bài học đi
kèm. Một tiết học lịch sử tưởng như khô khan nhưng chắc chắn sẽ tạo hứng
thú cho người học nếu giáo viên biết tận dụng công nghệ thông tin, sử dụng
máy tính, máy chiếu cho việc mô tả các trận đánh. Chính vì vậy phải có hệ
thống thiết bị giáo dục tương ứng đi kèm để minh họa, tăng tính hiệu quả cho

20


bài học. Thực tế hiện nay các thiết bị giáo dục được sản xuất rất phong phú,
đa dạng và nhiều trường đã trang bị đầy đủ cho mình. Tuy nhiên chất lượng
của nhiều thiết bị dạy học không đảm bảo, ví dụ nhiệt kế khi đo nước sôi lại
chỉ được ở mức 95oC, hay nhiều chất hóa học khi được đem ra thực hành cho
phản ứng thì phản ứng đó lại không xảy ra như trong sách giáo khoa chỉ vì
chất hóa học đó có chất lượng không đảm bảo. Nhiều trường chỉ trang bị
nhưng đã không chú ý đến chất lượng của những thiết bị đấy khi mua sắm dẫn
đến lãng phí, không sử dụng được. Cho nên có một yêu cầu đặt ra nữa đó là:
các trang thiết bị giáo dục đó phải có sự kết hợp đồng bộ với nội dung bài

học, có màu sắc hài hòa, có hình dạng và kích thức phù hợp với nội dung môn
học, các mô hình giáo dục phải mang tính chuẩn giáo dục. Tránh tình trạng
khi sản xuất ra các trang thiết bị giáo dục không đảm bảo về hình dạng, màu
sắc, kích thước không tương xứng với nội dung của môn học. Cũng không
nên theo kiểu “nói một đằng làm một nẻo” bộ sách giáo khoa thiết kế một
kiểu, nhưng các trang thiết bị giáo dục lại có hình dạng một khác. Từ đó dẫn
đến việc sử dựng các trang thiết bị giáo dục bổ trợ cho quá trình dạy học kết
quả đạt kém, sai lệch với nội dung chương trình, gây khó dễ cho người giáo
viên khi tham gia các tiết học có sử dụng nhiều các trang thiết bị dạy học ở
các trường phổ thông hiện nay như môn: Sinh học, Địa lí, Hóa học, Lịch sử,
Ngữ văn… Muốn vậy, chúng ta cần có sự kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu
sản xuất, kinh doanh thiết bị giáo dục, kiên quyết không để các thiết bị không
đảm bảo được bày bán cho các trường học và cơ sở giáo dục.
Đồng bộ giữa thiết bị và điều kiện sử dụng: Việc trang bị các thiết bị
giáo dục là tốt nhưng phải đảm bảo sự đồng bộ với điều kiện sử dụng. Nếu
trường có điều kiện sử dụng tốt thì sẽ góp phần khai thác tối đa thiết bị giáo
dục. Thế nhưng hiện nay không ít các trường ở miền núi, vùng sâu vùng xa
biên giới hải đảo… có không ít những khó khăn trở ngại trong vấn đề này
như: trường sở thiếu thốn về cơ sở vật chất, thiếu thốn về phòng học, các lớp

21


học còn mang tính tạm bợ, tranh tre, nứa lá. Mặt khác lại ở trong một môi
trường và điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt, kinh tế còn gặp nhiều khó
khăn thì các trang thiết bị giáo dục có nhưng lại không có cơ hội sử dụng luôn
trong tình trạng “luôn luôn cất giữ trong tủ, trong kho, đắp chiếu” không được
mang ra sử dụng. Có những trường từ khi được nhận một số trang thiết bị
giáo dục đến nay chưa một lần nào mang ra sử dụng vì nhiều yếu tố: thiếu
thốn về cơ sở vật chất, trường không ra trường, lớp không ra lớp. Nhiều

