Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

nguồn lực con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.27 KB, 19 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vấn đề khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đang trở thành
một vấn đề bức bách của Việt nam nói chung và của thế giới nói riêng. Xét trong
Việt Nam, vấn đề này đang được sử dụng như thế nào? Liệu nó có gì cần phải
lưu ý? Trong bài nghiên cứu này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu vấn đề khai thác và sử
dụng các nguồn lực ở Việt Nam. Trong đó, nguồn lực con người là được chú ý
hơn nao giờ hết.
Những nội dung cơ bản của bài nghiên cứu:
• Thực tế nguồn nhân lực ở Việt Nam: nguồn lực nông dân, công nhân,
trí thức.
• Tên đề tài nghiên cứu: “nguồn lực con người đối với sự phát triển
kinh tế xã hội ở Việt Nam”.
• Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Chỉ ra vấn đề mà nguồn nhân lực Việt
Nam đang gặp phải, đồng thời là nguyên nhân đưa đến thực trạng đó.
• Nhiệm vụ nghiên cứu: Nguồn lực con người đã đóng góp một phần
đáng kể vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Vấn đề đối với nguồn nhân lực
Việt Nam hiên nay. Công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa và việc vận dụng
yếu tố con người để đi tới thành công.
• Cái mới của đề tài: chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chưa thực sự
cao. Con người là nhân tố cơ bản của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Vai trò của yếu tố con người đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
• Lọai hình nghiên cứu: nghiên cứu ứng dụng.
• Các khái niệm liên quan: Thế nào là nguồn lực? Các khái niệm liên
quan tới nguồn lực? Nguồn lực con người?
• Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam: hiện trạng sinh viên tốt
nghiệp ra trường? Vấn đề người lao động? chảy máu chất xám?
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
BÀI TIỂU LUẬN
Có thể nói, dù ở thời đại nào, quốc gia nào, nguồn nhân lực cũng luôn là yếu
tố quan trọng nhất quyết định sức mạnh của một quốc gia. Bởi chúng ta biết


rằng mọi của cải vật chất đều được làm nên từ bàn tay và trí óc của con người.
Việt Nam chúng ta đang có nguồn nhân lực dồi dào với dân số cả nước gần
86 triệu người (Tính đến ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573
người), là nước đông dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực. Trong đó,
số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh và chiếm một tỉ lệ cao khoảng 67%
dân số cả nước. Cơ cấu Dân số vàng ở nước ta bắt đầu đầu xuất hiện từ năm
2010 và kết thúc vào năm 2040, kéo dài trong khoảng 30 năm. Có thể nói, với
thế mạnh lớn về nguồn nhân lực, Việt Nam đã biết tận dụng nó vào để phát triển
kinh tế. Cụ thể đó là tốc độ tăng GDP đều và ở mức cao trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn có những khó khăn trong việc thúc đẩy kinh tế đi lên.
Nguyên nhân là do đâu? Có nhiều nguyên nhân lí giải cho vấn đề này, trong đó
chất lượng nguồn nhân lực hiện nay của nước ta được xem là nguyên nhân mấu
chốt. Liệu nguồn nhân lực Việt Nam đã được khai thác đúng mức và hiệu quả?
Như chúng ta đã biết, trong gần 86 triệu người ở Việt Nam thì nông dân
chiếm khoảng gần 73% dân số cả nước. Điều này cho thấy, nông dân vẫn là lực
lượng lao động xã hội chiếm tỉ lệ cao nhất. Nông dân ta bao đời nay vẫn lấy
nghề trồng lúa là nghề chính. Họ vẫn đang sản xuất một cách tự phát, manh
mún. Họ vẫn cứ nghĩ rằng trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần học cũng làm
được, thế là cứ từ đời này nối tiếp đời kia họ tự trồng như vậy. Nhìn vào thực tế
sản xuất của nông dân ta thấy rằng dù đã mấy nghìn năm phát triển xã hội nhưng
cách trồng lúa của người Việt hôm nay cũng chưa tiến bộ hơn cách trồng lúa của
người Việt xưa là mấy, vẫn còn tồn tại cái cảnh “ con trâu đi trước cái cày theo
sau”. Mặc dù bây giờ đã có sự liên kết nhà khoa học với nhà nông nhưng cũng
chưa tạo được những đột phá đem lại hiệu quả. Hiện nay, nông dân đã mở ra
nhiều ngành nghề để tạo việc làm và thu nhập nhưng hiệu quả kinh tế vẫn chưa
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cao, nguyên nhân là còn thiếu áp dụng các khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất
vì vẫn nặng với cái kiểu tư duy “nghĩ sao làm vậy”. Rõ ràng nguồn lực nông dân
dồi dào nhưng chất lượng vẫn còn yếu kém .

