Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

giáo dục đạo đức cho thanh niên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở thành phố cần thơ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.83 KB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

TÊN ĐỀ TÀI:

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY

Giảng Viên Hướng Dẫn

Sinh Viên Thực Hiện

TS. ĐINH NGỌC QUYÊN

Lê Nguyễn Ngọc Huỳnh
MSSV: B110176
Lớp: GDCD K37 - 01

Cần Thơ - 11/ 2013


MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài. .. ..........................................................................................................4
2. Đối tượng và pham vi nghiên cứu đề tài. ........................................................................5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài...........................................................................5


4. Phương pháp nghiên cứu đề tài. . .....................................................................................6
5. Kết cấu luận văn .. ............................................................................................................6
B. NỘI DUNG.. ............................................................................................................7
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
ĐỐI VỚI THANH NIÊN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG....................................7
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC.. .....................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm về đạo đức và đạo đức mới.........................................................7
1.1.2. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của đạo đức............................................11
1.1.3. Vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội của người Việt Nam hiện nay.......20
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI THANH NIÊN
TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG..............................................................................22
1.2.1. Vị thế, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng..............................22
1.2.2. Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức đối với thanh niên trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ..........................................................26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN TRONG ĐIỀU KIỆN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY.............................................................................30
2.1 . KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ CẦN THƠ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN
NAY.....................................................................................................................................30
2.1.1. Khái quát về Thành phố Cần Thơ..................................................................30
2.1.2. Những chủ trương định hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Thành phố Cần Thơ.........................................................................................34
2.2. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH ĐẠO ĐỨC CỦA THANH NIÊN TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ................................................................................42
2.2.1. Những ưu điểm và hạn chế của đạo đức thanh niên.......................................42
2.2.2. Nguyên nhân những hạn chế, yếu kém của đạo đức thanh niên.....................55

2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
THANH NIÊN TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐINH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY .................60
2.3.1. Giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh niên...............................................60
2.3.2. Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên.................................................62
2.3.3. Giáo dục lối sống văn hoá cho thanh niên......................................................63
2.3.4. Giáo dục thái độ lao động cho thanh niên.......................................................66
2.3.5. Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản cho thanh niên..................................67
2


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
THANH NIÊN TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY
..............................................................................................................................................69
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH
NIÊN TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY................69
3.1.1. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ thành phố về giáo dục đạo đức
thanh niên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa....69
3.1.2. Kết hợp giáo dục nội dung những giá trị truyền thống của dân tộc với giá trị
đạo đức, tinh hoa văn hóa nhân loại trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ..................................................................................................71
3.1.3. Gắn bó chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức cho thanh niên với quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hạn chế sự tác động tiêu cực của kinh tế
thị trường đến đạo đức thanh niên. .................................................................................72
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY .......................................74
3.2.1. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục

đạo đức cho thanh niên ...................................................................................................74
3.2.2. Nâng cao vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức của thanh niên gắn với
các phong trào hoạt động do Đoàn và địa phương phát động, tổ chức ...........................76
3.2.3. Giáo dục đạo đức cho thanh niên bằng cách nêu gương người tốt, việc tốt....78
3.2.4. Kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên.......81
3.2.5. Đổi mới nâng cao hiệu quả công tác giáo dục của Đoàn..................................83
3.2.6. Xây dựng tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Cần
Thơ vững mạnh, mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên, tích cực tham gia xây
dựng Đảng và chính quyền nhân dân ..............................................................................85
C. KẾT LUẬN..............................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................90

3


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc biệt, có vai trò rất quan trọng trong
lịch sử, trong các giai đoạn cách mạng cũng như trong hiện tại và tương lai. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với thanh niên. Khi đánh
giá về thanh niên Hồ Chí Minh khẳng định: Thanh niên là người chủ tương lai của
nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của thanh niên Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp của
đất nước ta thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng
đáng trong cộng đồng thế giới hay không chủ yếu là do lực lượng thanh niên ngày
nay quyết định. Tương lai của dân tộc Việt Nam, sự phát triển của đất nước tuỳ thuộc
vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên” [32, tr.7].
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang đem lại
những kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những thành tựu
phát triển kinh tế, xã hội đã và đang tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên được rèn

luyện, phấn đấu và khẳng định mình. Song, bên cạnh những chuyển biến tích cực đó,
sự tác động mạnh mẽ từ mặt trái của cơ chế thị trường cũng là mảnh đất mầu mỡ làm
nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu, làm rạn nứt những khuôn mẫu,
những giá trị đạo đức, hủy hoại nét đẹp văn hoá truyền thống. Ảnh hưởng từ mặt trái
của kinh tế thị trường đã tạo ra trong xã hội một lớp người không nhỏ trong đó có
thanh niên chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, phai nhạt lý tưởng bất chấp
những quy phạm đạo đức, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Hàng loạt vấn đề
đặt ra đối với thanh niên là, làm thế nào để thanh niên trong tương lai đủ sức đáp ứng
yêu cầu của đất nước đặt ra? Làm thế nào để họ có thể tự định hướng đúng, hình
thành và rèn luyện phẩm chất đạo đức trong đời sống kinh tế thị trường hiện nay?
Làm thể nào để những ảnh hưởng tiêu cực không làm suy giảm nguồn lực trẻ...? Do
vậy, việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho thế hệ thanh niên, là
một vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển con người của Đảng được toàn xã
hội quan tâm. Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu,
4


nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh đã khách quan hoá tầm quan
trọng và tính bức thiết của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên.
Thành phố Cần Thơ được xác định là trung tâm kinh tế, văn hóa và xã hội
của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có vai trò quan trọng là động lực thúc đẩy
kinh tế cho cả vùng. Vì thế, nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ của thành phố Cần
Thơ là rất lớn. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, Đảng bộ và nhân
dân thành phố Cần Thơ xác định ngành giáo dục có nhiệm vụ hàng đầu trong
việc đào tạo nguồn nhân lực và đã từng bước đổi mới cho phù hợp với tiềm năng
phát triển của thành phố và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đây thực sự là một vấn đề rất đáng được quan tâm và cần phải tìm hiểu.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài " Giáo dục đạo đức cho thanh niên trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Thành
phố Cần Thơ hiện nay" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu trực tiếp những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và vai trò của đạo đức thanh niên trong xã
hội. Trên cơ sở đó đi sâu phân tích thực trạng vấn đề đạo đức thanh niên ở Thành
phố Cần Thơ trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đó đề xuất ra một số phương hướng và giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho
thanh niên trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Thành phố Cần Thơ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
-

