Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ảnh hưởng của các dòng vi khuẩn bacillus (b41 b67) lên các yếu tố môi trường và tôm thẻ chân trắng (litopenaues vannamei) nuôi trong bể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.75 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THUỶ SẢN

VÕ NAM SƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC DÒNG VI KHUẨN Bacillus
(B41 & B67) LÊN CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÀ TÔM
THẺ CHÂN TRẮNG (Litopenaues vannamei)
NUÔI TRONG BỂ

LUẬN VẶN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THUỶ SẢN

VÕ NAM SƯƠNG

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC DÒNG VI KHUẨN Bacillus
(B41 & B67) LÊN CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÀ TÔM
THẺ CHÂN TRẮNG (Litopenaues vannamei)
NUÔI TRONG BỂ

LUẬN VẶN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. PHẠM THỊ TUYẾT NGÂN



2013


Trường Đại học Cần Thơ

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC DÒNG VI KHUẨN Bacillus (B41 và
B67) LÊN CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÀ TÔM THẺ CHÂN
TRẮNG (Litopenaues vannamei) NUÔI TRONG BỂ
Võ Nam Sương, Huỳnh Hữu Điền và Phạm Thị Tuyết Ngân
ABTRACT
A study was conducted to evaluate the efficiency of beneficial bacteria
(probiotics) isolated from black tiger shrimp pond in Soc Trang, on improving
water quality, growth and survival rate of white leg shrimp performance. The
experiment consisted of 2 different Bacillus strains (B41 and B67) treatments at
a density of 109 CFU/mL and control treatment (no supplemented Bacillus).
Each treatment was done in triplicate. Shrimp were stocked in composite tanks
(at a density of 1/2 shrimp/L) with the capacity 100L at salinity 15 ppt during 60
days of culture. Some water quality parameters (TSS, TAN, COD) and total
density of Bacillus and Vibrio were recorded each 5 days. At the end of the
experiment, shrimp were harvested and survival and growth were assessed.
Results showed that the water quality in supplemented Bacillus treatments was
better than in control treatment. The B41 strain treatment had a significantly
higher effect compared to the control and other treatments. The survival rate of
shrimp whose tank received the B41 treatment was the highest (57.3±1.15%),
while the survival rate of shrimp in the control tank was the lowest (40±4%)
(p<0.05). The growth rate of shrimp in the tank received the B41 strain was
highest with a length increase of 0.097 ± 0.003 mm/day and a weight increament
0.098 ± 0.002 g/day; it was lowest in the control group (0.091 ± 0.003 mm/day
and 0.092 ± 0.002 g/day). Results of this study indicate that the addition of

Bacillus can improve shrimp (L. vannamei) growth, survival rate and water
quality in shrimp pond, especially B41 strain.
Key words: Litopenaeus vannamei, Bacillus, Vibrio
TÓM TẮT
Một thí nghiệm đánh giá hiệu quả cải thiện chất lượng nước, sinh trưởng và tỉ lệ
sống tôm thẻ chân trắng trong quá trình nuôi được bổ sung các dòng vi khuẩn có
lợi phân lập trong ao nuôi tôm sú thâm canh tỉnh Sóc Trăng đã được thực hiện.
Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức 3 lần lặp lại. Trong đó 2 dòng
vi khuẩn Bacillus B41 (B. Amyloliquefaciens) and B67 (B. subtilis) đã được thử
nghiệm bổ sung vào bể nuôi tôm thẻ chân trắng và đối chứng không bổ sung vi
khuẩn. Thí nghiệm được bố trí trong bể composite 100 L với mật độ 0,5 con/L ở
độ mặn 15‰ trong thời gian 60 ngày. Vi khuẩn Bacillus được bổ sung với mật
độ 105 CFU/mL. Một số chỉ tiêu chất lượng nước (TSS, TAN, COD), mật độ
tổng vi khuẩn, Bacillus và Vibio được theo dõi 5 ngày/lần. Tăng trưởng và tỉ lệ
sống của tôm được đánh giá khi kết thúc thí nghiệm. Kết quả cho thấy các chỉ
tiêu môi trường như COD, TAN và TSS trong nước ở các nghiệm thức bổ sung
vi khuẩn được cải thiện tốt hơn đối chứng. Nghiệm thức B41 có ảnh hưởng đến
chất lượng môi trường nhiều hơn các nghiệm thức còn lại. Tỉ lệ sống ở nghiệm
1


Trường Đại học Cần Thơ

thức B41 cao nhất (57,3 ± 1,15%), còn đối chứng thấp nhất ĐC (40 ± 4%). Tốc
độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài và trọng lượng của tôm cao nhất ở nghiệm
thức B41 lần lượt là 0,097 ± 0,003 mm/ngày và 0,098 ± 0,002 g/ngày; trong khi
đó ở nghiệm thức đối chứng tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài và trọng
lượng của tôm thấp nhất với các chỉ số tương ứng 0,091 ± 0,003 mm/ngày và
0,092 ± 0,002 g/ngày. Như vậy việc bổ sung các dòng vi khuẩn Bacillus đã góp
phần nâng cao chất lượng môi trường, cải thiện sinh trưởng và tỉ lệ sống tôm

nuôi. Đặc biệt ở nghiệm thức dòng B41 mang lại hiệu quả tốt nhất.
Từ khóa : Litopenaeus vannamei, Bacillus, Vibrio
1 GIỚI THIỆU

