MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐÂU………………………………………………………………..
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN ……………………………………………
1. Vận chuyển trong logistics……………………………………………………
1.1. Khái niệm vận chuyển……………………………………………………
1.2. Chức năng của vận chuyển trong logisics………………………………
1.3. Các loại hình vận chuyển hàng hố và vai trị của nó……………………
2. Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại các doanh
nghiệp. ……………………………………………………………………….
2.1. Đối với nền kinh tế……………………………………………………
2.2. Đối với các doanh nghiệp. ………………………………………………
B. CƠ SỞ THỰC TIỄN……………………………………………
1. Năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam
1.1. Năng lực vận chuyển là gì ? . ………………………………………………
1.2. Năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt
Nam…………………………………………………………………………..
2. Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty logistics Việt Nam
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………….
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nền kinh tế đang trong đà phát triển mạnh, các lĩnh vực kinh tế đều
được phát huy hết với cơng suất của nó. Đối với doanh nghiệp, logistics đóng vai trị
quan trọng trong việc giải quyết đầu vào và đầu ra một cách hiệu quả., thay đổi
nguồn tài nguyên đầu vào và đầu ra hoặc tối ưu hóa q trình vận chuyển ngun
nhiên vât liệu, hàng hóa, dịch vụ giúp giảm chi phí và làm tăng khả năng cạnh tranh
của DN.
Logistics là một ngành mới mẻ đối với Việt Nam tuy nhiên nó lại là ngành
mang lại nguồn lợi lớn cho các nước phát triển. Trong logistics thì khâu quan trọng
nhất là vận tải, nó chiếm từ 40-60% chi phí logistics. Như vậy để phát triển năng lực
dịch vụ logistics thì vận chuyển đóng vai trị cốt yếu.
Nhận thức được những điều đó nhóm 5 đã cùng nhau đi tìm hiểu và lựa
chọn đề tài: “Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại
các doanh nghiệp. Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty
kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam”.
Do hạn chế về thời gian và khả năng tiếp cận thực tế nên đề tài thảo luận
không tránh khỏi thiếu sót . Kính mong thầy cơ và các bạn sinh viên quan tâm
đóng góp, bổ sung ý kiến để giúp cho đề tài thảo luận được hoàn thiện hơn .
Xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, ngày 17 tháng 12 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Nhóm 5 – HQ1D - K5
A.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Vận chuyển trong logistics
1.1. Khái niệm vận chuyển
Vận chuyển hàng hóa, xét theo quan điểm quản trị logistics, là sự di chuyển
hàng hóa trong khơng gian bằng sức người hay phương tiện vận tải nhằm thực hiện
các yêu cầu của mua bán, dự trữ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Dưới góc độ của tồn bộ nền kinh tế, sự cần thiết của vận chuyển hàng hóa
xuất phát từ sự cách biệt về không gian và thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng, mà
chủ yếu là quá trình tập trung hóa và chun mơn hóa của sản xuất và tiêu dùng, do
đó yêu cầu vận chuyển tăng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Hệ thống vận
tải là cầu nối để xóa đi những mâu thuẫn khách quan đó.,
1.2 . Chức năng của vận chuyển trong logisics.
Xuất phát từ bản chất logistics, vận chuyển có 2 chức năng: chức năng di
chuyển và chức năng dự trữ.
- Chức năng di chuyển: Đây là chức năng chủ yếu của vận chuyển. Thực hiện
chức năng này, vận chuyển tiêu tốn các nguồn lực: Thời gian, tài chính và mơi
trường.
+ Thời gian là nguồn lực chính mà vận chuyển tiêu tốn và do đó vận chuyển
hợp lý khi chi phí thời gian vận chuyển ít nhất. Chi phí thời gian vận chuyển là một
trong những chỉ tiêu cơ bản đánh giá trình độ dịch vụ logistics. Tăng tốc độ vận
chuyển đảm bảo duy trì dự trữ hợp lý, giảm dự trữ trên đường và trong mạng lưới
logistics, đồng thời cung cấp kịp thời hàng hoá cho khách hàng. Và do đó, tăng tốc
độ vận chuyển hợp lý sẽ đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp
thương mại.