Về nguồn nhân lực công nhân thì hiện nay, số lượng công nhân Việt Nam có
khoảng 5 triệu người, chiếm 6% dân số cả nước.Như vậy lực lượng công nhân
Việt Nam còn quá ít. Đã vậy công nhân có tay nghề cao lại chiếm tỷ lệ thấp so
với đội ngũ công nhân nói chung. Số công nhân có trình độ văn hóa, tay nghề,
kĩ thuật rất ít. Theo thống kê công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở nước ta
chiếm khoảng 3,3% đội ngũ công nhân nói chung. Tỉ lệ này khiến chúng ta phải
suy nghĩ. Chính vì trình độ văn hoá tay nghề thấp nên đa số công nhân không
đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Điều này dẫn đến sự mất cân đối về lao động ở
các doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thiếu người nhưng lại thiếu những công
nhân có tay nghề để đảm bảo những khâu kĩ thuật quan trọng trong dây chuyền
sản xuất. Hệ quả kéo theo của vấn đề này là đồng lương công nhân bị thấp đi,
đời sống không được đảm bảo, địa vị công nhân trong đời sống xã hội cũng
không cao. Với tình hình đó, nguồn lực công nhân chưa thể đóng vai trò chủ đạo
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đã và đang bước vào hội nhập thế giới, từng bước tiến tới chiếm
lĩnh khoa học công nghệ cao, vì thế đòi hỏi một lực lượng đông đảo nhân lực có
trình độ cao, có khả năng làm việc trong môi trường công nghệ và cạnh tranh.
Đặc biệt với một số ngành đặc thù như năng lượng nguyên tử, công nghệ thông
tin lại càng đòi hỏi nhân lực đạt đến trình độ quốc tế hoá. Bên cạnh đó một số
ngành mũi nhọn như ngân hàng tài chính, du lịch cũng yêu cầu một đội ngũ đủ
khả năng thích ứng với mọi biến động của thị trường trong nước và thế giới…
Có thể nói rằng ở lĩnh vực nào, nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ… chúng
ta đều đang thiếu những lao động có trình độ cao. Nhưng thực tế đáp ứng được
bao nhiêu? Như đã phân tích ở trên, lực lượng nông dân đang thiếu khoa học kĩ
thuật, sản xuất manh mún; lực lượng công nhân trình độ thấp, vậy còn lực lượng
trí thức thì sao?
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việt Nam những năm gần đây có đội ngũ trí thức tăng nhanh, chỉ tính riêng
số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc. Năm 2003-2004, tổng số