Mục đích nghiên cứu đề tài là góp phần làm rõ thực trạng đạo đức của

thanh niên Cần Thơ hiện nay để trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và những giải
pháp cho việc giáo dục đạo đức của họ trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

+ Phân tích rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
5


về đạo đức và sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức đối với thanh niên trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.
+ Phân tích thực trạng đạo đức của thanh niên ở Thành phố Cần Thơ trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Đề xuất phương hướng và những giải pháp để giáo dục đạo đức cho thanh
niên ở Thành phố Cần Thơ đáp ứng yêu cầu quá trình phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
logic và lịch sử; gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện đề tài.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương 7 tiết.

6


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI
THANH NIÊN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG
1.1 . QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1.1 Khái niệm về đạo đức và đạo đức mới
1.1.1.1 Khái niệm đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện cách đây hơn 26 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ
đại. Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại:
Đạo là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung quốc cổ đại.
Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội;
Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là
đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.

Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris,
nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos, cũng
có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái niệm khi nói đến
đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán hoạt động và ứng xử của con người
trong cộng đồng, trong xã hội.
Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga là G.Bandzeladze, trên lập
trường duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu quan niệm: “Đạo đức
là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của con
người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung” [20; tr.104].
Theo từ điển Triết học, “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội,
một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội... Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu
7


cầu lợi ích của xã hội, hoặc của các giai cấp biểu hiện dưới những hình thức, những
quy định và những sự đánh giá đã được mọi người thừa nhận và đã thành hình một
cách tự phát, được củng cố bằng sức mạnh của tấm gương của quần chúng, của
thói quen, phong tục, dư luận xã hội...” [33; tr.156-157].
Ngày nay đạo đức được định nghĩa: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh đánh giá
và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội.
Trong định nghĩa trên có ba điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn
tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như các quan
điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo đều mang tính chất của kiến trúc
thượng tầng. Chế độ kinh tế – xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con
người và các quan điểm này thay đổi theo cơ sở kinh tế đã sinh ra nó.

Thứ hai, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Trong
lịch sử của mình loài người đã sáng tạo nhiều phương thức điều chỉnh hành vi:
phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức... Đối với đạo đức, sự đánh giá
hành vi con người theo khuôn phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện
thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Bất
kỳ trong thời đại lịch sử nào, đạo đức con người cũng đều được đánh giá như vậy và
những chuẩn mực, quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay của
một giai cấp, dân tộc thừa nhận; đồng thời sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự
nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người.
Thứ ba, đạo đức là một hệ thống các giá trị. Đạo đức là một hiện tượng xã
hội, mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt. Các hiện tượng đạo đức
thường bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các
cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức
là một nội dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù
8


hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo.
Ngược lại, thì hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
1.1.1.2 Khái niệm đạo đức mới
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Do vậy,
cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội, mà trước hết là ở sự biến đổi của điều kiện
sinh hoạt vật chất và đời sống vật chất, đạo đức cũng biến đổi theo.
Cho đến nay, xã hội loài người vận động và phát triển như một quá trình lịch
sử – tự nhiên, từ thấp đến cao qua các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau. Phù hợp
với mỗi hình thái kinh tế – xã hội cụ thể có những quan điểm đạo đức tương ứng như
đạo đức của xã hội cộng sản nguyên thủy, đạo đức của xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo
đức của xã hội phong kiến, đạo đức của xã tư bản và đạo đức của xã hội cộng sản
chủ nghĩa mà gia đoạn đầu là đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trả lời các câu hỏi: Có đạo đức cộng sản hay không? Có luân lý cộng sản

hay không?, V.I.Lênin khẳng định rằng: “Tất nhiên là có. Người ta thường bảo
chúng ta không có đạo đức của chúng ta, và giai cấp tư sản buộc tội những người
cộng sản chúng ta là bác mọi thứ đạo đức. Đó là một cách đánh lộn sòng các
khái niệm làm công nhân và nông dân bị lầm lạc” [9; tr.225].
V.I.Lênin nêu rõ rằng: đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục vụ lợi ích đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản, đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra. “Đạo đức cộng sản là đạo đức
phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống
mọi sự bóc lột, chống mọi chế độ tư hữu nhỏ, vì chế độ tư hữu nhỏ trao cho một cá
nhân thành quả lao động của toàn thể xã hội sáng tạo ra. Ruộng đất đối với chúng ta
là tài sản chung” [9; tr.225]. Vì vậy, “đối với một người cộng sản, tất cả đạo đức là
nằm trong cái kỷ luật đoàn kết keo sơn đó và trong cuộc đấu tranh tự giác của quần
chúng chống bọn bóc lột... Đạo đức giúp xã hội loài người tiến lên cao hơn, thoát
khỏi ách bóc lột lao động” [9; tr.225].
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và lý luận đạo đức nói
riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng
9