+ Vận chuyển hàng hoá gắn liền với các chi phí: phương tiện vận tải, lao
động, quản lý, hao hụt... .,có nghĩa vận chuyển hàng hố tiêu tốn các nguồn lực tài
chính. Một phương án vận chuyển hợp lý phải đảm bảo giảm chi phí vận chuyển
đến mức thấp nhất.
+ Vận chuyển hàng hoá cũng đồng nghĩa với tiêu tốn các nguồn lực môi
trường. Vận chuyển trực tiếp tiêu tốn nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần bị cạn
kiệt như dầu mỏ, than đá..., đồng thời làm ô nhiễm môi trường khơng khí, gây tiếng
ồn, làm tắc nghẽn giao thơng... Chính vì vậy, nhà nước rất quan tâm đến ngành giao
thơng vận tải nhằm giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng của vận chuyển đến môi
trường.
- Chức năng dự trữ hàng hố : Đây là chức năng khơng cơ bản gắn liền với
việc tồn trữ hàng hố trong q trình vận chuyển. Dự trữ hàng hoá trong vận chuyển
phụ thuộc vào tốc độ và cường độ vận chuyển. Phương tiện vận tải có tốc độ càng
cao thì dự trữ trênđường càng nhỏ. Đồng thời có thể lợi dụng chức năng này để sử
dụng phương tiện vận tải dự trữ hàng hoá thay cho kho trong những trường hợp nếu
sử dụng phương tiện vận tải để dự trữ tốt hơn kho: do thiếu kho, thay kho dự trữ
ngắn ngày để tiết kiệm chi phí bốc dỡ...Nguyên tắc dự trữ trên phương tiện là đảm
bảo chất lượng hàng hoá, giảm thời gian vận động của hàng hố với chi phí thấp.
Các loại hình vận chuyển hàng hố và vai trị của nó
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các loại hình vận chuyển càng phong
phú. Có thể phân loại vận chuyển hàng hoá theo một số tiêu thức sau:
- Theo đặc trưng của con đường và phương tiện vận tải, có các loại hình vận
chuyển : vận chuyển đường sắt, đường thuỷ, đường bộ (ôtô), đường không (máy
bay), đường ống.Đặc điểm cơ cấu chi phí của các loại hình vận chuyển này như sau:
+ Đường sắt: Chi phí cố định cao, chi phí biến đổi thấp
+ Đường thuỷ: Chi phí cố định trung bình, chi phí biến đổi thấp
+ Đường bộ: Chi phí cố định thấp, chi phí biến đổi trung bình
+ Đường khơng: Chi phí cố định thấp, chi phí biến đổi cao
+ Đường ống: Chi phí cố định rất cao, chi phí biến đổi thấp nhất.
* Các đặc trưng dịch vụ và chi phí của các loại hình phương tiện vận tải
được thể hiện ở bảng :
Những đặc điểm dịch vụ và chi phí của các phương tiện vận tải
Đặc
điểm
Tốc
độ
Tính
liên tục
Độ tin
cậy
Khả năng
bảo quản
nhiều loại
hàng
Tính
linh
hoạt
Chi
phí
1- Đường sắt
3
4
4
2
2
3
2- Đường thủy
4
5
5
1
4
1
2
2
2
3
1
4
1
3
3
4
3
5
5
1
1
5
5
2
Phương tiện
3- Đường bộ
(Ơtơ)
4- Đường khơng
(máy bay)
5- Đường ống
Ghi chú: Từ 1 đến 5- Từ tốt nhất đến kém nhất
- Theo đặc trưng sở hữu và mức độ điều tiết của nhà nước, có các loại hình
vận chuyển : vận chuyển riêng, vận chuyển hợp đồng và vận chuyển chung.
+ Vận chuyển riêng là loại hình vận chuyển trong đó, các doanh nghiệp
(khơng phải kinh doanh vận tải) có phương tiện vận tải và tự cung cấp dịch vụ vận
chuyển cho riêng mình. Vận chuyển riêng ít bị điều tiết bởi luật kinh tế, tuy nhiên
phải tuân thủ những điều luật liên quan đến di chuyển những hàng hoá nguy hiểm,
đến an toàn lao động, phương tiện, và các điều luật xã hội khác do nhà nước ban
hành.