sinh viên đại học và cao đẳng là 1.131.030 sinh viên đến năm 2007- 2008 tăng
lên 1.603.484 sinh viên. Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966, trong
đó sinh viên tốt nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là
81.694. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh.Theo thống kê, cả
nuớc đến năm 2008 có hơn 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học và đang đặt mục
tiêu trong 10 năm tới sẽ có 20000 tiến sĩ. Năm 2008, nước ta có 275 trường
Trung cấp chuyên nghiệp, 209 trường Cao đẳng, 160 trường Đại học và có tới
27.900 trường phổ thông, 226 trường dân tộc nội trú…Nhìn vào những con số
này cho thấy lực lượng trí thức và công chức thực sự là một nguồn lực quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Nhưng thực tế vẫn còn tồn tại nhiều
vấn đề. Hàng năm lượng sinh viên ra trường lớn nhưng số sinh viên có việc làm
lại ít. Theo thống kê có đến 63% sinh viên ra trường không có việc làm, số có
việc làm thì cũng có người làm việc không đúng ngành được học. Thêm vào đó
là một số đơn vị nhận người vào làm phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Phải chăng
lao động đã qua đào tạo còn nhiều bất cập so với yêu cầu của thị trường lao
động?
Bài toán về nguồn nhân lực, việc làm hiện nay là bài toán khó và cũng không
thể một sớm một chiều mà chúng ta giải quyết ngay được.Để làm được điều này
cần phải đồng bộ ở nhiều phương diện: đơn vị đào tạo, người lao động, đơn vị
sử dụng lao động… và còn cần tới một cơ chế, một sự hỗ trợ lớn từ nhà nuớc.
Thực tế hiện nay cho thấy, trong thời kì đổi mới, các nguồn lực đã được vận
dụng một cách triệt để, nhưng, về yếu tố người lao động, vẫn còn những vấn đề
nan giải. Đó là thực trạng yếu tố người lao động chưa được khai thác triệt để,
hiệu quả sử dụng chưa thực sự cao. Trong bài viết này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu
về các nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay, mà nổi bật hơn
cả là nhân tố con người. Liệu nhân tố này đã được khai thác triệt để và có hiệu
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quả ở Việt Nam hiện nay? Hãy đi vào mục tiêu nghiên cứu của bài viết là:
“nguồn lực con người đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam”

Trước hết, ta phải hiểu thế nào là nguồn lực? Và thế nào là nguồn lực con
người?
Những thứ được coi là nguồn lực phải là những thứ được sử dụng
hoặc có khả năng sử dụng trong thời kỳ dự kiến phát triển. Tiềm năng chưa
đưa được vào sử dụng hoặc chưa có khả năng đưa vào sử dụng thì chưa
được xem là nguồn lực.
Các nguồn lực được xem xét dưới nhiều góc độ. Có nghĩa là dưới nhiều
góc độ, người ta chia các nguồn lực thành các loại khác nhau để có thái độ
đúng đắn và có cách ứng xử với chúng thích hợp. Với cách nhận thức
như thế và trên quan điểm thiết thực, việc phân chia các nguồn lực được
tiến hành theo hai cách chủ yếu.
Cách thứ nhất, người ta chia ra thành nguồn lực vật chất và nguồn lực
tinh thần.
Nhóm nguồn lực vật chất gồm có: tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên đất,
tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên thuỷ điện, tài nguyên nước,
tài nguyên khí hậu, vị trí địa kinh tế...) và cơ sở vật chất kỹ thuật đã tạo
dựng (nhà cửa, công trình công cộng, đường sá, hải cảng, sân bay, hệ
thống sản xuất và truyền tải điện, hệ thống cung cấp và thoát nước, hệ
thống xử lý chất thải, hệ thống viễn thông và truyền thông...).
Nhóm nguồn lực con người (gắn với tài nguyên trí thức) và tài nguyên
thông tin. Trí tuệ của con người có giá trị đặc biệt và không thể tự có được
mà con người phải mất công, mất sức mới có. Muốn có trí tuệ, con người
phải có thể lực và trí lực cùng hoàn cảnh thuận lợi. Đối với vấn đề xây
dựng trí tuệ, việc giáo dục quan trọng như thế nào thì việc cải tạo nòi
giống cũng quan trọng không kém. Trong lĩnh vực xây dựng nguồn lực
con người, không thể xem nhẹ việc bồi dưỡng sức dân và thực hiện nhân
đạo hiện đại đối với vấn đề sinh sản. Để có được nguồn thông tin chất
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lượng cao nhằm cung cấp kịp thời, đầy đủ cho người dân, nhà nước phải