ta một di sản tinh thần vô cùng quý giá, trong đó có tư tưởng đạo đức của Người.
Hồ Chí Minh coi đạo đức mới, đạo đức cách mạng là “gốc” là “nền tảng”
của người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [29;
tr.27]. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh đã từng dạy:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Tức là
phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa” [25; tr.186].
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng: “Không phải là đạo đức thủ
cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của các cá nhân
mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và loài người” [28; tr.252]. Đạo đức mới

là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của
nhân loại, vì tự do, hạnh phúc của mỗi người. Mục đích cuối cùng của nó là góp
phần giải phóng triệt để con người, trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thoát khỏi mọi áp bức, bất công trong xã hội. Do vậy, đạo đức mới là đạo đức
trong hành động cải tạo xã hội, khẳng định phẩm chất cao quý của người lao động
trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười viết: Đạo đức thể hiện lòng
trung thành với lý tưởng, với mục đích cách mạng của Đảng; ở sự vững vàng về
chính trị, sự kiên định trước mọi thử thách có phẩm chất trong sáng, trung thực, đặt
lợi ích chung trên hết, trước hết, một lòng vì nước, vì dân; ở hành động của mình
thực sự tỏ ra là người lao động, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đạo đức
còn thể hiện ở nếp sống trong sạch của bản thân và gia đình mình, thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tích cực đấu tranh chống tham ô, quan liêu, lãng
phí, góp phần xây dựng Đảng ta thực hiện trong sạch vững mạnh (Báo Nhân dân,
ngày 22/4/1996).
Từ sự phân tích trên đi đến kết luận: Đạo đức mới là đạo đức của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động tiến bộ, phản ánh thực tiễn cuộc đấu tranh cách
10


mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là
tổng hòa các phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách
của con người mới, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng
cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
1.1.2 Nguồn gốc, bản chất và chức năng của đạo đức
1.1.2.1 Nguồn gốc của đạo đức
 Các quan niệm trước Mác về nguồn gốc của đạo đức
 Quan niệm về đạo đức của các nhà triết học duy vật trước Mác
Tư tưởng về đạo đức trước Mác có nhiều quan niệm khác nhau. Các quan

niệm đó chủ yếu chia theo hai trường phái trái ngược nhau là chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa duy vật, giữa khoa học và tôn giáo. Tiêu biểu cho những nhà triết học duy
vật trước Mác là: Đêmôcrit (460 – 370 TCN), Êpyquya (341 – 271 TCN), L.
Phơbách (1804 – 1872). Những nhà triết học duy vật này đã khẳng định nguồn gốc
trần thế, nguồn gốc xã hội của đạo đức, gắn đạo đức với những nhu cầu về lợi ích
trong quan hệ xã hội của con người. Tuy nhiên, vì có những hạn chế về mặt điều
kiện lịch sử và hạn chế về thế giới quan nên các nhà triết học duy vật trước Mác
chưa thấy được yếu tố vật chất của đạo đức và đã tách rời đạo đức với hoạt động
thực tiễn xã hội của con người. Ngay cả Phơbách cũng xem xét đạo đức một cách
siêu hình và trừu tượng, tách khỏi quan hệ vật chất kinh tế, tách khỏi hoạt động thực
tiễn của con người.
Trong quan niệm về đạo đức của Đêmôcrit, ông đã làm toát lên được mối
quan hệ luân thường đạo lý, đề cao phẩm chất của con người không chỉ bằng lời nói
mà phải bằng hành động. Với ông: “Người tốt không những làm mà còn không
muốn làm những điều phi nghĩa” hay “Vấn đề giàu nghèo không phải là vấn đề
thuộc xã hội mà nó thuộc về lĩnh vực thuần túy đạo đức...”. Đêmôcrit đề cao vấn đề
giáo dục đức tính tốt đẹp, giáo dục cái thiện cho con người. Trong quan niệm về đạo
đức của Đêmôcrit chủ yếu xoay quanh vấn đề “lương tâm” và tinh thần lành mạnh
của từng cá nhân. Bên cạnh những yếu tố tích cực như đặt ra nhiệm vụ giáo dục con
người sống đúng mực, ôn hòa, không ích kỷ, không gây hại cho người khác thì
11


quan niệm đạo đức của ông có hạn chế đó là: trung hòa lợi ích giữa giai cấp chủ nô
và nô lệ.
Arixtốt (384 – 322 TCN) Ông luôn đề cao trạng thái ung dung, coi nó là chuẩn
mực để điều chỉnh mọi hành vi của con người. Arixtốt là người đầu tiên xem xét bản
chất của đạo đức và coi đạo đức hình thành không phải bằng con đường tự nhiên
mà bằng sự rèn luyện và hoạt động, đạo đức được rút ra từ hoạt động thực tiễn của
con người. Theo ông, hành vi đạo đức phải là hành vi tự nguyện và được lựa chọn