+ Vận chuyển hợp đồng: Người vận chuyển hợp đồng cung cấp dịch vụ vận
tải cho khách hàng có chọn lọc. Cơ sở của hợp đồng là sự thoả thuận về chi phí và
dịch vụ giữa người vận chuyển và chủ hàng mà không bị nhà nước chi phối. Trong
từng thời kỳ, người vận chuyển hợp đồng bị hạn chế tuyến đường và hàng hố vận
chuyển, do đó hạn chế lượng khách hàng và khả năng cạnh tranh trực tiếp với
những người vận chuyển chung (vận chuyển công cộng).
+ Vận chuyển chung (công cộng): Cơ sở căn bản của hệ thống vận chuyển
chung là những người vận chuyển chung (common carriers). Vận chuyển chung có
trách nhiệm cung cấp dịch vụ với mức giá chung(được qui định)cho công chúng.
Quyền hạn vận chuyển chung có thể cho mọi hàng hố, hoặc giới hạn chun mơn
hố cho các loại hàng. Đồng thời người vận chuyển chung được định rõ khu vực
địa lý hoạt động.
- Theo số lượng phương tiện và mức độ tập trung vận chuyển:
+ Vận chuyển đơn thức: Chỉ sử dụng một phương tiện và với một người vận
chuyển
+ Vận chuyển đa phương thức (đa phương tiện tập trung): sử dụng nhiều phương tiện vận tải, nhưng chỉ với một chứng từ vận tải và do một tổ chức chịu trách
nhiệm.
+Vận chuyển đứt đoạn (đa phương tiện phân tán): sử dụng nhiều phương
tiện vận tải, với nhiều chứng từ vận tải và do nhiều tổ chức chịu trách nhiệm.
- Các thành phần tham gia q trình vận chuyển hàng hố:
Dịch vụ vận chuyển là một loại sản phẩm đặc biệt và do đó có nhiều thành
phần tham gia, bao gồm: Người giao và người nhận hang, Người vận chuyển,
Chính phủ và, cơng chúng.
Cơng chúng
Chính phủ
Người gửi
Người nhận
ĐV vận tải
Dịng hàng hóá
Dịng chứng
từ/thanh tốn
Dịng thơng tin
+ Người giao hàng (shipper, còn gọi là chủ hàng): là người yêu cầu vận
chuyển hàng hoá đến địa điểm nhất định trong khoảng thời gian cho phép. Thành
phần này thực hiện các hoạt động như tập hợp lô hàng, đảm bảo thời gian cung
ứng, không để xẩy ra hao hụt và các sự cố, trao đổi thơng tin kịp thời và chính
xác,.... Mục tiêu của người giao hàng là sử dụng dịch vụ vận chuyển sao cho có thể
tối thiểu hố tổng chi phí logistics (gồm chi phí vận chuyển, dự trữ, thơng tin, và
mạng lưới) trong khi đáp ứng tốt mức dịch vụ khách hàng yêu cầu.
Bởi vậy, người giao hàng cần hiểu biết về những cơ hội và khó khăn của các
phương án vận chuyển khác nhau, đồng thời cần có kĩ năng đàm phán và thương
lượng để có được chất lượng vận chuyển cao với các điều khoản hợp lí. Người gửi
và đơn vị vận tải cần xây dựng được mối quan hệ hợp tác, gắn bó trên cơ sở hai
bên cùng có lợi và phát triển bền vững.
+ Người nhận hàng (consignee, còn gọi là khách hàng): là người yêu cầu
được chuyển hàng hoá đến đúng địa điểm, đúng thời gian, đúng số lượng, chất
lượng và cơ cấu với mức giá thoả thuận như theo đơn đặt hàng đã thông báo với
người gửi. Người nhận hàng quan tâm tới chất lượng dịch vụ trong mối tương quan
với giá cả.
