Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

tư tưởng hồ chí minh về nông nghiệp nông dân, nông thôn và quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh sóc trăng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.71 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG NGHIỆP,
NÔNG DÂN, NÔNG THÔN VÀ QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở TỈNH SÓC TRĂNG HIỆN NAY
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Lê Thị Thúy Hương

Tào Thanh Tèo
MSSV: 6106648

Cần Thơ, Tháng 11/2013


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài ......................................................................... 3


5. Kết cấu của luận văn ........................................................................................... 3
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN ............................................. 4
1.1. Những khái niệm cơ bản về nông dân, nông nghiệp, nông thôn .................. 4
1.2. Đặc điểm, tiềm năng của nông dân Việt Nam
theo quan điểm của Hồ Chí Minh .......................................................................... 5
1.3. Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong cách mạng Việt Nam .................................................................................... 10
Chương 2. ĐẢNG BỘ TỈNH SÓC TRĂNG VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM
CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN,
NÔNG THÔN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY ........... 35
2.1. Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh
trong xây dựng nông thôn mới .............................................................................. 35
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Sóc Trăng dưới ánh sáng Tư tưởng Hồ Chí Minh ..................................... 50
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 62
PHỤ LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, lần lượt các thế hệ tổ tiên, ông
cha của chúng ta đã phải đương đầu chống lại biết bao kẻ thù xâm lược. Trong 16
lần chống quân xâm lược, có đến 14 lần bọn giặc đến từ phương Bắc và 2 lần gần
đây là của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Xương máu đã đổ, chết chóc cũng nhiều.
Để giành được hòa bình độc lập như ngày nay, đồng bào đã hi sinh, mất mát quá
lớn, quá nhiều. Đồng bào ta, nhân dân ta đã có công lớn đánh đuổi bọn giặc xâm
lược, giành độc lập cho dân tộc, bảo vệ quê hương, đất nước. Lúc sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đánh giá cao vai trò và sức mạnh của mọi tầng lớp

nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, và cũng hơn ai hết người đã khẳng
định mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là độc lập tự do và hạnh phúc
cho nhân dân. Vì độc lập tự do mà không đem lại hạnh phúc cho nhân dân thì độc
lập ấy không mang lại ý nghĩa đích thực. Chính vì lẽ đó, sau khi đất nước được độc
lập, Bác luôn dành tình cảm đặt biệt đối với nhân dân, quan tâm chăm lo đến cuộc
sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, đặc biệt là giai cấp nông dân – một tầng lớp
chiếm tỉ lệ rất lớn trong nhân dân.
Tiếp tục phát huy tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày nay Đảng ta đã
đề ra và cố gắng thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh [8;tr.100]. Suy cho cùng thì mục
tiêu đó cũng là vì đất nước, vì nhân dân. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng ta đã tiến
hành hàng loạt các cuộc cách mạng nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển văn hóa, giáo
dục, khoa học, kĩ thuật, v.v… Một trong những mục tiêu trên là phát triển nông
nghiệp, xây dựng các vùng nông thôn mới, từng bước cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho người nông dân nông thôn, đây cũng là những vấn đề
đang rất phổ biến ở nước ta hiện nay. Việc xây dựng nông thôn mới là một phần
trong dự án “3 nông” gồm nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Đảng ta. Hội
nghị Trung ương VII khóa X đã thông qua nghị quyết về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn như sau: “Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn có tầm chiến lược đặt biệt quan trọng” [6;tr.695]. Nghị quyết đã xác
định mục tiêu là:
1


Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông
thôn, hoài hòa giữa các vùng tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các
vùng nông thôn còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình
độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ
bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới [6;tr.695].

Trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng,
khu vực nông thôn mới đã có nhiều đóng góp tích cực về nhân lực, vật lực vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, xét trên tổng
thể quá trình phát triển nông thôn mới vẫn còn mắc phải những khó khăn và những
hạn chế cần được khắc phục.
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề phát triển nông thôn mới tôi
quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn và quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay” để làm
đề tài luận văn tốt nghiệp đại học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những tư tưởng, quan điểm của Bác về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn; thực trạng xây dựng các vùng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng. Từ đó tôi đế suất một số giải pháp nhằm tiếp tục thúc đẩy quá trình nông
thôn mới hóa phát triển dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn.
Hai là, tìm hiểu thực trạng xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Sóc Trăng trong
thời gian qua từ đó đánh giá, so sánh với việc quán triệt quan điểm của Hồ Chí
Minh trong xây dựng nông thôn mới trên phạm vi tỉnh.
Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển các vùng nông thôn
mới, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người, tạo điều kiện thúc đẩy đất
nước phát triển nhanh, bền vững.

2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn và vấn đề xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Sóc
Trăng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng từ năm
2010 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với các phương pháp thống kê, phân tích
đánh giá để làm rõ vấn đề.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm mục lục, phần mở đầu, nội dung, kết luận và tài liệu tham
khảo. Trong đó trọng tâm nhất là phần nội dung được phân thành 2 chương 5 tiết.

3


Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN
1.1. Những khái niệm cơ bản về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Theo Bách khoa tri thức toàn thư Việt Nam, nông dân là những người lao
động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu
bằng làm ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất
đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kỳ lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác
nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định
trong xã hội. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên
liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều
chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản. Theo nghĩa rộng nông nghiệp
bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản và diêm nghiệp.

Nghị định số 41/2010/NĐ - CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn cho rằng nông thôn là phần
lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý
bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã. Ở nông thôn người ta sống chủ
yếu bằng sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị
không chỉ thể hiện ở đặc điểm nghề nghiệp của cư dân mà còn khác nhau về cả
tự nhiên, kinh tế, xã hội. Như vậy, nông thôn là vùng đất đai rộng với cộng đồng
dân cư chủ yếu làm nông nghiệp, có mật độ dân cư thấp, cơ sở hạ tầng kém phát
triển, có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất hàng hóa thấp và thu
nhập mức sống của dân cư thấp hơn đô thị.
1.2. Đặc điểm, tiềm năng của nông dân Việt Nam theo quan điểm
của Hồ Chí Minh
1.2.1. Đặc điểm của nông dân Việt Nam
1.2.1.1. Những đặc điểm về tính giai cấp
Theo Hồ Chí Minh, giai cấp nông dân là cộng đồng những người lao động,
sản xuất nhỏ trong nông nghiệp gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp, đều có đặc điểm
4


chung là người lao động – nhân tố chủ yếu của lực lượng sản xuất và là người tư
hữu nhỏ. Từ nông dân Pháp, Đức đến nông dân Nga, Hunggari, từ nông dân Ấn Độ
đến nông dân Trung Quốc, nông dân các nước trên thế giới đều có những đặc điểm
chung đó. Cái khác nhau ở chỗ trình độ nông dân được biểu hiện ra bằng phương
thức sản xuất nông nghiệp cổ truyền hay tiên tiến, năng suất lao động thấp hay cao,
kỹ thuật lạc hậu hay hiện đại, do công nghiệp tác động vào nông nghiệp đến mức
độ nào. Không có quốc gia nào là không có sản xuất nông nghiệp và theo ngành
sản xuất nông nghiệp. Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp
“đất thì xấu, phương pháp canh tác thì lạc hậu, do đó năng suất rất thấp kém. Vào
những năm 1925 – 1926 sản lượng một hécta ở châu Âu là 4.670 kilô thóc…còn ở
Đông Dương chỉ có 1.210 kilô” [11;tr.229].