tiến hành xây dựng hệ thống thông tin thống nhất từ trung ương tới các địa
phương. Có như thế mới khắc phục được tình trạng thiếu thông tin trầm
trọng như hiện nay ở nước ta.
Cách thứ hai, căn cứ vào nguồn gốc của nguồn lực, người ta chia
chúng ra thành hai nhóm lớn: nguồn lực trong nước và nguồn lực ngoài
nước. Nguồn lực trong nước bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Bằng cơ
chế, chính sách, người ta tạo ra môi trường hấp dẫn để thu hút các nguồn
lực bên ngoài, nhất là thu hút nhân tài. Thông qua cơ chế, chính sách, nhà
nước và các doanh nghiệp có thể biến ngoại lực thành nội lực. Phần lớn
các nguồn lực đều hữu hạn. Vì thế, việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các
nguồn lực và dự trữ các nguồn lực trong điều kiện có thể là một trong
những quốc sách quan trọng.
Trong số các nguồn lực đó thì nguồn lực con người đang là một vấn đề nan
giải và cần được giải quyết. Thực tế đặt ra là: thực trạng về nguồn lực con người
ở nước ta hiện nay là gì? Nạn thất nghiệp và làm trái ngành của sinh viên sau khi
ra trường? Và tình trạng chảy máu chất xám ở Việt Nam? Đây chỉ là ba vấn đề
nhỏ trong số những vấn đề về nguồn lực con người đang diễn ra ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Nhưng đây lại là ba vấn đề lớn và đáng lo ngại hơn cả.
Nguồn lực con người không phải là một vấn đề mới. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu nguồn lực con người thì diễn ra thường xuyên trong tất cả các giai đoạn lịch
sử, ở tất cả các quốc gia nếu như trong giai đoạn đó, ở quốc gia đó muốn có
được sự phát triển đất nước, phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu nguồn lực
con người luôn là một vấn đề có tính thời sự. Con người vừa là chủ thể lại vừa là
sản phẩm của lịch sử. Vì vậy, con người là nhân tố đưa đến sự phát triển xã hội,
sự phát triển đất nước, bên cạnh đó thì con người đó như thế nào lại bị chi phối
bởi chính hoàn cảnh lịch sử ấy.
Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX nảy sinh hiện tượng là một số nước
Đông Á có tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ gây ra nhiều sự chú ý trong giới
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368

nghiên cứu và họ cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao những nước như
Nhật Bản, Singapo, Đài Loan, Hồng Kông, … v.v lại có sự phát triển đó. Kết
quả của những nghiên cứu cho thấy có nhiều nhân tố tạo nên như văn hóa truyền
thống, trình độ dân số, kỹ thuật, công nghệ, …v. v. Song câu trả lời làm ngạc
nhiên giới nghiên cứu hơn cả là sự nhảy vọt về kinh tế ở các nước đó không phải
là kỹ thuật, công nghệ mà là văn hóa truyền thống. Vì vậy, nghiên cứu nguồn
lực con người hiện đại cần phải thấy được sự liên hệ với yếu tố truyền thống,
con người truyền thống, gắn với điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Đối với nước ta, xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, nông
nghiệp là chính tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lại chịu hậu quả nặng nề của
chiến tranh kéo dài. Do đó, việc khắc phục những tàn dư của xã hội cũ, của nền
sản xuất cũ như thói quen tác phong sản xuất nông nghiệp của người nông dân,
tâm lí sợ sệt trong đầu tư sản xuất - kinh doanh, cách thức làm việc tuỳ tiện
không khoa học, lối sống gia trưởng còn ăn sâu vào nếp nghĩ của con người Việt
Nam hiện nay đang là một sự cản trở lớn đối với sự phát huy nguồn nhân lực
trong phát triển xã hội,v.v.
Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và cùng với nó là phát triển
một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện khoa
học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão và nền kinh tế thị trường
thế giới đã phát triển đến trình độ cao. Chúng ta đã tham gia và trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự tham gia đó đã mở ra cơ
hội cũng như thách thức lớn đối với chúng ta.
Xuất phát từ những điều kiện đó, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
hơn lúc nào hết, việc nghiên cứu và phát huy nguồn lực con người là một điều
cần thiết. Và công nghiệp hoá - hiện đại hoá trở thành một tất yếu khách quan.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế
giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "
Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ". Sự thành công
7

×