+ Đơn vị vận tải (carrier): là chủ sở hữu và vận hành các phương tiện vận tải
(ô tô, máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ...) vì mục tiêu tối đa hố lợi nhuận và nhanh
chóng hồn trả vốn đầu tư. Mức độ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ vận tải sẽ
quyết định giá cả, tính đa dạng và chất lượng dịch vụ của từng loại hình vận
chuyển hàng hố. Đơn vị vận tải phải đạt được tính chun nghiệp cao trong việc
nhận biết nhu cầu của người gửi và người nhận, hỗ trợ ra quyết định về phương án
và lộ trình vận chuyển tối ưu, quản lí tốt nguồn lực và nâng cao hiệu quả chuyên
trở hàng hoá.
Đơn vị vận tải và người giao hàng / người nhận hàng phải trao đổi kĩ lưỡng
với nhau về các phương án để nâng cao năng lực vận chuyển. Trong đó cần rút
ngắn thời gian vận chuyển bình quân, tăng hệ số sử dụng trọng tải của phương tiện,
nâng cao hệ số sử dụng phương tiện theo thời gian, nâng cao hệ số sử dụng quãng
đường xe chạy có hàng, tăng vòng quay của xe, cải tiến thủ tục giấy tờ và lề lối
làm việc, v.v.
+ Chính phủ: thường là người đầu tư và quản lí hệ thống hạ tầng cơ sở giao
thông cho con đường vận chuyển (đường sắt, đường bộ, đường ống) và các điểm
dừng đỗ phương tiện vận chuyển (sân bay, bến cảng, bến xe, nhà ga, trạm bơm và
kiểm sốt,...). Chính phủ xây dựng và qui hoạch các chiến lược giao thơng dài hạn
cùng các chính sách và luật lệ nhằm cân đối hài hoà giữa các mục tiêu kinh tế, xã
hội và môi trường.
Dịch vụ vận chuyển hàng hố có nhiều ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh
tế quốc dân, môi trường xã hội, môi trường sinh thái và chất lượng cuộc sống của
cộng đồng, bởi vậy chính quyền thường can thiệp và kiểm soát ở nhiều mức độ
khác nhau. Sự can thiệp của chính phủ thể hiện dưới nhiều hình thức trực tiếp và
gián tiếp như: luật và các văn bản dưới luật, chính sách khuyến khích hoặc giới hạn
quyền sở hữu các phương tiện vận tải, giới hạn hoặc mở rộng thị trường, qui định
giá, hỗ trợ phát triển ngành GTVT, v.v.
Chính sách đổi mới kinh tế của Việt Nam từ 1986 đến nay đã có tác động rất
lớn đến sự phát triển của ngành GTVT. Có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu hàng hoá
vận chuyển giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân theo xu hướng khu vực
kinh tế vận tải tư nhân ngày càng phát triển. Mặc dù còn rất nhiều hạn chế, nhưng
ngành GTVT nói chung và vận chuyển hàng hố nói riêng đang phát triển theo
hướng tích cực, góp phần quan trọng trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước.
+ Cơng chúng: Là thành phần rất quan tâm đến hoạt động vận chuyển hàng
hố nói riêng và giao thơng vận tải nói chung vì vận chuyển liên quan đến chi phí,
mơi trường và an tồn xã hội. Cơng chúng tạo nên dư luận xã hội và gây sức ép để
chính phủ và chính quyền các cấp ra các quyết định vì mục tiêu an sinh của địa
phương và quốc gia.
Như vậy, trong vận chuyển hàng hoá phát sinh mâu thuẫn giữa những lợi ích
cục bộ của người giao, người nhận, người vận chuyển, và lợi ích xã hội tổng thể
(chính phủ và cơng chúng) dẫn đến sự đối lập, điều hồ và kiểm sốt dịch vụ vận
tải.
2. Vị trí và tầm quan trọng của vận chuyển trong nền kinh tế và tại các doanh
nghiệp.