Cho đến tháng 11 năm 1949, Việt Nam đã trải qua một quá trình chịu ách đô
hộ và khai thác của chủ nghĩa tư bản Pháp trên 90 năm, điều này đã tác động rất
nhiều đến thực trạng kinh tế - xã hội, nhưng Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Nước
ta là một nước nông nghiệp. Hơn 9 phần 10 dân ta là nông dân. Hơn 9 phần 10
nông dân ta là trung, bần và cố nông” [14;tr.710]. Phú nông được coi là tiểu chủ,
phú hào. Nhiều lúc cố nông được Hồ Chí Minh gọi là vô sản nông nghiệp. Việc xác
định đặc điểm là nước nông nghiệp, mà là nông nghiệp lạc hậu trên cả hai phương
diện trình độ canh tác và chế độ sở hữu ruộng đất, cùng với đặc điểm giai cấp nông
dân có cơ cấu không thuần nhất và sự phân tầng giai cấp không đều trong nội bộ
nông dân, Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh tới cơ sở kinh tế để xác định lực lượng
cách mạng của cuộc cách mạng xã hội ở Việt Nam – cuộc cách mạng dân chủ mới
giải phóng nông dân.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao giai cấp nông dân với tư cách là lực lượng
cách mạng. Đây là quan điểm thống nhất với những nguyên lý mácxít về vai trò
quần chúng trong cách mạng. Không dừng lại ở việc xác định vai trò lực lượng
cách mạng chung chung mà Hồ Chí Minh còn chỉ rõ giai cấp nông dân Việt Nam
trong cuộc cách mạng dân chủ mới, đánh đổ đế quốc, phong kiến, do giai cấp công
nhân lãnh đạo giữ vị trí “chủ cách mạng, gốc cách mạng và động lực cách mạng.
Bởi lẽ vì bị áp bức mà sinh ra cách mạng, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì
lòng cách mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết” [3;tr.72]. Nông dân bị ba
tròng áp bức: đế quốc thực dân, địa chủ phong kiến, tư bản; nông dân là lực lượng
5


đông nhất chiếm hơn 95% dân cư. Khi đã được giác ngộ, nông dân gan góc, dũng
cảm, có quyết tâm cao. Ở Nga, Lênin cho rằng nhân tố thắng lợi của cách mạng là
ở chỗ vô sản nắm được sự ủng hộ của những người nông dân nghèo bị phá sản chứ
không phải là do nắm được ưu thế về số lượng trong nhân dân. Ở Việt Nam lại nhờ
toàn dân đoàn kết mà Cách mạng tháng Tám thành công, hai cuộc kháng chiến
thắng lợi [3;tr.72-73].

Như vậy, từ những đặc điểm chung của giai cấp nông dân, đứng trên lập
trường mácxít, Hồ Chí Minh nhấn mạnh hơn tính cách mạng, tính tích cực của giai
cấp nông dân Việt Nam. Trong tổng thể của nhiều yếu tố thì tình trạng mất nước,
mức độ nghèo khổ, bị bóc lột, áp bức nặng nề là những yếu tố quyết định tính tích
cực cách mạng của nông dân.
1.2.1.2. Những đặc điểm mang bản sắc dân tộc Việt Nam của nông dân
Trong bài Nước An Nam dưới con mắt người Pháp xuất bản vào những năm
1923 – 1924 truyền thống của dân tộc Việt Nam được Hồ Chí Minh khái quát qua
sự hiểu biết của một người Pháp Puvuốcvin như sau:
Chúng ta thấy ở đây cả một nền văn minh, mọi thứ đều xây dựng từ
lâu. Nghệ thuật, khoa học, kể cả khoa học quản lý nhà nước đều đã
phát triển mạnh mẽ. Luật pháp, cổ phong, tôn giáo, văn học tất cả đều
đã hoàn chỉnh và hòa hợp với nhau, trải qua bao nhiêu thế kỷ, đã
được điều hòa và ngày càng hoàn hảo thêm. Những vết tích man rợ
đã mất đi từ lâu, dân tộc này đã sống trong một xã hội thuần thục có
tổ chức trong khi những người phương Tây còn ở tình trạng bán khai.
Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, tôn kính tổ tiên, yêu
chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, coi trọng
lời thánh hiền, thương yêu nòi giống, tôn kính lẽ phải; ghét xa hoa,
không hám tiền tài, khinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ, hy sinh; đó
là những đức tính răn dạy trong sách thánh hiền, lưu lại trong cổ
phong và ghi thành luật pháp; hiện nay, đó cũng là những đặc điểm
và bản tính của người An Nam hình thành từ bao thế hệ…Người An
Nam bình thường mà người ta gặp bất cứ ở đâu cũng đều như vậy cả
[10;tr.425-426].

6


Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho những tên trùm thực dân ở Đông Dương mang

danh là những người đi khai hóa thấy rằng dân tộc Việt Nam có nền văn hiến lâu
đời. Con người Việt Nam là những người nhân đức. Người nông dân Việt Nam có
tinh thần yêu nước nồng nàn, sâu sắc. Yêu nước trước hết là đấu tranh bảo tồn dân
tộc không bị đồng hóa lai căng, bảo tồn nền văn hóa dân tộc, yêu nước xuất phát từ
tình yêu quê hương, làng xóm yên bình phát triển thành tình yêu đất nước hòa bình,
độc lập. Mười thế kỷ Bắc thuộc, nông dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh để không
bị đồng hóa.
Ở Việt Nam, quan hệ huyết tộc là cao cả và thiêng liêng. Chẳng ai sống mà
lại không có gia đình và không một ai sinh ra mà không bắt đầu từ một dòng họ. Ở
Việt Nam, người nông dân đề cao tính huyết tộc. Bởi lẽ xuất phát từ kiểu sản xuất
của công xã nông thôn lấy gia đình làm tế bào và huyết tộc làm cơ sở. Đặc điểm
này có mặt tích cực và cũng có những mặt tiêu cực cần hạn chế. Cái cần khắc phục
trước tiên là tư tưởng địa phương cục bộ, đầu óc bản vị, gia trưởng. Sự quyến luyến
gia đình, tôn trọng quy định của làng xã là cần thiết, nhưng nếu đẩy quá cái tình
cảm một giọt máu đào hơn ao nước lã, phép vua thua lệ làng có thể dẫn đến xem
thường kỷ cương phép nước [3;tr.75].
Nông dân Việt Nam cần cù, chăm chỉ, đoàn kết hợp tác trong lao động sản
xuất trong điều kiện tự nhiên không thuận lợi, đất đai ít màu mỡ nhất là miền Bắc
và miền Trung, công cụ thủ công thô sơ đã tạo ra ở nông dân Việt Nam đức tính
cần cù, chăm chỉ, chấp nhận khó khăn, sẵn sàng hi sinh cho nông nghiệp vì nông
nghiệp. Sản xuất lấy công làm lãi không phải là biểu hiện của sự thiếu hiểu biết mà
là thực tế lấy sản phẩm làm thước đo hiệu quả. Vì sản phẩm và tính thời vụ trong
nông nghiệp đã tạo ra tinh thần hợp tác, trao đổi công sức, truyền thống đoàn kết
tương trợ trong sản xuất của nông dân Việt Nam. Như vậy, các truyền thống dân tộc
in dấu ấn đậm nét trong nông dân và cũng được bộc lộ qua nông dân.
1.2.2. Tiềm năng của nông dân Việt Nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề giải phóng nông dân cần được đặt ra
trên cả hai phương diện: nông dân phải được sống trong môi trường xã hội tốt đẹp,
đồng thời phải được đáp ứng những đòi hỏi vật chất ngày càng cao. Ở Việt Nam,
một nước thuộc địa nửa phong kiến trước đây, một nước nông nghiệp kém phát