trường được trang bị các thiết bị giáo dục hiện đại như: máy chiếu đa năng,
máy tính nhưng lại không có điện chiếu sáng để sử dụng; các thiết bị nhiệt kế,
đo kế, la bàn để bổ trợ cho quá trình giáo dục nhưng lại không được sử dụng.
Đồng thời do một số đội ngũ giáo viên không đáp ứng được trình độ về
chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế dẫn đến không sử dụng được các
trang thiết bị giáo dục hiện đại.
Trang bị đồng bộ các phương tiện cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục và
bảo quản. Điều này sẽ góp phần tăng thời gian sử dụng, tiết kiệm chi phí mua
mới cho các trường. Bên cạnh việc mua sắm, trang bị cơ sở vật chất – thiết bị
giáo dục, nhà quản lý cần chú trọng đảm bảo các điều kiện bảo quản tương
ứng như: tủ, giá, khóa, có phương tiện phòng cháy chữa cháy, chống ẩm, mối
mọt… Trong thực tế thì công tác này chưa được nhiều trường chú ý, bên cạnh
đó ý thức bảo quản của đội ngũ cán bộ công nhân viên nhà trường và học sinh
chưa cao làm cho thiết bị giáo dục bị hư hại nhanh chóng. Đặc biệt với nhiều
trường ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo thì các thiết bị giáo dục chưa được
bảo quản tốt do điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo, chưa có phòng thư
viện, chưa có phòng bộ môn riêng, lớp học không đảm bảo. Dẫn đến việc mất
mát, rách nát các tranh ảnh, vỡ các mô hình, đặc biệt là bị mối ăn nhiều, do
vậy tỷ lệ mất đi các đồ dùng dạy học tương đối nhiều, không có khả năng tái
sử dụng. Hiệu trưởng bên cạnh việc trang bị các điều kiện bảo quản thì cần

22


nâng cao ý thức sử dụng trong tập thể cán bộ giáo viên và học sinh trường
mình.
Trang bị đầy đủ và đồng bộ giữa các thiết bị với nhau: Sự đồng bộ này
đảm bảo cho các thiết bị giáo dục có thể kết hợp với nhau, mang lại hiệu quả
giáo dục. Ví dụ như đã trang bị máy chiếu thì cần phải trang bị máy tính,
trang bị các hóa chất thì cần phải trang bị các ống nghiệm, ống để đựng…

1.2. Nguyên tắc 2: Bố trí hợp lý các yếu tố của cơ sở vật chất – thiết bị
giáo dục trong khu vực nhà trường, trong lớp học, trong các loại phòng chức
năng; bố trí hợp lý địa điểm của nhà trường trong khu vực dân cư, phù hợp
với quy hoạch tổng thể của địa phương nhằm làm cho quá trình giảng dạy
giáo dục của giáo viên và học tập của học sinh diễn ra có hiệu quả, tiết kiệm
thời gian và sức người nhất.
Bố trí hợp lý các yếu tố của cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục trong khu
vực nhà trường, trong lớp học, trong các loại phòng chức năng: Bố trí, sắp
xếp các yếu tố của cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục cần phải hợp lý, đảm bảo
mỹ quan trong nhà trường, nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo chế độ ánh
sáng, thông thoáng không khí, và quan trọng nhất là khi bố trí cần đảm bảo sự
an toàn, thuận tiện nhất cho việc tìm kiếm, sử dụng và bảo quản… Mỗi một
nhà trường cần phải có phòng thư viện, phòng đồ dùng học tập riêng bao
gồm: các tranh ảnh, mô hình, biểu đồ, bản đồ, la bàn, máy chiếu, máy tính,
bảng biểu… mỗi một loại đồ dùng cần được bố trí sắp xếp theo từng danh
mục, từng môn học, từng khối lớp sao cho người cán bộ phục trách công tác
thư viện, đồ dùng học tập quản lí một cách hợp lí, nhận biết dễ nhất, lấy ra dễ
nhất và cũng để vào một thuận lợi nhất.
Khi xây dựng các phòng học cần chú ý hình dáng và kích thước phòng
học được xác định xuất phát từ đặc điểm học tập của học sinh, nhu cầu của cơ
thể học sinh đối với không gian để hít thở và thuận tiện cho việc sắp xếp bàn
ghế và đồ dùng cho học tập. Trong lớp học cơ sở vật chất cũng cần được bố

23


trí một cách khoa học, đảm bảo về mặt ánh sáng, đèn chiếu, màn hình, máy
chiếu, bàn ghế của học sinh và giáo viên trong 1 lớp học. Tránh tình trạng một
số lớp học hiện nay còn trang trí về cơ sở vật chất và các trang thiết bị giáo
dục còn chưa đảm bảo, nhiều tranh ảnh, nhiều lọ hoa bằng sành, sứ bên cạnh