2.1. Đối với nền kinh tế
Khi so sánh nền kinh tế của các nước phát triển với các nước đang phát triển
sẽ nhận thấy rõ ràng vai trò của vận chuyển hàng hóa trong việc tạo ra trình độ
kinh tế phát triển cao. Đặc trưng của các nước đang phát triển là q trình sản xuất
và tiêu thụ hàng hóa diễn ra gần nhau, phần lớn lực lượng lao động ở khu v ực sản
xuát nông nghiệp (70% ở Việt Nam), và tỷ lệ dân số sống ở thành thì thấp. Với sự
hiện diện của hệ thống vận chuyển tiên tiến, đa dạng, vừa khả năng thanh tốn và
ln sẵn sàng phục vụ, toàn bộ cấu trúc của nền kinh tế sẽ có điều kiện thuận lợi để
chuyển đổi theo cấu trúc của nền kinh tế công nghiệp phát triển. Hay nói cách
khác, một hệ thống vận chuyển chi phí thấp và năng động sẽ góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia trên thị trường toàn cầu, tăng tính hiệu quả của sản
xuất và giảm giá cả hàng hóa. Ngành vận chuyển đóng một vị trí và vai trị vơ cùng
quan trọng trong nền kinh tế.
- Tạo nên một phần đáng kể trong tổng thu nhập xã hội và thu nhập
quốc dân.
- Vận tải đáp ứng nhu cầu di chuyển ngày càng tăng của hàng hóa và
hành khách trong xã hội .
- Góp phần khắc phục sự phát triển không đồng đều giưã các địa
phương ,mở rộng giao lưu,trao đổi hàng hóa,trong nước và quốc tế.
- Rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn,giữa đồng bằng
và miền núi ,góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
- Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngồi.
- Đóng góp đáng kể với nước ngồi
- Khắc phục sự khác biệt ngày càng lớn về không gian và không gian
giữa sản xuất và tiêu dùng.
- Tăng cường khả năng quốc phòng và bảo vệ đất nước.
2.2. Đối với các doanh nghiệp.
- Dưới góc độ chức năng quản trị Logistics trong doạnh nghiệp, hoạt động
vận chuyển hàng hóa được ví như sợi chỉ liên kết các tác nghiệp sản xuất kinh
doanh tại các địa bàn khác của doanh nghiệp. Vận chuyển để cung cấp nguyên vật
liệu, bán thành phẩn và hàng hóa đầu vào cho các cơ sở trong mạng lưới logistics.
Vận chuyển để cung ứng hàng hóa tới khách hàng đúng thời gian và địa điểm họ
yêu cầu, đảm bảo an tồn hàng hóa trong mức giá thỏa thn. Do vậy, vận chuyển
hàng hóa phải thực hiện cả 2 nhiệm vụ logistics trong doanh nghiệp: nâng cao chất
lượng dịch vụ logistics và giảm tổng chi phí của tồn bộ hệ thống.
- Quản trị vận chuyển là một trong ba nội dung trọng tâm của hệ thống
logistics trong doanh nghiệp, có tác động trực tiếp và dài hạn đến chi phí và trình
độ dịch vụ khách hàng, đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bất kỳ lợi thế
cạnh tranh nào của doanh nghiệp nói chung và của logistics nói riêng cũng đều có
mối liên hệ mật thiết với hệ thống vận chuyển hàng hóa hợp lý.
- Nhìn chung, vận chuyển hàng hóa có ảnh hưởng to lớn đến quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên các nhà quản trị phải luôn quan tâm, cân
nhắc và lựa chọn tối ưu về mạng lưới, phương thức vận tải, tuyến đường, đơn vị
vận tải, v,v… để có được quyết định đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu
suất kinh doanh.
B. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam
1.1. Năng lực vận chuyển là gì ?
- Năng lực vận chuyển (capability ): cho biết khối lượng hàng hóa và địa bàn
hoạt động mà đơn vị vận tải có thể chuyên trở được trong một khoảng thời gian
nhất định thể hiện qua số lượng phương tiện vận tải và các thiết bị đi kèm. Năng
lực vận chuyển còn thể hiện ở khả năng tiếp cận đúng địa điểm và vị trí theo yêu
cầu của khách hàng. Vận tải đường bộ có chi phí tương đối cao nếu vận chuyển
khối lượng lớn trên quãng đường dài nhưng lại rất linh hoạt và có khả năng đáp
ứng được đến đúng địa điểm theo yêu cầu, đến tận cửa kho hàng hóa của khách
hàng.