triển sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc giải phóng nông dân không tách
7


rời và nằm ngoài công cuộc giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Phương châm
của Hồ Chí Minh là “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” [3;tr.76] đã và đang được
thực tế minh chứng là đúng đắn.
Theo Hồ Chí Minh, số lượng đông đảo giai cấp nông dân là một nguồn lực
dồi dào của công cuộc dựng nước và giữ nước. Người nêu một số ví dụ: “Trong vệ
quân và bộ đội địa phương, dân quân du kích, số đông là nông dân”. “Tăng gia sản
xuất để nuôi bộ đội, nuôi công nhân cũng chính là nông dân. Công việc phá hoại để
chống giặc, công việc sửa chữa đường sá, giao thông vận tải phần lớn do nông dân
làm” [3;tr.76]. Hồ Chí Minh khái quát “nông dân là một lực lượng rất to lớn của
dân tộc. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự
ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân”. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to
lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hi sinh
[3;tr.77].
Những yếu tố trên, tổng hợp thành chất cách mạng của giai cấp nông dân
Việt Nam. Song do những đặc điểm về bản chất giai cấp mà nông dân với số lượng
và chất lượng ấy vẫn không thể làm một cuộc cách mạng để tự giải phóng mình.
Trong chế độ phong kiến những cuộc nổi dậy của nông dân chỉ đập phá những triều
đại đang thống trị, đè nén mình rồi lại xây lên trên nền hoang tàn, đỗ vỡ ấy một
triều đại mới mang bản chất của chế độ cũ mà thôi. Giai cấp tư sản ở một số nước
châu Á đã biết lợi dụng nông dân, lôi kéo họ tham gia vào cuộc cách mạng tư sản,
dùng họ làm lực lượng đạp phá lâu đài phong kiến. Cách mạng thắng lợi nhưng
nông dân vẫn bị áp bức bóc lột.
Thống nhất với quan điểm của các nhà cách mạng mácxít, Hồ Chí Minh cho
rằng giai cấp nông dân Việt Nam muốn được giải phóng chỉ có thể đi theo giai cấp
công nhân, chiến đấu dưới cờ đỏ búa liềm của giai cấp công nhân và làm “một
đồng minh trung thành của giai cấp công nhân” [14;tr.710] và cùng công nhân làm

gốc, làm người chủ cách mạng. Khi đó sức nông dân mới mạnh và chỉ mạnh khi nó
được tổ chức lại và đặt trong các tổ chức cách mạng. Như vậy, giai cấp nông dân
chỉ mạnh và sức mạnh được nhân lên gấp bội khi giai cấp nông dân nằm trong các
tổ chức cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Để duy trì sức mạnh của nông dân, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Tổ chức nông
dân thật chặt chẽ. Đoàn kết nông dân thật khăng khít. Huấn luyện nông dân thật
8


giác ngộ. Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ
quốc” [14;tr.710]. Điều này đồng nghĩa với việc đưa nông dân vào các tổ chức,
đoàn kết họ trong nông hội. Nông hội – theo đánh giá của Hồ Chí Minh “là một cái
nền cách mạng của dân ta” [14;tr.459]. Bởi lẽ “có hội hè rồi tức là có tình thân ái,
sau thì khuyên nhau học hành. Đã biết “cách mệnh” tinh thần; “cách mệnh kinh tế”
thì “cách mệnh chính trị cũng không xa” [3;tr.78].
Theo Hồ Chí Minh, vì hoàn cảnh kinh tế lạc hậu, mà nông dân thường có
tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu. Cho nên giai cấp công nhân phải đoàn kết họ, giúp tổ
chức họ và lãnh đạo họ là một lực lượng rất to lớn, vững chắc. Thế là công nông
liên minh. Hồ Chí Minh chỉ rõ, ngay trong tổ chức mặt trận dân tộc thống nhất,
trong khối đoàn kết toàn dân thì công – nông luôn là nồng cốt, là lực lượng cơ bản
nhất. Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh cho rằng nông dân đã cung cấp
sức người, sức của nhiều nhất cho kháng chiến. Báo cáo trước Quốc hội khóa I kỳ
hợp thứ 3, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tối đại đa số nhân dân ta là nông dân. Mấy
năm nay nhờ lực lượng nông dân mà kháng chiến được thắng lợi. Sau này cũng
nhờ lực lượng nông dân mà kháng chiến được hoàn toàn thắng lợi, kiến quốc đi đến
thành công” [16;tr.179].
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tính chất ác liệt và sự tàn phá
của chiến tranh tới mức hủy diệt. Trong hoàn cảnh đó, nông dân góp sức người, sức
của cho tiền tuyến và họ cũng là chiến sĩ ngay trên đồng ruộng. Hầu như gia đình
nông dân nào cũng có người tham gia bộ đội hoặc thanh niên xung phong. Máu của

họ không chỉ đổ ra trong chiến đấu mà còn đổ ra trong sản xuất. Sau thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh gửi thư cho nông gia Việt Nam,
Người viết:
Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy
canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nhà nước, Chính phủ
trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn.
Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông dân ta thịnh thì nước ta thịnh
[4;tr.215].
Khi miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng chuyển sang làm nhiệm vụ của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Vì nước ta là nước nông
nghiệp, mọi việc đều dựa vào nông nghiệp”. Và “phát triển nông nghiệp là việc cực
9


kỳ quan trọng” [19;tr.544]. Hồ Chí Minh đặt niềm tin rất lớn vào nông dân. Lực
lượng nông dân được Hồ Chí Minh coi là điều kiện nhân hòa trong ba điều kiện
thuận lợi nhân, thiên, địa để phát triển nông nghiệp, đây cũng là sự gửi gắm niềm
tin của Người đối với nông dân. Niềm tin đó được khẳng định trên cơ sở nông dân
đã được giải phóng cả tư tưởng và sức lao động.
Trước lúc qua đời, Bác Hồ kính yêu của chúng ta vẫn quan tâm sâu sắc tới
nông dân. Người căn dặn Đảng và Nhà nước ta rằng khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ thắng lợi nên miễn thuế nông nghiệp một năm để nông dân hỉ hả, mát lòng
mát dạ, thêm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất. Đây cũng là sự quan tâm của Người
đối với nông nghiệp và nông dân, là sự kế thừa tư tưởng khoan thư sức dân của
các vị anh hùng dân tộc trước kia.
1.3. Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong cách mạng Việt Nam
Tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Người thấy rõ rằng ở một nước nông nghiệp lạc hậu như nước
ta thì nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta là