Những năm gần đây sự phát triển nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam và
trên thế giới có bước phát triển mạnh, năng suất và sản lượng qua các năm đều
tăng đem lại lợi nhuận khá cao cho người nuôi nên người nuôi không ngừng
không ngừng mở rộng diện tích nuôi, tăng mật độ và mùa vụ thả nuôi. Từ đó,
dẫn đến tình trạng môi trường ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng dịch bệnh xảy ra
thường xuyên. Đồng thời, việc dùng kháng sinh và các hóa chất phòng trị trong
quá trình nuôi tích lũy chưa được xử lý hiệu quả, sản phẩm thủy sản tạo ra
không đảm bảo chất lượng. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là cải thiện
môi trường nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản được đặt lên hàng đầu
(Balcázar, 2006).
Để giải quyết vấn đề trên các nhà khoa học đang tập trung nghiên cứu về việc sử
dụng các vi sinh vật hữu ích có lợi như nhóm: Bacillus, Lactobacillus,
Nitrosomonas, Nitobacter... nhằm mục đích cải thiện môi trường nâng cao sức
khỏe con người và vật nuôi. Một trong các nhóm vi khuẩn được nghiên cứu
nhiều nhất là nhóm Bacillus, hầu hết các loài thuộc giống Bacillus không độc hại
cho con người và động vật thủy sản, góp phần tăng khả năng tiêu hóa thức ăn
(Olmos và Ochoa, 2005). Nước ta chỉ mới ứng dụng nhiều chế phẩm sinh học từ
năm 2000 trở lại đây. Thực tế việc sử dụng nhiều chế phẩm sinh học trong thời
gian qua cho hiệu quả rất tốt, góp phần giảm các loại hóa chất, thuốc kháng sinh,
tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu trong nước và tăng
cường sức mạnh cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu (Phạm văn Tình, 2010).
Những năm gần đây tại khoa Thủy sản, Đại Học Cần Thơ, đã phân lập, định
danh và đánh giá được hiệu quả xử lý nước của một số dòng vi khuẩn Bacillus
có nguồn gốc từ ao nuôi tôm thâm canh tại tỉnh Sóc Trăng (Phạm Thị Tuyết
Ngân và Phạm Hữu Hiệp, 2010) đã được nghiên cứu sản xuất thử nghiệm chế
phẩm vi sinh đơn dòng từ các dòng Bacillus (B41 và B67) ở quy mô nhỏ để có

cơ sở phát triển quy mô lớn hơn nhằm phục vụ cho nhu cầu sử dụng chế phẩm vi
sinh trong nuôi trồng thủy sản một cách hiệu quả.
2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm thí nghiệm

Thời gian nghiên cứu : 09/2013 đến tháng 11/2013. Thí nghiệm được bố trí tại
khu thí nghiệm Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng. Mẫu thu được trữ và phân tích
2


Trường Đại học Cần Thơ

tại phòng thí nghiệm vi sinh và phòng phân tích chất lượng nước Khoa Thủy
Sản, Trường Đại học Cần thơ.
2.2 Đối tượng nghiên cứu
Nguồn vi khuẩn: Vi khuẩn Bacillus đã được phân lập từ ao nuôi tôm sú thâm
canh ở ấp Tân Tĩnh, xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng vào năm
2008. Sau khi phân lập vi khuẩn được lưu trữ trong 20% glycerol ở tủ đông (80oC). Vi khuẩn khảo sát gồm 2 dòng vi khuẩn Bacillus:
Bacillus
amyloliquefacien (B41) và Bacillus subtilis (B67).
Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei):Khối lượng lớn hơn 1g được
mua từ trại sản xuất tôm giống chọn tôm khỏe mạnh, không nhiễm bệnh. Sau đó
tôm được thuần hóa dần về độ mặn 15‰ để bố trí thí nghiệm.
Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần và thời gian thí
nghiệm là 2 tháng
o Nghiệm thức 1: Không bổ sung chế phẩm (Đối chứng).
o Nghiệm thức 2: Bổ sung chế phẩm đơn dòng B67 (B. Amyloliquefaciens)
vào bể nuôi với mật độ 105 CFU/mL.
o Nghiệm thức 3: Bổ sung chế phẩm đơn dòng B41 (B. subtilis) vào bể nuôi

với mật độ 105 CFU/mL.
Bố trí: tôm sau khi được thuần đến độ mặn 15‰ thì được bố trí hoàn toàn ngẫu
nhiên vào bể 100 L với mật độ 0,5 con/L. Vi khuẩn sau khi xác định mật độ
được bố trí vào bể trước khi tiến hành thả tôm một ngày. Vi khuẩn được bổ sung
5 ngày/lần.
Chăm sóc và cho ăn: Tôm được cho ăn bằng thức ăn công nghiệp (LEADER)
thành phần 39-40% độ đạm thô, chất béo tối thiểu 4-5%, chất xơ tối đa 3-4%,
ẩm độ  11%, lượng thức ăn theo nhu cầu của tôm chia làm 4 lần/ngày vào 6h
(30%), 11h (15%), 16h (15%) và 21h (40%). Cho một ít thức ăn vào sàn ăn, số
còn lại rải đều khắp bể. Sau mỗi lần cho ăn thì kiểm tra sàn ăn để điều chỉnh
lượng thức ăn phù hợp.
Bảng 1 : Lượng thức ăn hàng ngày cho tôm
Chiều dài tôm (cm)
1 -2
3
4
5

Lượng thức ăn hàng ngày (% trọng lượng tôm)
150-200
100
50
32

(Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư, 2003)
2.3 Theo dõi các chỉ tiêu tăng trưởng, tăng trọng và tỉ lệ sống
Trước khi bố trí thí nghiệm 20 con tôm đã được cân và đo chiều dài ngẫu nhiên,
tính được trọng lượng trung bình (W0) và chiều dài trung bình (L0). Tương tự
khi kết thúc thí nghiệm cân và đo ngẫu nhiên 30 con tôm cho mỗi nghiệm thức
(Wt và Lt).