1.2.Năng lực vận chuyển của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam
- Theo đánh giá của các chuyên gia thì hiện nay tại Việt Nam quy mô của các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, kinh doanh manh mún. Nguồn lợi
hàng tỷ đô này lại đang chảy vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Các DN Việt Nam
mới chỉ có một phần rất nhỏ trong miếng bánh khổng lồ và đang ngày càng phình to
của thị trường dịch vụ logistics. Theo tính tốn mới nhất của Cục Hàng hải Việt
Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong logistics là vận tải biển thì DN trong nước mới
chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn
lại đang bị chi phối bởi các DN nước ngoài. Điều này thực sự là một thua thiệt lớn
cho DN Việt Nam khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng
đường biển. Năm 2006 lượng hàng qua các cảng biển Việt Nam là 153 triệu tấn và
tốc độ tăng trưởng lên đến 19,4%. Đây thực sự một thị trường mơ ước mà các tập
đoàn nước ngoài đang thèm muốn và tập trung khai phá.
- Hiện tại, trên cả nước có khoảng 800-900 doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực logistics. Trong đó, VIFFAS có 97 hội viên (77 hội viên chính thức và 20
hội viên liên kết). Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với
vốn đăng ký trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng/doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp logistics tại Việt Nam hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics,
và mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ
khổng lồ này. Ngành công nghiệp logistics của Việt Nam hiện vẫn đang ở thời kỳ
phôi thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực hiện ở một cách thức
thống nhất.
- Hiện nay hạ tầng cơ sở logistics tại VN nói chung cịn nghèo nàn, qui mơ
nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của VN bao gồm trên
17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng
biển và 20 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là khơng đồng đều, có
những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có
thể tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang trong q trình container
hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa dược trang bị các thiết bị
xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container.
- Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy
bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón
được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như TSN, Nội Bài, Đà
nẳng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực họat động cho đại lý logistics thực hiện
gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm. Khả năng bảo trì và
phát triển đường bộ cịn thấp, dường khơng dược thiết kế để vận chuyển container,
các đội xe tải chuyên dung hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải đường sắt không đựơc
vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hóa. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê,
lượng hàng hoá vận chuyển đường sắt chiếm khoảng 15% tổng lượng hàng hố lưu
thơng. Tuy nhiên, đường sắt VN vẫn đang đồng thời sử dụng 2 loại khổ ray khác
nhau (1.000 và 1.435 mm) với tải trọng thấp. Chuyến tàu nhanh nhất chạy tuyến Hà
Nội - TP Hồ Chí Minh (1.630 km) hiện vẫn cần đến 32 tiếng đồng hồ. Và khá nhiều
tuyến đường liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.
- Theo dự báo, trong tương lai không xa, dịch vụ giao nhận kho vận (logistics)
sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 15% GDP cả
nước. Đặc biệt, trong 10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có
thể đạt mức 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn. Dự
báo, đến năm 2010, hàng container qua cảng biển Việt Nam sẽ đạt từ 3,6-4,2 triệu
TEU. Con số này đến năm 2020 chắc chắn sẽ lên đến 7,7 triệu TEU.
- Song hành cùng sự phát triển kinh tế là tăng trưởng trong hoạt động xuất
nhập khẩu, do đó, ngành logistics lại thêm nhiều cơ hội phát triển. Theo dự báo của
Bộ Thương Mại, trong 10 năm tới kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước sẽ đạt tới
200 tỷ USD. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam còn
khá lớn.
2. Giải pháp phát triển năng lực vận chuyển của các công ty logistics Việt Nam
- Để giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh, việc tạo điều kiện cho
hoạt động logistics phát triển có ý nghĩa rất quan trọng. Các doanh nghiệp logistics
cần có nguồn nhân lực và phải được tổ chức chuyên nghiệp, quy mô hơn.