cửa sổ, xung quanh lớp học đặc biệt là cấp Mầm non, Tiểu học. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến một số tai nạn đáng tiếc đối với các em học
sinh, khi lọ hoa bằng sành, sứ bị các em làm vỡ có thể không may dẫm phải,
làm chảy máu chân, chảy máu tay hoặc một số em học sinh đã dùng chính
những mảnh vỡ của các lọ hoa bằng sành, sứ đó để đập vào đầu bạn, rạch vào
mặt, vào chân, vào tay, gây thương tích cho các bạn trong lớp. Chính từ
nguyên nhân này dẫn đến những bạo lực học đường, làm ảnh hưởng xấu đến
môi trường giáo dục và các mối quan hệ khác trong xã hội của chúng ta hiện
nay. Tuy nhiên, nhìn chung hiện nay đội ngũ cán bộ thiết bị và thư viện của
các trường ngày càng được đào tạo và bồi dưỡng một cách bài bản, chuyên
nghiệp. Chính vì vậy các yếu tố của cơ sở vật chất – thiết bị giáo dục trong
khu vực nhà trường, trong lớp học, trong các phòng chức năng ngày càng
được quan tâm bố trí sắp xếp hợp lý và thuận tiện phục vụ cho việc dạy và
học.
Bố trí hợp lý địa điểm của nhà trường trong khu vực dân cư, phù hợp
với quy hoạch tổng thể của địa phương nhằm làm cho quá trình giảng dạy
giáo dục của giáo viên và học tập của học sinh diễn ra có hiệu quả, tiết kiệm
thời gian và sức người nhất: Trường phải gần nơi sinh sống của học sinh,
phạm vi phục vụ của trường phụ thuộc vào cấp học, điều kiện khí hậu, địa
hình nơi xây dựng trường. Nhà trường phải được xây dựng ở nơi thuận tiện
cho việc đi học của học sinh. Khoảng cách lớn nhất từ nhà tới trường đảm bảo
sao cho học sinh đi bộ trong thời gian từ 20-30 phút. Yêu cầu khoảng cách từ
nhà tới trường cụ thể như sau:Không quá 1.000m đối với học sinh tiểu học;
không quá 1.500m đối với học sinh trung học cơ sở; không quá 3.000m đối

24


với học sinh trung học phổ thông. Riêng đối với miền núi, khoảng cách từ nhà
đến trường không quá 2.000m đối với học sinh tiểu học và không quá 3.000m

đối với học sinh trung học cơ sở.
Tăng khoảng cách từ nhà đến trường sẽ ảnh hưởng đến chế độ hàng
ngày của học sinh, ảnh hưởng đến thời gian chuẩn bị bài. Mặt khác, đi bộ
nhiều làm học sinh mỏi mệt, dẫn đến khả năng học tập giảm sút. Tại các vùng
sâu, vùng xa, miền núi khi xây dựng trường hoặc khi tiếp nhận học sinh cần
đặc biệt lưu ý không để tình trạng học sinh phải đi đò, đi thuyền qua sông đến
trường nhằm hạn chế rủi ro đuối nước có thể xảy ra.
Trường phải nằm xa các nhà máy, xí nghiệp và các cơ sở có nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường bởi các chất thải rắn, khí, tiếng ồn, điện từ trường, xa
các trục đường giao thông lớn, có mật độ xe cộ qua lại cao, xa chợ hoặc các
trung tâm thương mại…đảm bảo cho môi trường trường học nằm trong các
giới hạn tiêu chuẩn cho phép. Đối với những địa bàn có nhà máy, xí nghiệp
công nghiệp thì phải chọn địa điểm xây dựng sao cho giữa trường và nhà máy,
xí nghiệp công nghiệp có một khoảng cách an toàn. Trường phải được xây
dựng ở nơi đầu hướng gió chủ đạo, cách các nhà máy, xí nghiệp có mức độ
độc hại loại 1 ít nhất là 1.000 m, loại 2: 500m, loại 3: 300m, loại 4: 100m, loại
5: 50 m.
Trường học không nên xây dựng sát đường giao thông lớn, giữa trường
và đường giao thông phải có hành lang cây xanh bảo vệ để chắn khói bụi và
tiếng ồn. Cổng trường phải được bố trí thuận lợi để học sinh có thể ra vào
nhanh chóng, không nên mở ra đường giao thông lớn để tránh ách tắc giao
thông và hạn chế tai nạn thương tích cho học sinh khi tới trường.
1.3. Nguyên tắc 3: Tạo ra toàn bộ môi trường vật chất mang tính sư
phạm, thuận lợi cho các hoạt động giáo dục và dạy học; các điều kiện về vệ
sinh sức khỏe, điều kiện an toàn, điều kiện thẩm mỹ, làm cho nhà trường có
bộ mặt sạch đẹp, yên tĩnh, trong sáng, cần thiết cho một cơ sở giáo dục.

25



×