3


Trường Đại học Cần Thơ

Tỷ lệ sống (%) = (số cá thể cuối thí nghiệm/số cá thể ban đầu) × 100
Công thức tính tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng (g/ngày).
DWG (g/ngày) = (Wt – W0)/t
Công thức tính tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài (cm/ngày)
DLG (cm/ngày) = ( Lt – L0 )/t
Trong đó: W0: Khối lượng tôm ban đầu; Wt: Khối lượng tôm ở thời điểm t; Lo:
Chiều dài tôm ở thời điểm ban đầu; Lt : Chiều dài tôm ở thời điểm t; t: Thời
gian nuôi t
2.4 Phương pháp thu và phân tích chất lượng nước:
Thu mẫu: Mẫu nước được thu cách mặt nước 20- 30 cm, thu trước khi bổ sung
vi khuẩn vào bể với các chỉ tiêu: TAN, COD, TSS và xác định mật độ tổng vi
khuẩn, Vibrio và vi khuẩn Bacillus. Nhiệt độ, pH đo 02 lần/ngày (sáng 8 giờ,
chiều 14giờ); oxy 5 ngày đo 01 lần vào buổi sáng bằng nhiệt kế và máy đo pH,
oxy. Tất cả các chỉ tiêu chất lượng nước phân tích theo phương pháp APHA
(1995).
2.5 Phương pháp xác định mật độ vi khuẩn:
Xác định mật độ vi khuẩn tổng cộng và Vibrio bằng phương pháp đếm khuẩn lạc
(Baumann et al., 1980).
2.7.1 Phương pháp pha loãng mẫu (Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv., 2004).

Các ống nghiệm chứa 9 mL nước muối sinh lý (0,85%) đã tiệt trùng được chuẩn
bị để pha loãng mẫu. Môi trường Nutrient Agar (NA) thêm 1,5% NaCl và môi
trường Thiosulphate Citrate Bile Sucrose Agar (TCBS) được sử dụng để xác
định mật độ vi khuẩn tổng và Vibrio. Tại phòng thí nghiệm, mẫu nước được lấy

ra khỏi tủ mát (3 - 4 ºC) và để ở nhiệt độ phòng (25 - 28 ○C). Dụng cụ chứa mẫu
được mở nắp trong tủ cấy tiệt trùng, 1 mL mẫu nước từ được chuyển sang các
ống nghiệm chứa 9 mL nước muối sinh lý (0,85%) đã tiệt trùng ở 121 C trong
20 phút. Dung dịch được trộn đều bằng máy trộn (Vortex) khoảng 1 phút. Sau
đó từ mỗi mẫu này lấy 100μL dạng dung dịch tại phần giữa của ống nghiệm
chuyển sang một ống nghiệm rỗng đã được tiệt trùng rồi trộn với nhau thành 1
mẫu 9 mL đại diện cho ao đó, được độ pha loãng 10-1. Lắc đều mẫu 10-1 trong 1
phút rồi để yên cho lắng 30 giây và chuyển 1mL dung dịch ở phần giữa ống
nghiệm sang ống nghiệm khác chứa 9 mL nước muối sinh lý được độ pha loãng
10-2. Tiếp tục pha loãng theo cách này đến khi đạt được độ pha loãng thích hợp,
bắt đầu từ độ pha loãng 10-2 chỉ lắc 30 giây và để lắng 15 giây. Trong nghiên
cứu này mẫu nước đã được pha loãng đến khoảng 10-6.
2.7.2 Phương pháp phân tích mẫu trên môi trường thạch
Sau khi các mẫu đã được pha loãng, 100 µL dung dịch vi khuẩn được cho vào
đĩa chứa môi trường NA (thêm 1,5% NaCl) và TCBS, tán đều đến khi mẫu khô.
Ba độ pha loãng khác nhau của mỗi mẫu bùn được chọn để cấy lên các đĩa môi
trường này, mỗi độ pha loãng lặp lại 3 lần. Các đĩa môi trường đã cấy vi khuẩn
được ủ ở 28 ºC trong 48 giờ. Sau khi ủ, kiểm tra số khuẩn lạc phát triển trên bề
4


Trường Đại học Cần Thơ

mặt thạch của các đĩa môi trường để xác định mật độ vi khuẩn tổng và Vibrio
có trong nước. Các đĩa môi trường của cả 3 độ pha loãng được chọn cần có số
khuẩn lạc dao động trong khoảng từ 20 đến 200 khuẩn lạc để đảm bảo độ tin
cậy của phương pháp. Mật độ vi khuẩn tổng cộng và Vibrio được tính bằng đơn
vị hình thành khuẩn lạc/mL nước. Xác định số lượng khuẩn lạc trong mỗi đĩa
môi trường và tính số lượng trung bình cùng độ lệch chuẩn. Số lượng vi khuẩn
được tính bằng công thức:

Đơn vị hình thành khuẩn lạc (CFU/mL nước) = số khuẩn lạc trung bình × độ pha
loãng × 10
2.7.3 Xác định mật độ Bacillus dựa theo phương pháp của Nguyễn Lân Dũng,
1983; Harwood và Archibald, 1990.
Phương pháp pha loãng mẫu nước được thực hiện giống như mục 2.7.1 đã trình
bày trong phần trên. Tiếp theo ba độ pha loãng thích hợp cho mỗi mẫu nước
được chọn và xếp vào cùng một giá đã có sẵn nhiệt kế được đặt vào một ống
nghiệm chứa nước khác để xác định nhiệt độ cần thiết cho thí nghiệm, tất cả cho
vào nước nóng ở 80 ºC. Khi nhiệt kế đạt 80 C tính thời gian đến 10 phút và các
ống nghiệm được lấy ra. Sau đó, 100 µL dung dịch mùn được cho vào các đĩa
chứa môi trường thạch đã chuyên biệt cho giống Bacillus chuẩn bị sẵn, trãi đều
đến khi mẫu khô, mỗi độ pha loãng lặp lại 3 lần. Mẫu sau khi trãi được ủ ở 28 
C trong 24 - 48 giờ. Mật độ vi khuẩn được xác định như cách đã trình bày ở trên.
2.6 Phương pháp xử lý số liệu

Sau khi thí nghiệm kết thúc, số liệu được phân tích và xử lý theo chương trình
Excel và xử lý thống kê ANOVA một nhân tố và phép thử Ducan bằng chương
trình SPSS 16.0 ở mức ý nghĩa (p = 0,05).
3 KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1 Biến động các chỉ tiêu môi trường nước
3.1.1 Nhiệt độ , pH, độ mặn, Oxy hòa tan:

Nhiệt độ giữa các bể có bổ sung và không bổ sung vi khuẩn không có sự khác
biệt và dao động từ 27,6oC vào buổi sáng đến 28,4oC vào buổi chiều. Theo Boyd
et al., (2002) nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển của giáp xác dao động 25 – 30 oC,
chênh lệch nhiệt độ ngày đêm không quá 5ºC trong ngày được xem là tối ưu
cho nuôi tôm. Từ đó cho thấy nhiệt độ trong thí nghiệm rất thích hợp cho sự
phát triển của tôm. Yếu tố pH cũng không có sự biến động đáng kể dao động
trong khoảng từ 7,9 – 8,0 trong suốt thời gian thí nghiệm. Do thí nghiệm được
bố trí trong phòng kín nên các yếu tố nhiệt độ và pH ít biến động trong quá trình

thí nghiệm. Độ mặn cũng được khống chế dao động 15 - 17‰. Như vậy các yếu
tố nhiệt độ, pH và độ mặn trong 60 ngày thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp
cho sự tăng trưởng và phát triển của tôm thẻ chân trắng.
Bảng 2: Sự biến động của nhiệt độ, pH
Nhiệt độ (0C)
Nghiệm thức
Sáng
chiều
ĐC
27,7±0,69
28,3±0,66
B67
27,6±0,70
28,4±0,70
B41
27,8±0,69
28,1±0,66
5

pH
Sáng
7,9±0,14
7,9±0,12
8,0±0,13

Chiều
7,9±0,15
8,0±0,14
8,0±0,15



Trường Đại học Cần Thơ

Hàm lượng oxy hòa tan giữa các nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn và đối
chứng khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) do oxy được cung cấp liên tục bằng
máy sục khí. Oxy trong thí nghiệm dao động 5,96 – 6,89 mg/L. Oxy trong thí
nghiệm dao động 5,96 – 6,89 mg/L. Theo Whetstone et al. (2002) oxy hòa tan lý
tưởng cho tôm là 5mg/L và không vượt quá 15 mg/L. Như vậy, hàm lượng oxy
hòa tan trong thí nghiệm là phù hợp với sự phát triển của tôm
3.1.2 COD (Tiêu hao oxy hóa học)

COD là lượng tiêu hao oxy trong quá trình phân hủy vật chất hữu cơ, là chỉ
số đo mức độ giàu hữu cơ của nước ao. COD trong thí nghiệm có khuynh
hướng tăng trong các lần thu mẫu (Hình 2). Hàm lượng COD ở các nghiệm thức
dao động từ 10,30 – 31,47 mg/L. Sau 5 ngày thí nghiệm ở các nghiệm thức B67
và B41 thì COD khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) và COD luôn thấp hơn so
với đối chứng. Sau 25 ngày COD ở đối chứng cao nhất (29,93 mg/L) khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với nghiệm thức B67 nhưng khác biệt không có ý
nghĩa (p>0,05) với nghiệm thức B41. Ở 2 nghiệm thức B67 và B41 COD khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Trong quá trình thí nghiệm sau 25 và
40 ngày có thay nước nên lượng COD có giảm và vẫn tiếp tục tăng sau những
ngày kế tiếp. Sau 60 ngày thí nghiệm ở các nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn thì
COD thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với đối chứng. Theo
kết quả của Briggs và Funge-Smith (1994) khi nuôi tôm ở mật độ tăng dần 10;
30; 50 con/m2 thì COD tăng lần lượt là 18,7; 27,6; 39 mg/L. Điều này có thể giải
thích do vai trò phân hủy vật chất hữu cơ ở các nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn
B67 và B41 đã làm giảm mức độ ô nhiễm. Hàm lượng COD trong quá trình thí
nghiệm là tương đối cao, nguyên nhân do mật độ tôm nuôi quá cao, lượng thức
ăn dư thừa và tích lũy chất thải của tôm theo thời gian do đó cần nhiều oxy cho
quá trình phân hủy các chất thải.