- Dịch vụ logistics là hàng loạt hoạt động kinh doanh trải dài trong các khâu
cung ứng nguyên liệu đầu vào, phân phối sản phẩm, đóng gói, tiếp thị, giám sát lưu
thơng… nhằm cung cấp giải pháp vận tải dựa trên việc lập kế hoạch, thực thi và
quản lý chặt chẽ các luồng hàng hóa, ứng dụng cơng nghệ thơng tin để nâng cao
chất lượng phục vụ của hệ thống giao thông, vận tải truyền thống, thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng. Dịch vụ này cũng góp phần giảm chi phí vận chuyển, tăng tổng thu
nhập quốc doanh. Ước tính nếu giảm 10% chi phí vận chuyển thì GDP quốc gia sẽ
tăng 0,5%.
- Để lộ trình được thực hiện nhanh và hiệu quả, vấn đề dịch vụ logicstics
được đặt lên hàng đầu. Có 3 phương thức vận chuyển hàng hóa đó là đường bộ,
hàng không và đường biển.
+ Đối với vận tải biển, phát triển cảng biển bao gồm việc phát triển hệ thống
cầu cảng, kho bãi, cảng thông quan nội địa (ICD), đầu tư các phương tiện xếp dỡ,
phương tiện vận chuyển hàng hoá trong cảng cũng như phương tiện vận chuyển
hàng hoá từ ICD đến cảng và ngược lại, áp dụng các công nghệ thông tin. Phát triển
logistics cũng gắn với quá trình phát triển hàng hải, với sự phát triển của phương
thức vận chuyển bằng container, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, an tồn và hiệu quả.
Các cảng cần đầu tư, hiện đại hóa để đủ sức tiếp nhận các tàu container thế hệ mới
phù hợp với xu hướng phát triển hàng hải của thế giới.
+ Trong lĩnh vực giao thông vận tải, đường sắt, đường bộ, đường sông... cũng
phải phát triển theo hướng này để đồng bộ hố các khâu trong q trình vận chuyển,
giảm chi phí dịch vụ logistics, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hố và dịch vụ Việt
Nam.
Với vai trị điều phối lộ trình hội nhập ngành logistics của ASEAN, Việt Nam
mong muốn thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ logistics trong khu vực, qua đó, nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp logistics, đóng góp tích
cực vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Hiện nay, dịch vụ logistics ở Việt
Nam chiếm 15%-20% GDP (khoảng 12 tỷ USD) mỗi năm với trên 800 doanh
nghiệp logistics đang hoạt động. Đa số doanh nghiệp có quy mơ vừa và nhỏ, tổ chức
kinh doanh cịn thể hiện sự manh mún, thiếu chuyên nghiệp, năng lực cạnh tranh
thấp và nguồn nhân lực hạn chế.
Hệ thống giao thông vận tải là cơ sở hạ tầng quan trọng trong việc phát triển
dịch vụ logistics. Hiện nay cơ sở hạ tầng giao thơng vận tải của Việt Nam cịn yếu
kém, kể cả đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường sông và đường biển.
Điều này đã làm cho chi phí của dịch vụ logistics cao lên, làm ảnh hưởng đến sự
phát triển cũng như hiệu quả của dịch vụ logistics ở Việt Nam.Giải pháp về đầu tư
cơ sở hạ tầng giao thông vận tải làm nền tảng cho hoạt động logistics:
+ Thực hiện theo Quy hoạch cảng biển 2020 và định hướng 2030, Quy hoạch
phát triển giao thông vận tải đường bộ đến năm 2020, định hướng 2030, đặc biệt Dự
án Nghiên cứu toàn diện về phát triển hệ thống GTVT bền vững VITRANSS2 (sắp
được công bố và bàn giao cho Bộ GTVT). Ưu tiên đầu tư các chương trình trọng
điểm logistics như phần trên.
+ Hạ tầng logistics cịn có hệ thống thơng tin, viễn thơng… Nhà nước có
chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư tư nhân, chủ động đầu tư của doanh nghiệp
và áp dụng mở rộng các mơ hình PPP ( hợp tác cơng tư)…
Giải pháp về đào tạo, nguồn nhân lực:Quá trình nhận thức, xây dựng kỹ năng
quản trị, kỹ năng thực hành logistics cần thời gian và công tác vận động, hướng
nghiệp. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, các trường, để đẩy mạnh
công tác đào tạo với nhiều hình thức linh hoạt, cung cấp nhân lực đáp ứng cho
ngành. Các hiệp hội ngành cần tranh thủ tài trợ, hợp tác đào tạo từ nước ngoài.