đánh đuổi đế quốc, lật đổ chế độ phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày
có ruộng, rồi tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh xác định
nông dân nước ta là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Cho nên Người đã cùng Đảng ta kịp thời đề ra đường lối, chính sách
phù hợp với những nhiệm vụ của sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhằm không ngừng củng cố, phát triển nông thôn, nông nghiệp,
nông dân, tăng cường khối liên minh công nông trí ngày càng thêm vững chắc.
1.3.1. Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân
1.3.1.1. Về vấn đề nông dân
Có thể thấy những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được hình thành qua những cuộc hành trình
của Người qua nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Đó là việc tham gia vào các tổ
chức hoạt động vì lợi ích nhân dân, đặc biệt là lợi ích của nông dân, đó là sự tiếp
xúc với quần chúng nông dân các nước. Qua đó Hồ Chí Minh thấy được sự bần
10


cùng, khổ cực của giai cấp nông dân và Người cho rằng họ không khác gì những
người nô lệ thời trung cổ. Nhờ sự hiểu biết về nông dân và phong trào nông dân, về
chống đế quốc và phong kiến đã giúp Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng sản Việt
Nam giải quyết thành công, triệt để những vấn đề này trong cách mạng dân tộc dân
chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhìn chung, vấn đền nông dân Việt Nam trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân được Hồ Chí Minh thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc
“Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nông dân” hay vấn
đề nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc. Luận điểm này được Hồ
Chí Minh nêu rõ vào ngày 25/1/1953, khi Người đọc báo cáo trước
Hội Nghị là thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng lao Động Việt

Nam (Khóa II) [16;tr.15].
Vấn đề nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc. Đây là một luận điểm
chẳng những nói lên đặc điểm lớn nhất của dân cư Việt Nam, mà còn chỉ rõ thực
chất mâu thuẫn dân tộc trong xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến. Vấn đề
nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc, theo Hồ Chí Minh, trước hết là vì nông
dân là tối đại đa số trong dân tộc. Đặc điểm này không riêng gì ở Việt Nam mà còn
ở tất cả các thuộc địa khác của chủ nghĩa đế quốc.
Ngày 3/7/1923 phát biểu tại phiên họp thứ 25 Đại hội lần thứ V Quốc tế
Cộng sản, khi nói về tình hình kinh tế ở thuộc địa, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong tất
cả các thuộc địa Pháp, công nghiệp và thương nghiệp phát triển rất yếu ớt và nhân
dân hầu hết làm nghề nông, 95% dân số bản xứ là nông dân” [10;tr.283]. Trong tác
phẩm Đường Cách mệnh xuất bản năm 1927, Người chỉ rõ: “Nước ta kinh tế chưa
phát đạt, trong 100 người thì đến 90 người là dân cày” [11;tr.308]. Tháng 11 năm
1949, trong thư gửi Hội nghị Cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc, Người viết:
“Nước ta là một nước nông nghiệp. Hơn chín phần mười nhân dân là nông dân”
[14;tr.710], họ là những người “bị bóc lột nhất và cũng khổ nhất, rất yêu nước”
[10;tr.204].
Trên thực tế, đế quốc Pháp khai thác thuộc địa, trước hết là chủ yếu khai
thác đất đai và gắn liền với đất đai là nông dân. Vì vậy, nói về áp bức bóc lột của đế
quốc Pháp đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết tới những
thủ đoạn cướp đoạt ruộng đất và chính sách thuế ruộng đất của chúng đối với nông
11


dân. Thực dân Pháp đã dùng mọi thủ đoạn để cướp đoạt ruộng đất của nông dân.
Nông dân bị cướp mất ruộng đất khiếu nại thì lập tức bị bọn thực dân bắt bỏ tù
hoặc cho máy bay ném bom đàn áp nông dân. Ruộng đất cướp đựơc của nông dân
chúng chia cho người Pháp lập nên những đồn điền và bắt nông dân sử dụng sức
lao động của mình để trồng trọt trên chính mãnh đất của mình nhưng sản phẩm thu
hoạch lại thuộc về tay bọn Pháp. Ruộng đất của nông dân Việt Nam không chỉ bị

chính quyền thực dân mà bị cả nhà thờ Kitô giáo cướp đoạt bằng mọi thủ đoạn như:
lừa gạt, dụ dỗ, mua chuộc hay thậm chí là đi ăn cướp ruộng đất của nông dân để lập
nên những đồn tiền phục vụ mục đích làm giàu cho họ.
Không chỉ có như vậy, thực dân Pháp còn bóc lột nhân dân ta bằng cách đặt
ra và thu các loại thuế vô lý gấp trăm lần thuế đất thời phong kiến như thuế thân,
thuế muối. Thuế khóa nặng nề, địa tô lợi tức quá mức, vì vậy nông dân nghèo An
Nam dưới chế độ thực dân phong kiến quanh năm đói khổ, bần hàn. Những năm
mất mùa do thiên tai gây ra có rất nhiều nông dân chết đói. Trong khi mỗi năm
chính quyền thuộc địa ở Đông Dương xuất khẩu tới 1,5 triệu tấn lương thực. Từ
tháng giêng đến tháng 7 năm 1945, nạn đói đã cướp đi hơn hai triệu người Việt
Nam, trong số đó chủ yếu là nông dân ở những tỉnh đồng bằng vựa lúa của Bắc kỳ
như Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên…Nông dân Việt Nam phải chịu
nạn đói khủng khiếp này, như Hồ Chí Minh khẳng định là “vì chính sách độc ác
của bọn thực dân Pháp, như ép thu thóc, bắt trồng đay…” [13;tr.93].
Để kìm giữ mãi người An Nam trong vòng nô lệ đế quốc Pháp còn rất ưa
dùng phương pháp “làm cho u mê để thống trị”. Vì vậy, cho đến năm 1925 chỉ có
10 trường học, nhưng có tới 1.500 đại lý rượu và thuốc phiện cho 1.000 làng ở Việt
Nam [11;tr.38]. Vì thế, hầu hết người dân An Nam không biết chữ. Càng nghèo
khổ, số người thất học càng nhiều, nhất là nông dân, mặc dù người An Nam rất
hiếu học. Theo Hồ Chí Minh, từ những năm 20 của thế kỷ XX, trong xã hội Việt
Nam thuộc địa nửa phong kiến, nông dân là bộ phận chiếm tuyệt đại đa số trong
dân cư. Họ vừa là người dân mất nước, vừa là người nô lệ hiện đại bị thực dân,
phong kiến áp bức, bóc lột hơn hết trong dân tộc và nặng nề hơn cả chế độ phong
kiến độc lập. Do đó, mâu thuẫn dân tộc trong xã hội này chủ yếu là mâu thuẫn giữa
nông dân với chủ nghĩa đế quốc, phong kiến tay sai. Từ nhận thức đó Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Nội dung cách mạng dân chủ căn bản là giải phóng nông dân, chia ruộng
12


đất cho nông dân. Nội dung cách mạng dân tộc cũng là giải phóng cho nông dân”