một cách tự do mà bản thân chủ thể hành động biết rõ.
Đến thời đại triết học cổ điển Đức, L. Phơbách (1804 – 1892) là nhà triết học
duy vật lớn nhất trong hàng ngũ các nhà duy vật trước Mác cho rằng: Đạo đức
không thể phát sinh từ nguồn gốc nào khác là giới tự nhiên. Theo ông, đạo đức là sự
thỏa mãn khao khát hạnh phúc của con người. Hạn chế lớn nhất trong quan niệm về
đạo đức của ông là quá đề cao đạo đức tình yêu mà ông đã tách rời đạo đức với các
mối quan hệ xã hội khác trong xã hội.
 Quan niệm về đạo đức của những nhà triết học duy tâm
Khác với những nhà triết học duy vật trước Mác, các nhà triết học duy tâm
xem xét nguồn gốc của đạo đức ở lĩnh vực tinh thần chủ quan – tự ý thức hay ở một
lực lượng siêu nhiên – ý niệm tuyết đối của các nhà duy tâm khách quan. Chính
vì vậy, quan niệm về đạo đức của họ không chỉ là sản phẩm của nhận thức duy tâm
mà còn là sản phẩm của một thế giới quan tôn giáo.
Platon (427 – 347 TCN), nhà triết gia cổ đại Hy lạp này là người đã đặt nền
móng cho đạo đức học duy tâm. Theo ông, tâm hồn con người có ba mặt: trí tuệ, ý chí
và tình cảm. Tương ứng với ba mặt đó là ba đức tính của con người là: khôn ngoan,
lòng dũng cảm và đức hy sinh. Từ sự phân tích đó ông đã đi đến kết luận rằng sự kết
hợp cần thiết của ba đức tính nói trên là giá trị đạo đức cao nhất của con người, đó
là sự công bằng và cái thiện tối cao. Nhưng với ông sự công bằng và cái thiện đó chỉ
có ở những tâm hồn cao cả hay là đạo đức chỉ có ở tầng lớp trên, tầng lớp quý tộc.
Tuy còn có những hạn chế như vậy, nhưng những tư tưởng đạo đức của Platon đã
có ảnh hưởng to lớn đến các học thuyết duy tâm về đạo đức trong các giai đoạn sau
12


này, nhất là trong tư tưởng đạo đức tôn giáo.
Kant (1724 – 1804) người đặt nền móng cho triết học cổ điển Đức. Đạo
đức của ông xuất phát từ phạm trù “tiên thiên”, bẩm sinh bên trong. “Đạo đức của
ông không đề cập đến việc đánh giá thực tế về mặt đạo đức những hành vi của con
người, mà chủ yếu nói về những mệnh lệnh thuần túy hình thức của lý tính “thực

tiễn”…Mệnh lệnh, theo ông là những nguyên tắc chứa đựng sự ép buộc khách
quan ở một hành vi nào đó” [22; tr.280]. Như vậy khi bàn về đạo đức chủ yếu ông
bàn đến những mệnh lệnh thuần túy hình thức của lý tính thực tiễn chứ không đề cập
đến việc đánh giá thực tế về mặt đạo đức những hành vi của con người. Mệnh lệnh
tuyệt đối trong quan niệm của ông mang tính trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp,
thiếu tính thực tiễn. Và chỉ những hoạt động nào của con người phù hợp với mệnh
lệnh tuyệt đối đó thì mới coi là đạo đức. Mặc dù vậy, nhưng trong quan niệm của
ông có điểm tích cực đó là đã thể hiện được phần nào yêu cầu tự do, về cái thiện và
mang nhân tính. Điểm tích cực này đã chống lại những hạn chế của đạo đức phong
kiến và xây dựng một giá trị đạo đức cao hơn.
P. Hêghen (1770 – 1831) là đại diện tiêu biểu của nền triết học Đức, với lập
trường duy tâm khách quan. Khi bàn về đạo đức, Hêghen đã gắn chặt quan niệm đạo
đức với quan niệm về pháp quyền và thông qua đó đem lại một nguyên lý đạo đức
riêng, hay còn gọi là một sự chuẩn y về đạo đức. Hêghen quan niệm: “Nhiệm vụ của
đạo đức là tìm ra con đường hòa hợp giữa những hành vi của những chủ thể khác
nhau, một sự hòa hợp không chỉ là kết quả của cấm đoán, mà còn xuất phát từ bản
thân trạng thái bên trong của những chủ thể ấy” [22; tr. 290]. Thông qua tìm hiểu
một số quan niệm của những nhà triết học tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm, ta có
thể thấy được rằng: quan niệm về đạo đức của Hêghen nói riêng và của những nhà
triết học duy tâm nói chung đều cho rằng đạo đức có nguồn gốc phi trần thế, xem
mục đích của đạo đức là ý niệm hay đó là mệnh lệnh tuyệt đối, hay nói cách khác là
họ đã thần bí hóa đạo đức.
 Quan niệm về đạo đức của tôn giáo
Tư tưởng đạo đức Nho giáo chủ yếu thể hiện trong quan điểm về “tu
13


thân” và những nguyên tắc đạo đức cơ bản như: “tam cương”, “ngũ thường”, “tam
tòng”, “tứ đức”. Đó là những quy tắc ứng xử với nhau trong quan hệ xã hội giữa vua
– tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn bè. Cụ thể là mỗi người phải tùy theo

danh phận của mình phải thực hiện những chuẩn mực “trung, hiếu, nghĩa”, “nhân,
lễ, nghĩa, trí, tín”, “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” và “công,
dung, ngôn, hạnh”.
Tư tưởng đạo đức của Đạo giáo nêu những chuẩn mực đạo đức của cá nhân
như “vô kỷ”, “vô công”, “vô danh”, “bất tranh”, “dĩ đức báo oán”. Những chuẩn
mực này đòi hỏi con người gạt bỏ dục vọng của bản thân mình, không cậy công, kể
công, không ham danh vọng, ứng xử uyển chuyển, lấy nhu thắng cương, dùng
nhược để thắng cường trong đối nhân xử thế, lấy lòng nhân đức để đối xử với người
đã gây ra oán thù với mình.
Trong đạo đức Phật giáo, nội dung cơ bản là những yêu cầu đạo đức đối
với hai loại người là người đời và Phật tử. Đối với người đời, những yêu cầu đạo
đức rất chi tiết trong bảy mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa con cái đối với cha mẹ,
quan hệ thầy- trò, vợ-chồng, bạn bè, quan hệ với bề trên, quan hệ với bề dưới,
quan hệ nô bọc với chủ. Những chuẩn mực được nêu rất cụ thể nhưng nhìn chung
khuyên con người trong bất cứ mối quan hệ nào cũng phải thể hiện tình yêu thương,
kính trọng nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, làm tròn bổn phận của mình. Đối với Phật
tử, ngoài việc thực hiện những đức hạnh của người đời, họ còn phải thực hiện Ngũ
giới; Thập thiện nghiệp, Bát chính đạo, tu phẩm hạnh Balamật. Đó là những chuẩn
mực đạo đức cá nhân từ những chuẩn mực cơ bản như không sát sinh, không ăn
trộm, không tà dâm, không nói sai sự thật, không uống rượu... đến những phẩm hạnh
mang tính hoàn thiện siêu việt như Bố thí Balamật, Trì giới Balamật... để đạt trạng
thái siêu giải thoát cho mình và mọi người khỏi nỗi khổ do dục vọng của con người
gây ra. Những chuẩn mực này thể hiện lòng từ bi hỷ xả, thương xót đồng loại và cả
chúng sinh.
Những trường phái tư tưởng đạo đức này có những hạn chế nhất định như
không thể lý giải được nguồn gốc, bản chất, những quy luật hình thành, phát sinh,
14