Hình 2: Biến động COD trong thí nghiệm
3.1.3 TAN (Tổng đạm amon)

Kết quả trình bày ở Hình 3 cho thấy TAN ở các nghiệm thức có bổ sung vi
khuẩn cao hơn có ý nghĩa thống kê so với đối chứng (p<0,05). Hàm lượng
TAN ở các nghiệm thức dao động từ (0,00 – 9,14 mg/L). Sau 10 ngày thí
nghiệm hàm lượng TAN tăng rất cao ở 3 nghiệm thức lần lượt là B41 (2,04 ±
0,507 mg/L); B67 (1,32 ± 0,156 mg/L); đối chứng (1,36 ±0,320 mg/L) và khác
6


Trường Đại học Cần Thơ

biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Theo Chanratchakool (2003) nhận định
rằng TAN thích hợp cho ao nuôi tôm là 0,2 – 2 mg/L. Trong các lần thu mẫu về
sau hàm lượng TAN ngày càng tăng và vượt quá giới hạn cho phép nên sau 25
và 40 ngày tiến hành thay nước 30%. Nhìn chung TAN ở các nghiệm thức là
tương đối cao nhưng không ảnh hưởng nhiều đến tôm nuôi do các yếu tố nhiệt
độ, pH, oxy luôn nằm trong khoảng thích hợp đồng thời việc sục khí liên tục góp
phần làm giảm lượng khí NH3 trong bể nuôi, ở 2 nghiệm thức B67 và B41 hàm
lượng TAN gần như khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau và
luôn cao hơn so với đối chứng. Điều này chứng tỏ sự hoạt động phân hủy hữu cơ
dư thừa của vi khuẩn ở nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn làm tăng quá trình
amon quá từ đó làm TAN tăng đáng kể so với nghiệm thức đối chứng.

Hình 3: biến động TAN trong thí nghiệm
3.1.4 TSS (Tổng vật chất lơ lửng)

TSS có xu hướng tăng vượt quá giới hạn cho phép vào 30 ngày đầu và cuối thí

nghiệm nên trong thời gian bố trí thí nghiệm đã thay nước vào ngày 25 và ngày
40. TSS cao nhất ở nghiệm thức đối chứng (0 – 335 mg/L) khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05) với nghiệm thức B67 (0 – 261 mg/L) và B41 (0 – 249 mg/L).
Theo Boyd et al., (2002) thì hàm lượng TSS tốt nhất cho ao nuôi tôm dao động
từ 40-100 mg/L. Sau 30 ngày trở đi thì 2 nghiệm thức B67 và B41 gần như khác
biệt không có ý nghĩa (p>0,05) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với đối
chứng. Điều này chứng tỏ vi khuẩn Bacillus B67 và B41 đã phân hủy nhanh hợp
chất hữu cơ đã làm giảm đáng kể một lượng chất hữu cơ trong nước.

Hình 4: Biến động TSS trong thí nghiệm
7


Trường Đại học Cần Thơ

3.2 Biến động mật số vi khuẩn trong nước
3.2.1 Biến động mật độ vi khuẩn Bacillus
Trong quá trình thí nghiệm mật độ Bacillus ở nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn
luôn cao hơn ĐC, sau 15 ngày bố trí mật độ Bacillus tăng nhanh, ở nghiệm thức
đối chứng (0 – 9 ×102 CFU/mL); nghiệm thức B67 (0 - 4,9×104 CFU/mL);
nghiệm thức B41 (0 - 4,7×104 CFU/mL) và tăng nhanh về cuối thí nghiệm. Sau
60 ngày thí nghiệm mật độ Bacillus cao nhất ở nghiệm thức B67 (6,6×104
CFU/mL) nhưng không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nghiệm thức
B41 (5,4×104 CFU/mL). Ở nghiệm thức đối chứng là thấp nhất (4,8×103
CFU/mL) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với nghiệm thức B67 và B41.
Trong quá trình thí nghiệm sau 25 và 40 ngày có thay nước nên mật độ Bacillus
đã giảm ở các nghiệm thức và vẫn tiếp tục tăng sau những ngày kế tiếp, ở
nghiệm thức đối chứng mật số vi khuẩn Bacillus tăng dần về cuối thí nghiệm có
thể do hàm lượng vật chất hữu cơ tăng cao.
Bảng 3: Biến động mật độ Bacillus trong nước

Ngày/NT
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
55
60

ĐC

0
1×10 ± 0,003b
6,5×102 ± 0,28b
9×102 ± 0,03a
3,4×103 ± 0,45b
3,3×103 ± 0,12b
2,4×103 ± 0,26 b
1,6×103 ± 0,07b
3,1×103 ± 0,17b
2,5×103 ± 0,18a
3,1×103 ± 0,09b
5,1×103 ± 0,13b
4,8 ×103 ± 0,07 b

2

B67

B41

0
4

a

1,5 ×10 ± 0,89
3,4 ×104 ± 2,06a
4,9 ×104 ± 3,04a
5,15 ×104 ± 0,53a
5,4 ×104 ± 3,36a
2,4 ×104 ± 1,31a
5,3×104 ± 1,83a
5,48 ×104 ± 1,76a
3,60 ×104 ± 1,95a
5,57 ×104 ± 1,37a
6,00 ×104 ± 1,77a
6,58 ×104 ± 0,38a

0
0,8 ×104 ± 0,16ab
2,55×104 ± 1,80ab
4,7 ×104 ± 3,74a
3,82×104 ± 2,04a
3,7 ×104 ± 2,25 ab

2,30 x104 ± 0,33a
3,0×104 ± 0,4a
3,9 ×104 ± 3,06ab
2,7×104 ±1,69ab
3,6×104 ± 1,61a
4,7×104 ± 0,8a
5,42×104 ± 1,18a