[16;tr.25]; hay vấn đề nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là nền
tảng của vấn đề dân tộc. Quan điểm này của Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất
với tư tưởng của Người về thực chất cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
Việt Nam. Đó là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, chủ yếu là giải phóng
nông dân, bao gồm cả nhiệm vụ xóa bỏ tàn tích của chế độ phong kiến, thực hiện
những quyền dân chủ cho nhân dân, trong đó trước hết và quan trọng nhất là các
quyền về ruộng đất.
“Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân” hay vấn đề nông dân là
nền tảng của vấn đề dân tộc. Quan điểm đó của Hồ Chí Minh hoàn toàn phù hợp
với quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin: Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn
đề nông dân; giải phóng nhân dân các dân tộc thuộc địa, trước hết và chủ yếu là
giải phóng nông dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và tàn
dư phong kiến.
Hai là, nông dân là nền tảng của cách mạng dân tộc dân chủ
Quan điểm này của Hồ Chí Minh được Người nêu ra tại Hội nghị lần thứ tư
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), ngày 25/1/1953 dựa trên 2 cơ sở:
Cơ sở thứ nhất, “vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống
phong kiến, chống đế quốc” [16;tr.15].
Rất yêu nước, đồng thời bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột hơn ai hết
nông dân Việt Nam là lực lượng đông đảo, hùng hậu nhất trong dân tộc chống đế
quốc, chống phong kiến. Là người am hiểu lịch sử dân tộc, được chứng kiến các
biến cố vang dội trong lịch sử, đặc biệt là các phong trào đấu tranh của quần chúng
nông dân, Hồ Chí Minh thấy rõ đặc điểm này của nông dân Việt Nam. Người nhận
xét, nhờ có sự giúp đỡ của nông dân mà phong trào dân tộc do Hoàng Hoa Thám
lãnh đạo đã đánh chiếm được Yên Thế và bọn thực dân Pháp đã không thể tiêu diệt
được vị lãnh tựu nông dân này. Từ thực tiễn phong trào dân tộc ở Việt Nam, trước
khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã thấy rõ tinh thần yêu nước nồng
nàn, vai trò to lớn, sức mạnh hùng hậu của nông dân Việt Nam trong cuộc đấu
tranh chống đế quốc xâm lược, chống phong kiến tay sai.
Từ lịch sử cách mạng Pháp, cách mạng Nga, Hồ Chí Minh rút ra bài học cho

cách mạng Việt Nam: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng
13


thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc” [11;tr.280]. Trong sách
lược vắn tắt của Đảng – một văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo, thông qua trong
Hội nghị thành lập Đảng đã chỉ rõ: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân
cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại
địa chủ và phong kiến” [12;tr.3]. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, nông dân Việt
Nam là lực lượng cách mạng to lớn. Nếu giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản
không lôi kéo được lực lượng đông đảo nhất này về dân tộc về phía mình thì không
thể đưa cách mạng đến thành công.
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đánh giá vai trò của
nông dân như một lực lượng không thể thay thế được, như là lực lượng vô địch,
Người nói: “Khi chỉ có hai bàn tay trắng, với một số đồng chí bí mật, len lỏi trong
rừng, ta còn gây nên cơ sở kháng Nhật, kháng Pháp. Huống gì bây giờ, ta có quân
đội, có nhân dân” [13;tr.434]. Trên thực tế, nông dân Việt Nam, như Hồ Chí Minh
nhiều lần nhấn mạnh, đã đóng góp sức người, sức của nhiều nhất cho cuộc kháng
chiến chống Pháp. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong kháng chiến kiến quốc, 90% bộ đội ta
là nông dân, lực lượng dân công phục vụ kháng chiến hầu hết là nông dân; cung
cấp cái ăn, cái mặc cho bộ đội ăn no, mặc ấm đánh giặc là nông dân…
Bọn xâm lược chiếm mất đô thị, nhưng 95% đất đai là nông thôn đồng bằng,
rừng núi còn là của ta. “Mỗi làng là một pháo đài”; “rừng rẫy là chiến trường, cuốc
cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ” đánh giặc; “tối đại đa số nhân dân ta là nông
dân và nền kinh tế của ta hiện nay là nông nghiệp”, v.v…từ những nhận thức đúng
đắn đó càng thấy rõ hơn vai trò quan trọng, vị trí đặc biệt của nông dân, nông thôn
Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong báo
cáo trước Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khóa I, kỳ họp thứ ba, ngày
1/12/1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lực lượng của chúng ta là hàng chục triệu đồng
bào nông dân lao động, sẵn sàng chờ Chính phủ và Đảng tổ chức và lãnh đạo để

hăng hái vươn mình dậy đánh tan ách nô lệ của phong kiến và thực dân.. Khéo tổ
chức, khéo lãnh đạo thì lực lượng ấy sẽ làm xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực
dân và phong kiến cũng sẽ bị lực lượng to lớn ấy đánh tan” [16;tr.185]. Nhận định
này của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 – 1975
chứng minh là đúng. Nhân dân Việt Nam, trong đó đa số là nông dân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được chính quyền từ tay phát xít Nhật,
14


đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đem lại vị thế xứng đáng trên thế giới
cho dân tộc Việt Nam.
Cơ sở thứ hai, sự liên minh giữa nông dân và công nhân là nền tảng của mặt
trận dân tộc thống nhất chống đế quốc, chống phong kiến.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam là sự nghiệp của
tất cả những người Việt Nam yêu nước căm thù giặc, không phân biệt giai cấp, tầng
lớp, không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, giàu nghèo, sang hèn. Tuy nhiên Người
chỉ rõ, trong lực lượng toàn dân chống đế quốc, chống phong kiến thì công nông
“là gốc, là chủ cách mạng”, vì công nông là đông đảo nhất, vì công nông bị áp bức
bóc lột nhất nên cách mạng nhất. Hồ Chí Minh khẳng định giai cấp công nhân Việt
Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng của mình, đồng thời Người cũng chỉ rõ
rằng, muốn nắm được vị trí lãnh đạo cách mạng trong toàn dân tộc, trước hết giai
cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam phải được giai cấp nông dân ủng hộ,
phải liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân.
Nghiên cứu cuộc “cách mạng cộng sản” ở Pháp năm 1871, Hồ Chí Minh
thấy rõ một trong những nguyên nhân thất bại của Công xã Pari là giai cấp thợ
thuyền Pháp “không liên lạc với nông dân”. Nghiên cứu cách mạng vô sản ở Nga
tháng Mười năm 1917, Người thấy rõ liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân là một trong những nhân tố dẫn tới thắng lợi vĩ đại và triệt để của cuộc
cách mạng này. Hồ Chí Minh chỉ rõ, cách mạng Việt Nam phải nhớ lấy bài học
kinh nghiệm quan trọng của các cuộc cách mạng này:

“Thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự đảm bảo chắc
chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có liên minh công
nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để
đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính
quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách
mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội” [20;tr.303-304].
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nguyên nhân khách quan tạo nên sự liên minh tự
nhiên giữa giai cấp nông dân và giai cấp công nhân Việt Nam trong đấu tranh
chống đế quốc, chống phong kiến. Theo Người, đó là vì công nhân và nông dân là
hai giai cấp đông đảo nhất; làm ra nhiều của cải nhất cho xã hội, nhưng lại nghèo
khổ nhất vì bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột nặng nề nhất. Trong hoàn cảnh
15


Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, công nhân và nông dân Việt Nam còn có mối quan
hệ mật thiết về nguồn gốc xuất thân, có quyền lợi trước mắt và quyền lợi lâu dài
thống nhất, gắn bó với nhau. Vì vậy, hai giai cấp này dễ dàng xích lại gần nhau, tập
hợp, đoàn kết thành một khối trong đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc,
phong kiến, nhất là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có đường lối đáp ứng
được nguyện vọng sâu xa của nông dân là độc lập dân tộc và “người cày có ruộng”.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới liên minh công nông trong cách mạng
dân tộc dân chủ còn vì, theo Người, sự liên minh này “làm cái nền tảng trên đó có
thể thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và vững chắc” [20;tr.475].
Trên cơ sở khối liên minh công nông vững mạnh, Người thực hiện đoàn kết tất cả
các lực lượng, Đảng phái, cá nhân có tinh thần dân tộc, dân chủ trong mặt trận dân
tộc thống nhất phấn đấu cho một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Theo Hồ
Chí Minh, mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ thì lực lượng
cách mạng càng to lớn. Muốn vậy, giai cấp công nhân trước hết phải thu phục được
nông dân, phải liên minh chặt chẽ với nông dân, coi nông dân là bạn đồng minh

đáng tin cậy nhất của mình. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ở một nước Việt Nam
nông nghiệp, nông dân chiếm đa số, bằng việc thu phục, lãnh đạo nông dân, giai
cấp nông dân có thể nắm trọn quyền lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất. Lịch sử
xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng toàn dân trong cách mạng dân tộc dân
chủ ở Việt Nam đã chứng minh điều đó. Trong nền tảng của Mặt trận dân tộc thống
nhất sự kết hợp giữa sức mạnh lãnh đạo của giai cấp công nhân và lực lượng đông
đảo của nông dân trong liên minh công nông tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, lôi
cuốn toàn dân vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và bè lũ tay sai. Đây là một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
ở Việt Nam.
Ba là, giải quyết vấn đề nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ
Giải quyết vấn đề nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam,
theo Hồ Chí Minh, là đem lại cho nông dân, trước hết cho nông dân nghèo, những
quyền lợi về kinh tế, chủ yếu và trước hết là ruộng đất. Quan điểm này của Hồ Chí
Minh thể hiện rõ trong các văn kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do Người
soạn thảo. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng và lời kêu gọi nhân dịp Đảng ra
16


đời, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân chống
đế quốc Pháp, phong kiến và tư sản Việt Nam tay sai đế quốc nhằm giành lại độc
lập hoàn toàn cho nước Nam và ruộng đất cho nông dân nghèo.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi, chính quyền dân chủ nhân dân do
Hồ Chí Minh đứng đầu tiến hành tịch thu đồn điền, đất đai của đế quốc, Việt gian
đem chia cho nông dân nghèo; đồng thời thực hiện giảm tô 25%. Trong kháng
chiến chống Pháp, hai chính sách này được Hồ Chí Minh và Đảng ta xem là những
chính sách chủ yếu nhằm tiếp tục giải quyết vấn đề nông dân, giữ vững đoàn kết
giữa nông dân nghèo và địa chủ để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Đầu năm 1953, khi cuộc kháng chiến chống
Pháp đến giai đoạn quyết liệt, đòi hỏi sức người sức của nhiều hơn, Hồ Chí Minh

thấy rằng cần thiết phải tiến hành cải cách ruộng đất để bồi dưỡng nông dân. Cuộc
cải cách này, như Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ là một bước mới, kiên quyết hơn của quá
trình cải cách ruộng đất được bắt đầu thực hiện từ ngay sau thắng lợi của cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945, tiếp tục thực hiện chương trình “Việt Nam nông
dã tất canh kỳ điền” [12;tr.201] của Mặt trận Việt Minh. Hồ Chí Minh cho rằng,
Cách mạng tư sản Pháp đã chia ruộng đất cho nông dân. Tôn Trung Sơn – lãnh tụ
của giai cấp tư sản Trung Quốc cũng nêu ra khẩu hiệu “dân cày có ruộng”....Như
vậy, giành lại ruộng đất cho nông dân từ tay giai cấp địa chủ phong kiến, theo Hồ
Chí Minh, là nhiệm vụ tất yếu của cách mạng dân chủ, dù là cách mạng dân chủ
kiểu cũ do giai cấp tư sản lãnh đạo hay cách mạng dân chủ kiểu mới do giai cấp
công nhân lãnh đạo, dù ở phương Tây, hay phương Đông.
Tháng 12 năm 1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết tâm mở
chiến dịch Điện Biên Phủ. Về phía địch, đế quốc Mỹ - Pháp tuyên bố “độc lập”,
“dân chủ”, tổ chức “cải cách ruộng đất” nhằm lừa bịp nông dân ở vùng tạm chiếm.
Để động viên nông dân đóng góp sức người sức của nhiều hơn cho kháng chiến ở
giai đoạn quyết liệt nhất và làm thất bại chính sách lừa bịp về chính trị của địch,
Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch quyết định tiến hành tổ chức cải cách ruộng đất.
Ngày 1/12/1953, kỳ họp thứ ba (khóa I), Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa thông qua Luật cải cách ruộng đất. Báo cáo trước Quốc hội trong kỳ họp này,
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nông dân ta chiếm 90% dân số mà chỉ được 3 phần 10
ruộng đất, quanh năm khó nhọc, suốt đời nghèo nàn. Giai cấp địa chủ phong kiến
17


không đầy 5% dân số mà chúng và thực dân chiếm độ 7 phần 10 ruộng đất, ngồi
mát ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật không công bằng. Nước ta bị xâm lược, dân ta
lạc hậu và bần cùng cũng vì đó. Trong mấy năm kháng chiến, tuy Chính phủ đã
thực hiện chính sách giảm tô, tạm cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian và tạm chia
ruộng công điền cho nông dân ở vùng tự do, nhưng vấn đề mấu chốt là vấn đề quần
chúng nông dân không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất vẫn chưa được giải quyết.