phát triển của đạo đức và mang tính thoát tục, xa rời hiện thực; nhưng nhìn chung, đó

là những tư tưởng có giá trị lịch sử to lớn, có ảnh hưởng tích cực giúp con người xây
dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
 Quan niệm triết học Mác – Lênin về nguồn gốc của đạo đức
Khác với tất cả các quan niệm trên, Mác – Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy
sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Theo Mác – Ăngghen, con người khi sống phải có “quan hệ song trùng”. Một
mặt, con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn cuộc
sống của mình. Tự nhiên không thỏa mãn con người, điều đó buộc con người phải
xông vào tự nhiên để thỏa mãn mình. Mặt khác, khi tác động vào tự nhiên, con
người không thể đơn độc, tức con người phải quan hệ với con người để tác động vào
tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa người và người là hệ quả của hoạt động vật chất
và tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của
xã hội loài người, Mác – Ăngghen cho rằng: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên
của toàn bộ đời sống loài người” [3; tr.137]; rằng: “người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại
trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ thuật…”. Xuất phát từ con người thực tiễn
chứ không phải con người thuần túy ý thức hay con người sinh học, hai ông đi đến
quan niệm về phương thức sản xuất quy định đối với toàn bộ các hoạt động của
con người, xã hội loài người. Trong lời tựa của tác phẩm “Góp phần phê phán chính
trị – kinh tế học” Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá
trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, không phải ý thức của con
người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại chính sự tồn tại xã hội của quyết định ý
thức của họ” [2; tr.15]. Luận điểm này chính là chìa khóa để khám phá ra tất cả các
hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức.
Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài
xã hội, bên ngoài các quan hệ con người, cũng không phải là sự biểu hiện của những
năng lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người. Với tư cách là sự phản ánh
tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
15



hội, của cơ sở kinh tế. Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến
nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ.
Khi những hình thái kinh tế – xã hội có đối kháng giai cấp thì những hệ thống
đạo đức của các giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy “những quan điểm
đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình,
tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi” [3; tr.136].
Trong xã hội phân chia thành giai cấp, đạo đức đã tự khẳng định mình là một
hình thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản xuất tinh thần của xã hội. Hình thái kinh tế –
xã hội có giai cấp là một bước tiến của lịch sử nhân loại, làm cho đạo đức cũng
phát triển theo. Tuy vậy, bước phát triển này cũng làm nảy sinh những cái ác, tham
lam, ích kỉ, lừa dối…mà loài người sau này phải đấu tranh quyết liệt để chống lại nó.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, nội dung và hình thức của đạo đức phát triển
nhưng chưa thật nhân đạo, chưa hoàn thiện. Sự hoàn thiện của đạo đức chỉ có thể
đạt được khi con người chiến thắng được tình trạng đối kháng giai cấp và tạo ra
những điều kiện để có thể “quên được tình trạng đối kháng giai cấp”. Điều kiện đó
chỉ có thể có được trong xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã
hội. Sự hoàn thiện đạo đức được thực hiện từ đạo đức của giai cấp công nhân, một
dạng đạo đức “có nhiều nhân tố hứa hẹn” để dẫn tới một kiểu đạo đức “thật sự có tính
nhân đạo”.
Như vậy, theo quan điểm Mác – Lênin, đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu
phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong quá trình đấu tranh xã hội,
trong phân phối sản phẩm, để con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển
của sản xuất, các quan hệ sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức,
ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng
nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản
phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ người –
người, cá nhân – xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả của chúng càng
có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng có đạo đức. Đạo đức

16


“đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
1.1.2.2 Bản chất và chức năng của đạo đức
 Bản chất của đạo đức
Sự hình thành, phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được quyết
định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con
người. Nói cách khác, nội dung khách quan của các quan niệm, quan điểm, các
nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện của trạng thái, một trình độ
phát triển nhất định của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh
tế.
Khẳng định tính quy luật của cơ sở kinh tế đối với đạo đức cho phép nhìn
nhận sự biến đổi của đạo đức theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế. Phân tích mối quan
hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng mà trong đó đạo đức là yếu tố của
nó, Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tần đồ sộ cũng bị
đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng” [2; tr.15].
Tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng của Mác, Ăngghen đã luận chứng cho bản chất
xã hội của đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo
đức.
Về tính thời đại, trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã chỉ ra mối
quan hệ của các thời đại đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức với tính cách
là biểu hiện về mặt đạo đức của các thời đại kinh tế. Phê phán quan điểm của
Đuyrinh về những chân lý đạo đức vĩnh cửu, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, thực
chất và xét đến cùng, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các quan điểm đạo đức
chẳng qua chỉ là sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế mà thôi.
Tính quy định của thời đại đối với đạo đức cho ta quan niệm khoa học về loại
hình đạo đức. Mặc dù đạo đức có quy luật nội tại, có sự kế thừa, có sự lệch pha nào
đó đối với cơ sở sản sinh ra nó nhưng về căn bản, tương ứng với một chế độ
kinh tế, mỗi phương thức sản xuất và do đó mỗi hình thái kinh tế – xã hội là một

hình thái đạo đức nhất định. Đạo đức nguyên thủy, đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo
đức phong kiến, đạo đức tư sản và sau đó, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là những thời
17