3.2.2 Biến động mật độ vi khuẩn Vibrio
Sau 15 ngày bố trí mật độ Vibrio ở 3 nghiệm thức ĐC, B67 và B41 lần lượt là
(4,4×102 CFU/mL); (3,9×102 CFU/mL) và (3,3×102 CFU/mL) khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với nhau. Sau 20 ngày trở về cuối thí nghiệm mật
độ Vibrio tăng dần, cao nhất ở ĐC (6,8×103 CFU/mL) và khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05) với nghiệm thức B67 (1,6×103 CFU/mL) và B41 (1,1×103
CFU/mL). Riêng hai nghiệm thức B67, B41 mật độ vi khuẩn Vibrio khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa hai nghiệm thức. Theo Hasting và
Nealson (1981) cũng cho rằng Bacillus có thể tạo ra một số chất kháng khuẩn
hoặc một vài sản phẩm có thể tiêu diệt Vibrio harveyi. B. subtilis cũng được cho
là có khả năng tiết ra một số hợp chất diệt khuẩn và diệt nấm. Sản phẩm các
kháng sinh được tiết ra là difficidin và oxydifficidin có khả năng kháng các loài
vi khuẩn hiếu khí và kỵ khí (Zimmerman et al., 1978). Theo Moriaty, 1999 mật
độ Vibrio không vượt quá 103 CFU/mL sẽ không gây hại cho tôm. Mật độ

8


Trường Đại học Cần Thơ

Vibrio tăng ở các nghiệm thức có thể do thức ăn dư thừa tích lũy và mật độ nuôi
quá cao. Mật độ Vibrio ở nghiệm thức ĐC tăng nhanh hơn ở 2 nghiệm thức còn

lại điều này chứng tỏ vi khuẩn Bacillus được bổ sung định kỳ đã hạn chế sự phát
triển của Vibrio.
Bảng 4: Biến động mật độ Vibrio trong nước
Ngày/NT
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
55
60

ĐC
0
0,3×102 ± 0,12a
1,5×102 ± 0,34a
4,4×102 ± 1,14a
1,1×103 ± 3,31a
1,4×103 ± 3,2a
1,0×103 ± 1,57a
1,9×103 ± 4,31a
2,9×103 ± 2,09a
3,9×103 ± 7,17a
4,7×103 ± 5,82a

6,4×103 ± 4,96a
6,8×103 ± 3,39a

B67
0
0,2×102 ± 0,18a
1,4×102 ± 0,09a
3,9×102 ± 2,14a
2,9 x102 ± 2,6b
6,4×102 ± 2,22b
5,3×102 ± 2,46b
6,7×102 ± 2,88b
8,4×102 ± 2,83b
8,6×102 ± 0,95b
9,6×102 ± 1,07b
1,3×103 ± 2,27b
1,6×103 ± 3,63b

B41
0
0,2×102 ± 0,16a
1,2×102 ± 0,37a
3,3×102 ± 1,27a
4,5×102 ± 0,48b
6,9×102 ± 1,27b
5,0×102 ± 2,66b
6,4×102 ± 2,31b
8,2×102 ± 1,8b
9,5×102 ± 3,44b
1,07×103 ± 1,77b

9,8×102 ± 1,5b
1,1 ×103 ± 1,18b

3.2.3 Biến động mật độ tổng vi khuẩn
Kết quả phân tích cho thấy tổng vi khuẩn trong nước dao động từ 3,7×104 8,0×105 CFU/mL. Mật độ tổng vi khuẩn ở các nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn
cao hơn nghiệm thức đối chứng và gần như khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
các nghiệm thức (p<0,05). Trong quá trình thí nghiệm đã thay nước sau 25 và 40
ngày ở các nghiệm thức nên mật độ vi khuẩn có giảm nhưng không đáng kể và
tiếp tục tăng sau những ngày kế tiếp.
Bảng 5:Biến động mật độ tổng vi khuẩn trong nước
Ngày/NT
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
55
60

ĐC
0,0
3,7×104 ± 0,58 b
2,8×105 ± 2,07 a
4,0×105 ± 1,42 b

4,3×105 ± 0,80b
5,6×105 ± 1,01 a
1,4×104 ± 0,61b
4,3×105 ± 1,15b
5,5×105 ± 1,04 b
1,7×105 ± 0,37 a
4,1×105 ± 0,25 b
4,6×105 ± 0,26 b
4,8×105 ± 0,85 b

B67
0,0
4,7×104 ± 0,15 ab
5,4×105 ± 1,42 a
8,5×105 ± 1,15 a
6,9×105 ± 2,13ab
7,3×105 ± 2,15 a
3,0×104 ± 1,41 ab
8,4×105 ± 1,58 a
8,9×105 ± 1,26 a
2,9×105 ± 1,35 a
6,1×105 ± 0,79 a
6,7×105 ± 0,87 a
8,0×105 ± 0,12 a

9

B41
0,0
6,0×104 ± 1,00 a

5,0×105 ± 1,9 a
6,8×105 ± 1,55 ab
7,2×105 ± 0,17a
8,2×105 ± 1,50 a
3,8×104 ± 0,77 a
7,2×105 ± 1,00 a
8,4×105 ± 1,20a
2,8×105 ± 1,05 a
5,2×105 ± 0,80 ab
6,2×105 ± 1,35 ab
7,1×105 ± 0,38 a