Vì vậy mà ảnh hưởng đến lực lượng tham gia kháng chiến và tăng gia sản xuất của
nông dân. Chỉ có thực hiện cải cách ruộng đất, người cày có ruộng, giải phóng sức
sản xuất ở nông thôn khỏi ách trói buộc của giai cấp địa chủ phong kiến mới có thể
chấm dứt tình trạng bần cùng và lạc hậu của nông dân, mới có thể phát động mạnh
mẽ lực lượng to lớn của nông dân để phát triển sản xuất và đẩy mạnh kháng chiến
đến thắng lợi hoàn toàn.
Ngày 19/12/1953, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ban bố Luật cải cách ruộng
đất. Luật cải cách ruộng đất đã đáp ứng được yêu cầu căn bản, nguyện vọng
ngàn đời của hàng triệu nông dân lao động và là chỗ dựa vững chắc cho lực
lượng cách mạng đông đảo này đấu tranh xóa bỏ tàn tích chế độ phong kiến.
Theo Hồ Chí Minh, việc tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến
vừa xuất phát từ đòi hỏi của nhiệm vụ chống đế quốc, bảo vệ độc lập dân tộc,
vừa xuất phát từ yêu cầu tiếp tục giải quyết vấn đề nông dân trong cách mạng
dân tộc dân chủ của Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Chính phủ, cải cách ruộng
đất bắt đầu được tiến hành ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên từ ngày
12/12/1953 đến ngày 20/03/1954. Thắng lợi của đợt cải cách ruộng đất thí điểm
này đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần kháng chiến của nông dân, nhất là những
nông dân ở mặt trận Điện Biên Phủ và thái độ của địa chủ đối với kháng chiến.
Nhờ đó, kháng chến có thêm sức mạnh, nông dân có thêm niềm tin, kiên quyết đấu
tranh yêu cầu địa chủ triệt để giảm tô, tiến tới cải cách ruộng đất.
Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, cải cách ruộng đất được mở
rộng thực hiện trên toàn miền Bắc và kết thúc vào tháng 6 năm 1957. Tuy trong tổ
chức thực hiện có sai lầm nghiêm trọng, nhưng qua cải cách ruộng đất, giấc mơ
người cày có ruộng từ ngàn đời của nông dân đã được thực hiện. Có ruộng cày và
làm chủ nông thôn, lại được sống trong hào bình, độc lập, tự do, nên hàng triệu
18


nông dân miềm Bắc phấn khởi đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó trong 3

năm 1955 – 1957, miền Bắc ngày càng dồi dào lương thực. Đến cuối năm 1957,
sản lượng đã vượt qua năm 1939 – năm kinh tế Việt Nam đạt mức cao nhất thời kì
thuộc Pháp, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc khôi phục kinh tế,
văn hóa sau chiến tranh. Thắng lợi này đã đưa miền Bắc bước vào thời kỳ thực hiện
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.3.1.2. Vấn đề nông nghiệp, nông thôn trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân
Trong cách mạng dân tộc dân chủ thì vấn đề nông nghiệp, nông thôn được
Hồ Chí Minh hết mực quan tâm, nó có vai trò to lớn về mặt kinh tế. Chúng ta biết
rằng đầu năm 1950, Hồ Chí Minh có chuyến công cán tại Trung Quốc và Liên Xô.
Người đã có cuộc gặp gỡ và làm việc với một số nhân vật lãnh đạo của Trung Quốc
và Liên Xô, trong đó có Xtalin. Các vị đó có gợi ý vấn đề cải cách ruộng đất ở Việt
Nam trong cách mạng dân tộc, dân chủ. Hồ Chí Minh có suy nghĩ về những gợi ý
đó. Song, trong tư duy của Người lại hướng về điều kiện Việt Nam, hoàn cảnh Việt
Nam trong một giải pháp hợp lý cho một chính sách ruộng đất và cải cách ruộng
đất ở Việt Nam. Vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2
năm 1951), trong Báo cáo chính trị, Người đã nói rõ chính sách ruộng đất của Đảng
ta là:
“Ở những vùng tự do, phải triệt để thi hành giảm tô, giảm tức,
tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian, tạm cấp cho
dân cày nghèo và nâng cao tinh thần cùng lực lượng kháng
chiến của họ” [15;tr.38].
Để chuẩn bị cho một chính sách ruộng đất đúng đắn ra đời, ngay từ năm
1950, Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết và tổ chức thực hiện một cuộc điều tra
lớn về nông thôn Việt Nam, qua đó thấy được một cách cơ bản thực trạng nông
thôn Việt Nam. Đầu năm 1953, tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa II), Đảng thông
qua cương lĩnh ruộng đất, chủ trương bước đầu là phát động nông dân, triệt để
giảm tô, thực hiện giảm tức, củng cố, giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động
ở nông thôn. Đến tháng 11 năm 1953, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã thảo luận đề
án Luật cải cách ruộng đất đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3 (tháng 12

năm 1953).
19


Về chính sách đối với giai cấp địa chủ, ngay từ năm 1953, trong Bài nói tại
Hội nghị cán bộ liên hiệp phụ nữ toàn quốc về vấn đề phát động quần chúng nông
dân, Hồ Chí Minh nói rõ chủ trương của Đảng:
“Đấu thì chỉ đấu với địch, nhưng có nơi gặp ai cũng đấu, đấu cả với
cố, bần, trung nông. Thậm chí có nơi dùng nhục hình. Thế là dã man.
Đảng và Chính phủ đã có chỉ thị: tuyệt đối cấm nhục hình, dù đối với
người có tội cũng không được đánh đập, vì đánh đập là hành động
của đế quốc và phong kiến, là dã man. Người nào có tội, thì điều tra
cho ra, rồi có pháp luật trừng trị” [15;tr.387]. Rõ ràng đối với giai cấp
địa chủ Việt Nam, Hồ Chí Minh không có chủ trương dùng bạo lực.
Bởi vì: “Địa chủ cũng có đôi người làm cách mạng…, ta cũng có vài
đồng chí, đại địa chủ làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền của
giúp cho Đảng hết, cam tâm chịu tù đày” [15;tr.357].
Vấn đề thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất đã được tiến hành ngay
trong lúc còn kháng chiến. Trong giai đoạn đầu, công tác đó đã được lãnh đạo chặt
chẽ, cho nên đã thu được kết quả và đã góp phần quan trọng vào công cuộc củng cố
hậu phương giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Tiếc rằng, sau hòa
bình trong việc chỉ đạo thực hiện, do áp dụng một cách máy móc chính sách của
nước ngoài, chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng trong việc quy định thành
phần, đánh địch, chỉnh đốn tổ chức, thực hiện chính sách tôn giáo, chính sách dân
tộc…Vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Trường Chinh, Hoàng
Quốc Việt, Lê Văn Lương…, với tinh thần trách nhiệm cao, đã tự kiểm điểm tại
Hội nghị trung ương 10 (mở rộng) họp năm 1956.
Tuy đã mắc phải những sai lầm trên, nhưng kết quả thấy rõ nhất trong chính
sách ruộng đất là đã xóa được bóc lột ở nông thôn và ruộng đất đã về tay nông dân.
Những ý kiến phủ nhận hoàn toàn cải cách ruộng đất đều không đúng với thực tế

lịch sử. Khi miền Bắc nước ta bước vào thời kì xây dựng, khôi phục kinh tế, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã nêu lên một số luận điểm mới đối với nông
dân Việt Nam. Một trong những luận điểm đó là giải phóng người nông dân về mặc
xã hội, thoát khỏi tàn tích phong kiến, đưa người nông dân vào con đường làm ăn
có tổ chức. Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện chế độ sở hữu tư nhân và sở hữu
hợp tác xã về tư liệu sản xuất. Người chủ trương phát triển nông nghiệp trước, sau
20