đại tiến triển dần dần của đạo đức nhân loại.
Về tính dân tộc là một trong những biểu hiện bản chất xã hội của đạo đức. Có
thể nhìn nhận tính dân tộc như là sự biểu hiện đặc thù tính thời đại của đạo đức trong
các dân tộc khác nhau. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đặt cơ sở khoa
học cho việc luận chứng tính dân tộc của đạo đức. Là một hình thái ý thức xã hội,
ý thức đạo đức vừa bị quy định bởi tồn tại xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình
thái ý thức xã hội khác nhau như chính trị, triết học, nghệ thuật, tôn giáo…Tổng thể
những nhân tố ấy trong mỗi dân tộc là sự khác biệt nhau, làm thành cái mà ngày nay
chúng ta gọi là bản sắc dân tộc. Bản sắc ấy được phản ánh vào đạo đức tạo nên tính
độc đáo của các quan niệm, các chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên
tính độc đáo trong đời sống đạo đức của mỗi dân tộc. Nhìn nhận tính độc đáo ấy về
mặt dân tộc cũng như sự biến đổi chúng qua các thời đại dân tộc, Ph.Ăngghen viết:
“Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan
niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”.
[3; tr.135].
Về tính giai cấp, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “…cho tới nay xã hội đã
vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo
đức của giai cấp” [3; tr.137]. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp có vai
trò và địa vị khác nhau, do đó mà họ có lợi ích khác nhau và đối ngịch nhau. Đạo đức
với tư cách là hình thái ý thức xã hội đã phản ánh và khẳng định lợi ích của mỗi giai
cấp. Ý thức đạo đức giúp mỗi giai cấp hiểu được lợi ích của nó, hiểu được những
cách thức, biện pháp bảo vệ và khẳng định lợi ích giai cấp. Mặt khác, mỗi giai cấp sẽ
sử dụng đạo đức của mình như là công cụ để bảo vệ lợi ích của mình. Mỗi giai cấp
có những lợi ích riêng, do đó cũng có những quan niệm đạo đức, hệ thống đạo đức
riêng. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là hệ thống

đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi giai cấp vẫn
ứng xử theo những lợi ích trực tiếp của mình.
Đạo đức mang tính giai cấp trong xã hội có giai cấp nhưng không phải vì vậy
mà phủ nhận tính nhân loại chung của đạo đức. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại
18


hình thức thấp là biểu hiện của những quy tắc đơn giản, thông thường nhưng lại cần
thiết để đảm bảo trật tự bình thường cho cuộc sống hằng ngày của con người. Biểu
hiện cao hơn là ở những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển
của lịch sử, những giá trị đạo đức này thường là những giá trị đạt được tiến bộ nhất
trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.
Như vậy, bên cạnh tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp, đạo đức còn
mang tính nhân loại. Đi đến tột đỉnh các giá trị đạo đức của giai cấp tiến bộ của từng
thời kì lịch sử, nhân loại sẽ bắt gặp đạo đức của mình tương ứng với các thời kì đó.
 Chức năng của đạo đức
Đạo đức có các chức năng: chức năng nhận thức, chức năng điều chỉnh hành
vi, chức năng giáo dục.
 Chức năng nhận thức
Chức năng nhận thức của đạo đức bao gồm nhận thức và tự nhận thức, bởi vì
nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhận thức hướng
ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức xã hội làm đối tượng, là quá trình
cá nhân đánh giá, tiếp thu hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Tự nhận thức là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức,
hành vi đạo đức của mình với chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Bằng hai
quá trình nhận thức ấy con người đi đến sự nhận biết, phân biệt những giá trị: đúng
sai, tốt xấu, thiện ác,... hướng tới giá trị bao quát đó là cái chân, thiện, mỹ. Từ nhận
thức này mà chủ thể hình thành và phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống
của mình.
 Chức năng điều chỉnh hành vi

Loài người có nhiều phương thức để điều chỉnh hành vi như: đạo đức, chính
trị, pháp luật,... Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc
gia bằng các biện pháp như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực.... Pháp quyền
điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng biện pháp đặc
trưng là ngăn cấm, cưỡng bức bằng pháp luật. Đạo đức điều chỉnh hành vi của con
người bằng lương tâm và dư luận xã hội. Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là
19