Trường Đại học Cần Thơ

Sau 60 ngày thí nghiệm tổng vi khuẩn cao nhất ở nghiệm thức B67 (8,0×105
CFU/mL) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nghiệm thức B41
(7,1×105 CFU/mL). Ở nghiệm thức ĐC có mật độ tổng vi khuẩn là thấp nhất
(4,8×105 CFU/mL) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với hai nghiệm
thức B67 và B41. Theo Anderson (1993) tổng vi khuẩn trong môi trường nước
sạch nhỏ hơn 103 CFU/mL và nước trở nên bẩn, có hại cho tôm cá khi tổng vi
khuẩn vượt 107 CFU/mL. Tóm lại, tổng vi khuẩn ở các nghiệm thức trong quá
trình thí nghiệm nằm trong giới hạn cho phép.
3.3 Sự tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng
3.3.1 Sự gia tăng khối lượng và chiều dài của tôm thẻ chân trắng

Tăng trưởng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại
đối vớingười nuôi trồng thủy sản. Kết quả tăng trọng khi kết thúc thí nghiệm
tôm trong các nghiệm thức bổ sung vi khuẩn có tốc độ tăng trưởng khác biệt có
ý nghĩa thống kê với nghiệm thức đối chứng (p<0,05). Đặc biệt ở nghiệm thức

bổ sung vi khuẩn B41 tôm tăng trưởng tốt nhất và được thể hiện qua bảng dưới
đây
Bảng 6: Sự tăng trưởng về khối lượng (gam) và chiều dài (cm) tôm thẻ chân trắng
Ngày bố trí
Sau 60 ngày
Nghiệm
Khối lượng
Chiều dài
Khối lượng
Chiều dài
Thức
g/con
cm/con
g/con
cm/con
ĐC
1,00 ± 0,035a 4,85 ± 0,065a
6,47 ± 0,135b
10,33 ± 0,112b
B67
1,02 ± 0,015a 4,83 ± 0,095a 6,56 ± 0,250ab
10,56 ± 0,302ab
a
a
a
B41
1,02 ± 0,044 4,99 ± 0,064
6,88 ± 0,139
10,80 ± 0,124a
Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái thường khác nhau thì thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa thống kê

(p<0,05)

Tôm lúc bố trí có khối lượng và chiều dài dao động lần lượt là 1- 1,02 g/con và
4,83 – 4,99 cm/con, khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức,
sau 60 ngày nuôi đã có sự gia tăng khối lượng và chiều dài khác nhau giữa các
nghiệm thức. Nghiệm thức B41 có tốc độ tăng trưởng cao nhất với khối lượng là
6,88 g khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với nghiệm thức ĐC (6,47 g) nhưng khác
biệt không có ý nghĩa (p>0,05) với nghiệm thức B67 (6,56 g). Tương tự tăng
trưởng về chiều dài ở nghiệm thức bổ sung vi khuẩn B41(10,80 cm) là cao nhất
khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với nghiệm thức ĐC (10,33 cm) nhưng khác biệt
không có ý nghĩa (p>0,05) với nghiệm thức B67. Việc bổ sung vi khuẩn vào bể
thí nghiệm nhằm cải thiện môi trường sống tốt nhất cho tôm, giúp giảm các yếu
tố gây hại như NH3, H2S,... Việc bổ sung vi khuẩn định kỳ 5 ngày một lần giúp
duy trì ổn định mật số vi khuẩn phân hủy hữu cơ và thức ăn dư thừa. Điều này
đã tạo điều kiện lý tưởng cho tôm sinh trưởng và giúp hạn chế được sự phát triển
của các vi khuẩn gây bệnh. Tạo điều kiện thuận lợi cho tôm sinh trưởng tốt, lột
xác và tăng trưởng nhanh.
3.3.2 Tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống

Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng của tôm dao động từ 0,092 g/ngày ở
nghiệm thức ĐC đến 0,098 g/ngày ở nghiệm thức B41. Như vậy ở nghiệm thức

10


Trường Đại học Cần Thơ

B41 tốc độ tăng trưởng của tôm là cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê với
nghiệm thức ĐC nhưng khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) với nghiệm thức
B67, tuy nhiên nghiệm thức B67 (0,092 g/con) khác biệt không có ý nghĩa thống

kê so với các nghiệm thức ĐC. Tương tự về chiều dài, thì tốc độ tăng trưởng
tuyệt đối ở nghiệm thức B41 là cao nhất 0,097 cm/ngày khác biệt có ý nghĩa
thống kê với đối chứng (0,091 cm/ngày) (p>0,05) nhưng khác biệt không có ý
nghĩa với B67 (0,095 cm/ngày). Theo Reid & Arnold, 1992 thí nghiệm nuôi tôm
trong hệ tuần hoàn với mật độ cao (970 con/m3) tốc độ tăng trưởng khối lượng
của tôm nuôi chỉ đạt 0,61 g/tuần (0,087g/ngày. Qua kết quả về tăng trưởng của
tôm cho thấy ở các nghiệm thức bổ sung vi khuẩn B67 và B41 thì tăng trưởng
của tôm nhanh hơn nghiệm thức không bổ sung vi khuẩn. Như vậy, việc bổ sung
vi khuẩn B67 và B41 định kỳ giúp phân hủy vật chất hữu cơ trong bể nuôi, kích
thích tiêu hóa và duy trì môi trường ổn định góp phần cho sự tăng trưởng của
tôm. Trong đó, khi bổ sung vi khuẩn B41 vào bể thì tăng trưởng của tôm là tốt
nhất.
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng
Nghiệm thức
DWG (g/ngày)

ĐC
0,092 ± 0,002a

B67
0,093 ± 0,004ab

B41
0,098 ± 0,002b

DLG (cm/ngày)

0,091 ±0,003b

0,095 ± 0,004ab


0,097 ± 0,003a

40 ± 4%

55,3 ± 6,11%

57,3 ± 1,15%

Tỉ lệ sống

Các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái thường (a,b) khác nhau thì thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê (p<0.05).