Giải pháp về mặt thể chế Nhà nước:Cần có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước,
thành lập Ủy ban quốc gia Logistics trong giai đoạn hiện nay để gắn kết, thống nhất
quản lý, tổ chức thực hiện những chương trình trọng điểm và phối hợp các ngành
hiệu quả hơn.
Tái cấu trúc logistics, khuyến khích áp dụng rộng rãi quản trị chuỗi cung ứng,
quản trị logistics trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần, khuyến khích việc
th ngồi (outsourcing) logistics, điều chỉnh và bổ sung luật, chính sách nhằm tạo
điều kiện phát triển hoạt động dịch vụ logistics cũng như các doanh nghiệp 3PL
trong nước; gỡ bỏ các hạn chế, cản trở để các công ty 3PL, 4PL nước ngồi hoạt
động thuận lợi hơn; có chính sách hỗ trợ đào tạo các chuyên viên logistics; triển
khai các hệ thống EDI và hệ thống giao dịch không giấy tờ tại các điểm hải quan,
cửa khẩu, cải cách hành chánh và minh bạch trong các dịch vụ cơng…
Giải pháp về phía các hiệp hội ngành:
- Tạo mối gắn kết giữa hiệp hội và thành viên, hỗ trợ tư vấn thiết thực và giúp
đỡ doanh nghiệp nâng cao tính chuyên nghiệp, đạo đức trong cạnh tranh.
- Khuyến khích sự cộng tác giữa các thành viên trên cơ sở sử dụng lợi thế
từng doanh nghiệp (cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống thông tin…) để thực hiện
dịch vụ trọn gói (one stop shop), mở rộng tầm hoạt động trong nước và quốc tế.
- Có chương trình đẩy mạnh quá trình liên kết, xúc tiến phát triển thị trường
mua bán sáp nhập doanh nghiệp (M&A) trong các doanh nghiệp dịch vụ logistics.
Hiệp hội cần làm tốt vai trò cầu nối với Nhà nước, quan hệ đối ngoại để hội nhập
khu vực và quốc tế; đồng thời phải là nơi nghiên cứu phát triển (R&D), quản lý các
chuẩn mực, tài liệu, mẫu biểu, thống kê, tiêu chí đánh giá… của ngành.
Việc đổi tên Hiệp hội Logistics Việt Nam thay cho Hiệp hội Giao nhận Kho
vận Việt Nam hiện nay, thành lập Viện Nghiên cứu Phát triển Logistics Việt Nam
thuộc Hiệp hội là những bước đi đúng hướng.
KẾT LUẬN
Logistics không chỉ là ngành đem lại nguồn lợi khổng lồ mà cịn có vai trò
to lớn, liên quan mật thiết tới sự cạnh tranh sống còn của doanh nghiệp. Khái niệm
logistics, theo ESCAP, là q trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và bao gồm cả vận
chuyển các tài nguyên - yếu tố đầu vào và đầu ra từ nhà cung cấp, nhà sản xuất,
nhà phân phối và đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua hàng loạt các hoạt
động kinh tế.
Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng một vai trị quan trọng không
thể thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối. Các nghiên cứu gần đây cho thấy,
chỉ riêng họat động logistics đã chiếm từ 10 đến 15% GDP của hầu hết các nước
tại Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu á Thái Binh Dương.Vì vậy nếu nâng cao hiệu quả
họat động logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước.
Đối với doanh nghiệp, logistics đóng vai trị to lớn trong việc giải quyết bài
tóan đầu vào và đầu ra một cách có hiệu quả. Logistics có thể thay đổi nguồn tài
nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa q trình chu chuyển ngun vật liệu, hàng hóa,
dịch vụ…logistics cịn giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam đang cố
gắng hết sức để phát triển ngành công nghiệp mới mẻ này. Nghiên cứu và đưa ra
các biện pháp nhằm nâng cao năng lực vận chuyển cũng là một bài tốn khó đối
với các doanh nghiệp logistics Việt Nam.