hành vi cá nhân qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng. Mục đích điều
chỉnh hành vi của đạo đức nhằm đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá
nhân. Cách thức điều chỉnh của đạo đức được biểu hiện qua sự lựa chọn giá trị
đạo đức; xác định phương án cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ
của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo đức, kiểm soát, uốn nắn hành vi bởi
lương tâm và dư luận xã hội. Hành vi đạo đức của con người có tác động đến sự
phát triển kinh tế – xã hội rất rõ rệt. Những hành vi vi phạm đạo đức của mỗi công
dân trong xã hội đều gây một tác hại nhất định đối với sự phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước. Những hành vi lừa đảo, chụp giật hoặc kinh doanh theo kiểu “ăn xổi ở
thì”, làm mất chữ tín; những hành vi trộm cắp, tham ô, tham nhũng.v.v... gây tác hại
trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Và ngược lại những hành vi phù hợp
với chuẩn mực đạo đức như những hành vi trung thực, cần cù, chăm chỉ,... những
việc làm từ thiện vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng sẽ tạo ra những giá trị kinh tế
– xã hội to lớn thúc đẩy xã hội phát triển.
 Chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục của đạo đức bao hàm cả giáo dục và tự giáo dục. Chức
năng giáo dục của đạo đức là để hình thành những quan điểm cơ bản nhất, những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho con người; nó còn giúp cho con
người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội; từ đó con người tự điều
chỉnh hành vi của mình để không ngừng hoàn thiện. Chức năng giáo dục đóng vai trò
rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Đạo đức không chỉ đóng

vai trò điều chỉnh ý thức và hành vi của con người mà còn có tác dụng cảm hóa
con người, giúp con người nhận thức và hoạt động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ
tốt đẹp giữa người và người. Các chức năng của đạo đức qui định vai trò to lớn của
đạo đức trong việc duy trì trật tự, bình ổn và phát triển xã hội. Xã hội càng phát
triển, càng văn minh thì đạo đức càng đóng vai trò quan trọng; thậm chí nó có thể
nắm vai trò điều khiển xã hội, thay thế chức năng quản lý của con người bằng pháp
luật khi xã hội đạt đến trình độ văn minh cao.
1.1.3 Vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội của người Việt Nam hiện nay
20


Từ xưa nay vấn đề đạo đức được xem là một trong những mối quan tâm hàng
đầu trong đời sống xã hội nhân loại. Ở nước ta, từ khi phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của đạo đức ngày càng trở thành mối
quan tâm đặc biệt của toàn xã hội, nhất là trong những năm gần đây khi mặt trái của
cơ chế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến đạo đức xã hội. Nhiều yếu tố tác động
của kinh tế thị trường đã làm thay đổi những vấn đề căn bản trong cuộc sống hàng
ngày. Để xã hội phát triển đi lên đồng thời vẫn giữ được cái hồn dân tộc thì vấn đề
đạo đức phải hết sức chú trọng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Nói đến đạo đức, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là nền tảng của cách mạng.
Người nói: “Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn; cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”, “sức có mạnh mới gánh được nặng đi xa, người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [1; tr.29]. Đạo đức là
gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ muốn làm cách mạng thì trước hết con người phải
có cái tâm trong sáng, cái đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, với nhân dân
lao động, với dân tộc mình. Cái tâm, cái đức ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ
hàng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung quanh
mình. Trong xã hội nếu không có đạo đức, không thể có niềm hạnh phúc cho mỗi con

người.
Đạo đức cách mạng không chỉ là cái gốc của người cách mạng mà còn là
động lực mạnh mẽ để người cách mạng đi đến cái trí. Khi đã có trí, hiểu biết
khoa học, chủ nghĩa Mác, phương pháp cách mạng… thì cái đức chính là cái đảm
bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa của mình đã giác ngộ, đã đi theo.
Theo Bác: “Đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách.
Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước;
khi gặp thuận lợi thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn,
mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành cho tốt nhiệm vụ chứ
không kèn cựa về mặt hưởng thụ.
21


Không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa” [16;
tr.29]. Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp to lớn, khó khăn
và nặng nề, con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường dài,
không phải là một đại lộ thẳng tắp. Vì vậy, chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng
ấy phải là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi
người trong xã hội.
Đối với Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải “là đạo đức, là văn minh”. Người
thường nhắc lại ý của Lênin: “Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của dân tộc và thời đại”. Ở đây, “đạo đức” là những phẩm chất cần mà
con người cần phải có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Còn “văn minh” tức là trí tuệ, đó là sự hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa
Mác – Lênin, về những tri thức hiện đại, về những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách
mạng đi đến thắng lợi. Trong đó, đạo đức là nguồn gốc, nền tảng bởi vì muốn làm
cách mạng thì trước hết phải có tâm, cái đức trong sáng.
Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu đạo đức đối với giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã
hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động; trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả
mối quan hệ của con người đó là đối với mình, với người, với việc để mọi người

phấn đấu, rèn luyện từ đó phục vụ cho sự nghiệp cách mạng to lớn. Tóm lại, có thể
khằng định đạo đức có vị trí cực kì quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của
Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện con người mới, đặc
biệt là lớp thanh niên Việt Nam trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.2 . SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI THANH
NIÊN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG:
1.2.1 Vị thế, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng
Thanh niên là lực lượng quan trọng luôn mang trong mình những tính đa dạng
của thế hệ đang lớn. Vì thế, trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn
đề thanh niên đã được tất cả các quốc gia và nhân loại coi là vấn đề có tầm quan
trọng đặc biệt. Khi nói đến thanh niên có rất nhiều khái niệm khác nhau tùy thuộc
22


vào nội dung tiếp cận và góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá .
Theo quan niệm quốc tế, trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi (Theo Điều 1,
Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
20/11/1989), người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên
(Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em,
người chưa thành niên và thanh niên. Ở Việt Nam, theo Điều 1, Luật Thanh niên
năm 2005 quy định thì thanh niên là “công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”.
[23, 33].
Hồ Chí Minh, khi nói đến thanh niên Người đã đưa ra một khái niệm đầy hình
ảnh: “Một năm bắt đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa
xuân của xã hội” [26, tr.69]. Bác cho rằng thanh niên là lứa tuổi sống động nhất,
mạnh mẽ và đẹp đẽ nhất.
Theo đề tài “Tình hình tư tưởng thanh niên và công tác giáo dục của Đoàn
thanh niên giai đoạn hiện nay” thì “Thanh niên là nhóm nhân khẩu – xã hội đặc
thù, có độ tuổi nhất định được phân bố rộng khắp trong các giai cấp, các tầng lớp