đó là phát triển nông – công nghiệp, rồi tiến tới giai đoạn phát triển công – nông
nghiệp. Những nguyên tắc về văn hóa và sinh hoạt lành mạnh ở nông thôn được
xác lập.
Về phương pháp tiến hành cải cách nông thôn theo tư tưởng Hồ Chí Minh
có nhiều bước: “Bước ngắn, bước dài tùy theo hoàn cảnh…” [16;tr.224]. Người
phản đối chủ trương đốt cháy giai đoạn: “làm ít có chắc chắc hơn làm nhiều, làm
rầm rộ mà không chắc chắn. Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới
dần dần” [16;tr.226]; với hoàn cảnh Việt Nam, thì “không nên tổ chức quá to vì quá
to thì khó nắm, sẽ chệch choạc, dễ thất bại” [16;tr.227]. Điều quan trọng là “Không
được cưỡng ép ai hết. Phải tuyên truyền, giải thích cho nhân dân thấy tổ đổi công,
ai muốn vào thì vào, tuyệt đối không được ép buộc ai” [6;tr.226]. Hồ Chí Minh chỉ
rõ rằng, vì trong nông dân có nhiều vấn đề phức tạp, cho nên để giải thích vấn đề
phức tạp đó, phải thực hiện dân chủ ở nông thôn. Hãy để cho người nông dân được
suy nghĩ trên quê hương, mảnh đất của họ, khi ấy họ thấy tự do.
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng mô hình tình làng nghĩa sớm trong nông
thôn Việt Nam. Người coi đó là cội nguồn có từ đời xa xưa. Tư tưởng trên của
Người đã giải quyết được những vấn đề cơ bản của nông thôn Việt Nam. Nó đang
là nguồn cảm hứng tư tưởng cho nông thôn Việt Nam hiện nay và mai sau. Những
tư tưởng của Người có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, tạo những tiền đề cho
việc tiến hành cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng ở nông thôn, củng cố niềm tin và
tinh thần cách mạng của nông dân đối với việc xây dựng kết cấu kinh tế - kỹ thuật

mới trong kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Trong điều kiện hiện
nay, Đảng, Nhà nước, trước hết là ngành nông nghiệp cần quán triệt, vận dụng sáng
tạo những quan điểm đó của chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi người nông dân Việt Nam
đang còn thấy nguồn cảm hứng trong tư tưởng của Người, thì tư tưởng của Người
còn sống động.
1.3.2. Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa
1.3.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nâng cao đời sống nông dân là mục
tiêu của cách mạng Việt Nam
21


Theo Hồ Chí Minh, nông dân Việt Nam không chỉ là đối tượng giải phóng
mà còn là động lực, là gốc của cách mạng Việt Nam. Sau hiệp định Giơnevơ, miền
Bắc bước vào thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một cuộc biến đổi khó
khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa
nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Bước vào thời kì mới này, nông dân vẫn
là lực lượng đông nhất và kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất
trong nền kinh tế quốc dân. Hồ Chí Minh tin tưởng nông dân ta đã anh hùng trong
cách mạng, trong kháng chiến thì trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp
tục phát huy truyền thống đó. Thực tiễn khi bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa,
nông dân ta đã thể hiện tinh thần tích cực cách mạng của mình. Có được điều đó là
do sự giáo dục kiên trì và liên tục của Đảng và của giai cấp công nhân.
Với Hồ Chí Minh, việc đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam là
một tất yếu khách quan và chỉ xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì nhân dân,
trong đó đa số là nông dân mới thực sự được hưởng tự do hạnh phúc. Bởi vậy quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là quá trình không ngừng nâng cao đời sống
người nông dân. Mục tiêu đó của cách mạng được thể hiện trong đường lối cách

mạng của Đảng và Nhà nước. Tháng 6 năm 1955 Hồ Chí Minh nói, chính sách của
Đảng và chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Phải kiên
quyết nâng cao dần mức sống của nhân dân, đồng thời giảm nhẹ dần sự đóng góp
của nông dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả đường lối, phương châm, chính
sách…của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, của
nông dân nói riêng” [19;tr.380]. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tất cả mọi việc Đảng phải lo.
Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giành thống nhất nước nhà Đảng phải lo.
Ngay cả đến tương, cà, mắm, muối của dân Đảng cũng phải lo. Vì vậy, cán bộ và
chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống nông dân.
Hồ Chí Minh nói “có thực mới vực được đạo”. Bởi vậy dân đủ ăn, đủ mặc thì
những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ được thực hiện. Nếu dân đói,
rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay đến mấy cũng không thực hiện được.
Chính sách của Đảng và Chính phủ phải thể hiện rõ mục đích xây dựng chủ nghĩa
xã hội và nâng cao đời sống của nông dân, đó là yêu cầu đầu tiên. Nhưng theo Hồ
Chí Minh, chính sách ấy trở thành hiện thực hay không lại do chính nông dân quyết
định. Người thường giảng giải cho nông dân hiểu là:
22


“Do cái óc, cái tay của mình nà cải thiện đời sống của mình. Đảng và
Chính phủ rất mong muốn đời sống của công nhân, công chức và bộ
đội càng khá hơn. Do công nhân và nông dân cố gắng tăng gia sản
xuất, đời sống sẽ khá lên mãi” [17;tr.141]. “Việc cải thiện đời sống
cho nhân dân củng phải do nhân dân tự giúp lấy mình là chính” chứ
không trông chờ vào sự hỗ trợ, giúp đỡ của Đảng, Chính phủ hay bất
kì ai [17;tr.150]. Như vậy có chủ nghĩa xã hội và đời sống nhân dân
được nâng cao hay không là do nhân dân quyết định.
Để nông dân phát huy được sức mạnh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và nâng cao đời sống của mình, theo Hồ Chí Minh cán bộ có vai trò quan trọng
trong lãnh đạo và tổ chức nông dân. Người căn dặn: “Các cô, các chú là cán bộ và

cốt cán, phải lãnh đạo nhân, đoàn kết nhân dân, đưa nhân dân đấu tranh, tổ chức
nhân dân cải thiện đời sống, hướng dẫn nhân dân làm cá, làm mắm, làm muối”
[17;tr.150]. Theo người, là cán bộ phải biết lo trước dân, hưởng sau dân. Người ta
ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng muốn phải đúng thời, đúng hoàn cảnh.
Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn
ngon, mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức. Vì vậy, cán bộ phải cố gắng công tác
sao cho dân tộc, nhân dân mình được ăn ngon, mặc đẹp thì bản thân sẽ được ăn
ngon, mặc đẹp. Người thường giảng giải rằng Đảng ta đấu tranh để làm gì? Là
muốn cho tất cả mọi người được ăn no, mặc ấm, được tự do. Mỗi một đảng viên
đấu tranh để làm gì? Cũng để mọi người được ăn no mặc ấm, được tự do. Chủ
nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng
nếu tách riêng một mình mà ngồi ăn no mặc ấm, người khác mặc kệ, thế là không
tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm cũng cần làm sao cho tất cả mọi người đều được ăn
no mặc ấm, như thế mới đúng. Muốn như vậy cán bộ phải ra sức công tác, lãnh đạo
nông dân và cùng họ ra sức lao động sản xuất.
Thứ hai, để đi lên chủ nghĩa xã hội phải đưa nông dân vào hợp tác xã
Theo Hồ Chí Minh, kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ: nông thôn phải kinh qua
hai cuộc cách mạng: cải cách ruộng đất là một cuộc, cuộc thứ hai là từ chỗ thực
hiện tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường tập thể đến chỗ hợp tác xã hội hóa nông
nghiệp. Qua thực tiễn xây dựng tổ đổi công và bước đầu xây dựng hợp tác xã ở thời
kì khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa sau khi miền Bắc hòa bình, bằng những
23


×