Tỉ lệ sống của tôm cao nhất ở nghiệm thức B41 (57,3±1,15) và khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nghiệm thức còn lại, tỉ lệ sống ở nghiệm thức
ĐC (40 ±4) có giá trị thấp nhất. Ở nghiệm thức B67 tỉ lệ sống đạt (55,3±6,11).
Theo Zokaeifar (2014) khi bổ sung hai chủng vi khuẩn Bacillus subtilis L10 và
G1 tỷ lệ bằng nhau, với 2 mật độ 105 CFU/ml và 108 CFU/ml vào bể 500 L nuôi
tôm thẻ chân trắng (0,2con/L), sau 8 tuần tỉ lệ sống ở mật độ 108 CFU/ml cao
nhất 100% khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với đối chứng (89%) nhưng
khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) với 105 CFU/ml (97%).Tỉ lệ sống ở các
nghiệm thức thấp do mật độ nuôi quá cao cùng với vật chất hữu cơ tích lũy
nhiều, việc bổ sung các dòng Bacillus phần nào phân hủy được vật chất hữu cơ
giúp chất lượng nước tốt hơn nên tỉ lệ sống ở nghiệm thức bổ sung vi khuẩn B67
và B41 cao hơn ĐC
4 KẾT LUẬN

Các nghiệm thức được bổ sung các dòng vi khuẩn Bacillus đều có các chỉ số
chất lượng nước, tăng trưởng và tỉ lệ sống tốt hơn so với nghiệm thức đối chứng.

Tổng vi khuẩn Vibrio của nghiệm thức bổ sung vi khuẩn luôn thấp hơn nghiệm
thức đối chứng. Đặc biệt ở nghiệm thức dòng B41 mang lại hiệu quả cải thiện
tốt về chất lượng nước và sinh trưởng của tôm thẻ chân trắng khi nuôi thí
nghiệm trong bể.
11


Trường Đại học Cần Thơ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boyd C. E., 2002. Quản lí chất lượng nước ao nuôi thủy sản (Trương Quốc Phú
và Vũ Ngọc Út dịch). Khoa Thủy Sản. Đại Học Cần Thơ. 62 Trang.
2. Briggs, M.R.P. and S.J. Funge-Smith, 1994. A nutrient budget of some
intensive marine ponds in Thailan. Aquacult. Fish. Manage, 24: 189-811.
3. Balcázar JL, 2003. Evaluation of probiotic bacterial strains in Litopenaeus
vannamei. Final Report, National Center for Marine and Aquaculture Research,
Guayaquil, Ecuador.
4. Charatchakool et al., 1995. Quản lý sức khỏe tôm trong ao nuôi. Tái bản lần thứ
4. Người dịch: Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh Phương, Đặng Thị Hoàng
Oanh, Trần Ngọc Hải. Bộ Thủy Sản 2003. 153 trang.
5. Hasting, J.W and K.H. Nealson., 1981. The symbiotic luminous bacteria. In: the
Prokaryotes II. Springer-Verlag, NewYork, 1960p.
6. Huỳnh Hữu Điền, 2012. Thử nghiệm sản xuất chế phẩm vi sinh từ các dòng
Bacillus chọn lọc ở ao nuôi tôm sú thâm canh. Luận văn đại học. Khoa Thủy
sản, Trường Đại học Cần Thơ
7. Leonel Ochoa-Solano J, Olmos-Soto J 2006. The functional property of
Bacillus for shrimp feeds. Food Microbiol. Food Microbiol. 23: 519-525.
8. Phạm Thị Tuyết Ngân, 2012. Nghiên cứu quần thể vi khuẩn chuyển hóa đạm
trong ao nuôi tôm sú (Penaeus monodon). Luận án tiến sĩ. Đại Học Cần Thơ
9. Phạm Thị Tuyết Ngân, Vũ Ngọc Út, Trương Quốc Phú và Nguyễn Hữu Hiệp,

2010. Ảnh hưởng của vi khuẩn hữu ích lên các yếu tố môi trường và tôm sú
(Penaeus monodon) nuôi trong bể. Tạp chí Khoa học 2011:20b 59-68. Trường
Đại học Cần Thơ.
10. Phạm Thị Tuyết Ngân, Trương Quốc Phú, 2010. Biến Động các yêu tố môi
trường và mật độ vi khuẩn Bacillus sp trong bể nuôi tôm sú. Tạp chí khoa học,
Đại học Cần Thơ.
11. Phạm Thị Tuyết Ngân, 2012. Nghiên cứu quần thể vi khuẩn chuyển hóa đạm
trong ao nuôi tôm sú (Penaeus monodon). Luận án tiến sĩ. Đại Học Cần Thơ
12. Phạm Thị Tuyết Ngân, 2007. Giáo trình Vi sinh vật hữu ích. Khoa Thủy sản,
Trường Đại học Cần Thơ.
13. Xiang-Hong, W., L. Jun, J. Wei-Shang, X. Huai-Shu, 1998. Application
of Probiotics in Aquaculture. Ocean University of Qongdao, Qingdao.
14. Zokaeifar, H., N. Babaei, C.R. Saad, M.S. Kamarudin, K. Sijam and J.L.
Balcazar, 2014. Administration of Bacillus subtilis strains in the rearing water
enhances the water quality, growth performance, immune response, and
resistance against Vibrio harveyi infection in juvenile white shrimp,
Litopenaeus vannamei. Fish & Shellfish Immunology, 36:68-74.

12



×