xã hội; trong các ngành kinh tế – xã hội của đất nước. Thanh niên được phân chia
theo lứa tuổi nên có những đặc điểm riêng biệt về trình độ học vấn, sức khỏe, tâm lý,
sinh lý,…” [24, 37].
Như vậy, Thanh niên là một nhóm người trong xã hội – nhân khẩu đặc thù,
với độ tuổi nằm trong giới hạn từ 15 đến 30 tuổi, gắn với mọi giai cấp, dân tộc, mọi
tầng lớp xã hội và tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của từng
quốc gia, từng dân tộc.
Khi bàn về vai trò của quần chúng nhân dân, của thanh niên trong học thuyết
của mình, C.Mác đã đề cập đến lớp người trẻ tuổi, đánh giá cao vai trò của thế hệ
công nhân đang lớn lên. Ông cho rằng đó là nguồn bổ sung đặc biệt quan trọng để
giai cấp vô sản được hình thành với tư cách là một giai cấp thực sự khi nó ý thức
được địa vị sứ mệnh lịch sử và tương lai của nó. Ông khẳng định: “Nhưng dù sao
thì bộ phận giác ngộ nhất trong giai cấp công nhân cũng nhận thức rất rõ rằng
23


tương lai của giai cấp họ và do đó tương lai của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc
vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [5; tr.118].
Ph.Ăngghen thì cho rằng: Thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, chính
hiện thực cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị. Ông nhấn
mạnh rằng, thanh niên không bao giờ thỏa mãn với lý tưởng trước đây, họ muốn
được tự do hơn trong hành động, họ khao khát lập chiến công và vì sự đổi mới họ
sẵn sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời mình. Thanh niên có đủ sức lực và tài năng
để giải quyết những mâu thuẫn đang nảy sinh trong đời sống của đất nước.
Ăngghen cũng là người đầu tiên đưa ra các quan niệm: “đội quân xung kích
quyết định của đạo quân vô sản quốc tế”, “đội hậu bị của Đảng” để gắn với thanh
niên. Năm 1853, khi “Đảng của Mác” đã khẳng định vị trí của mình trên vũ đài
chính trị, trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại những đạo luật đặc biệt của
Bixmac, Ăngghen đã viết: chính thế hệ trẻ sẽ là nguồn bổ sung dồi dào nhất cho
Đảng. Mác – Ăngghen khẳng định rằng: lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo

cần được tập hợp, tổ chức và giáo dục sao cho những biến đổi tư tưởng của họ bắt
kịp với thời đại, đi đúng quỹ đạo của dòng thác lịch sử đang cuộn chảy. Mác –
Ăngghen đã khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong đó có thanh
niên.
Phát triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện
lịch sử mới, V.I. Lênin đã coi thanh niên là nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng.
V.I. Lênin cho rằng công việc xây dựng và phát triển xã hội mới văn minh và hiện
đại phải thuộc về thế hệ trẻ. Người khẳng định: theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói
rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là của thanh niên.
V.I. Lênin cũng nhấn mạnh rõ lập trường của những người cộng sản chân chính là
cần phải giáo dục cộng sản cho thế hệ trẻ và kết hợp việc giáo dục ấy với cuộc đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định thanh niên là đội quân xung kích đi đầu
trong cách mạng. Người nêu rằng: “Lực lượng to lớn và vững chắc trong cuộc
kháng chiến và kiến quốc. Mọi công việc thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu đâu
24


cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên” [28; tr.82]. Từ việc đánh giá đúng vị trí,
vai trò của thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh một phần lớn do thanh niên. Người viết: “Non sông Việt Nam có
trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các
cường quốc năm châu hay không, chính là một phần lớn ở công học tập của các
cháu” [30; tr.61].
“Án quyết về cộng sản thanh niên vận” đầu tiên của Ban chấp hành Trung
ương ban hành vào tháng 10 năm 1930 có đoạn phân tích “địa vị thanh niên lao
động” đã nhìn nhận “Những công nhân bãi công và nông dân biểu tình năm nay tỏ ra
rằng thanh niên lao động đã trở thành một lực lượng rất quan trọng không thể không
kể tới được” và “nhiều thanh niên trọng hạng tiểu tư sản, nhất là học sinh đã tham
gia vào các sinh hoạt chính trị ở Đông Dương”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ nhất của Đảng rút ra kết luận “Ngoài con đường cách mạng đấu tranh
thì họ tuyệt nhiên không có phương pháp nào mưu ra khỏi ách nô lệ”, và vì vậy
“Thanh niên lao động Đông Dương là một lực lượng cách mạng to lớn, vị trí thanh
niên trong các phong trào cách mạng dân tộc giải phóng rất quan trọng”.
Trong những thập kỷ vừa qua, vai trò to lớn của thanh niên đã được Đảng ta
khẳng định: “Thanh niên là lớp người mà chúng ta trao gửi vận mệnh đất nước,
tiền đồ dân tộc cho họ. Khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã trở thành yếu tố
tác động có ý nghĩa quyết định sự phát triển của xã hội thì lực lượng trẻ ngày càng
có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Trong Nghị quyết Trung
ương 4 khóa VII, Đảng ta đã khẳng định “Thanh niên ta ngày nay là lực lượng xã
hội to lớn, tiềm năng hùng hậu. Thanh niên là lực lượng nòng cốt trong tiến trình
đổi mới và phát triển xã hội ở nước ta”
Với tinh thần đó, Nghị quyết đại hội IX của Đảng đã xác định đối với thanh
niên cần phải “chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc
làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, những định hướng của Đảng đã không chỉ
25


×