Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Hiện tượng văn học việt nam ở đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.13 KB, 17 trang )

Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hồng Anh Tuấn

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, để đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học nói
chung và nâng cao chất lượng mơn Ngữ văn trong các trường THPT nói riêng đang là
yêu cầu cấp bách, là mục tiêu quan trọng trong quá trình đổi mới giáo dục và nâng cao
chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Bên cạnh việc đổi mới và vận dụng các phương pháp dạy học một cách thiết thực
và phù hợp với từng đối tượng học sinh, phù hợp với từng nhà trường ở khắp các vùng
miền đất nước. Việc cập nhật kiến thức văn học, cập nhật các tác phẩm văn học mới là
một vấn đề cần thiết để giảng dạy, hướng dẫn cho giáo viên và học sinh tìm hiểu văn
học, từ đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của cả thầy và trò để tạo hứng thú
trong giờ dạy Ngữ văn ở chương trình THPT và nâng cao chất lượng dạy học.
Trong thời đại cơng nghệ thơng tin, học sinh có nhiều con đường tiếp nhận văn
học khác nhau, những tác phẩm mới, những quan điểm đánh giá những tác giả, tác phẩm
văn học có rất nhiều trên mạng internet đáp ứng nhu cầu tìm hiểu văn học của học sinh.
Tuy nhiên bên cạnh những tác phẩm, những cách đánh giá có giá trị tích cực vẫn có
những tác phẩm, cách đánh giá vơ bổ, tùy tiện, những tác phẩm có nội dung xấu có ảnh
hưởng tiêu cực đến học sinh. Do đó cần có sự định hướng, hướng dẫn của giáo viên đối
với quá trình tiếp nhận văn học của học sinh.
Mặt khác, chương trình mơn Ngữ văn ở bậc THPT, chỉ giới thiệu đến những
thành tựu văn học Việt Nam đến hết XX, khơng có kiến thức văn học ở đầu thế kỷ XXI,
nên trong q trình giảng dạy có một số học sinh yêu cầu giới thiệu thêm về văn học ở
đầu thế kỷ XXI đã gây khó khăn, lúng túng cho giáo viên lên lớp vì khơng hoặc chưa cập
nhật thông tin kịp thời về những đặc điểm văn học, về những nhà văn, nhà thơ, về những
tác phẩm văn học ra đời trong những năm 2001 đến nay.
Do đó, bản thân đã chọn đề tài "Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế
kỷ XXI" để giới thiệu khái quát cho đồng nghiệp và học sinh những nhà văn, nhà thơ,
những tác phẩm văn học nổi tiếng trên thế giới và của Việt Nam. Từ đó để giới thiệu,
hướng dẫn người đọc tìm hiểu thêm về những hiện tượng văn học đó, đặc biệt là những


nhà thơ, nhà văn, những tác phẩm văn học Việt Nam có đóng góp cho sự phát triển của
nền văn học nước nhà.
II. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu "Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ
XXI", bản thân đã sưu tầm tài liệu trên các trang web về văn học, các trang báo điện tử
phần về văn học; thống kê, phân tích, đánh giá thêm để hệ thống hóa thơng tin giúp
người đọc có cái nhìn tổng quan về những nhà văn, nhà thơ, những tác phẩm tiêu biểu
của nền văn học Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
III. Giới hạn đề tài
Trong phạm vi đề tài, bản thân chỉ trình bày những vấn đề khái quát về văn học
thế giới và Việt Nam ở thế kỷ XX để người đọc có cách nhìn tổng qt về q trình hình
thành những hiện tượng văn học của thế giới và văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI.
Mặc dù đã sưu tầm được những tác phẩm văn học trở thành những hiện tượng thu
hút đông đảo độc giả trên thế giới, chúng tơi sẽ tìm hiểu, nghiên cứu và giới thiệu trong
chuyên đề khác ở các năm học sau. Ở chuyên đề này, chúng tôi chỉ giới thiệu một số vấn
đề văn học của Việt Nam, tìm hiểu về một số tác giả, tác phẩm văn xuôi tiêu biểu, thu
hút được nhiều dư luận, có nhiều đánh giá khác nhau của người đọc và giới nghiên cứu,
phê bình văn học Việt Nam.
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

1


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

PHẦN NỘI DUNG
MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC VIỆT NAM Ở ĐẦU THẾ KỶ XXI
I. Vài nét đánh giá chung về văn học thế giới và văn học Việt Nam ở thế kỷ XX
Trong tiến trình văn học của thế giới và Việt Nam, nền văn học đã tồn tại và vận
động không ngừng, mỗi thời đại, mỗi thế kỷ đều có những thành tựu nổi bật để hình

thành diện mạo nền văn học của nhân loại và của mỗi dân tộc. Trên phạm vi thế giới
cũng như ở mỗi khu vực, mỗi vùng, mỗi dân tộc đều có từng giai đoạn, từng thời kỳ, thời
đại lịch sử với những hiện tượng văn học và trào lưu văn học khác nhau. Chẳng hạn ở
thời kì văn học Phục hưng có các trào lưu văn học như chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa tình
cảm, chủ nghĩa lãng mạn hay chủ nghĩa hiện thực với nhiều tác giả nổi tiếng và nhiều tác
phẩm có giá trị như Rơmêơ và Juliet của Sếchpia, Người hà tiện của Môlie, Lơ Xít của
Cornây, Những người khốn khổ của Víchto Huy gơ... Từ đó nền văn học thế giới có sự
phát triển vượt bậc so với thời kỳ “đêm trường Trung cổ” trước đây.
Qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn lịch sử nền văn học thế giới tiếp tục vận động
và phát triển với nhiều thành tựu, đặc biệt là trong thế kỷ XX. Các trào lưu văn học phát
triển nhanh chóng và dồn dập, kết hợp nhiều trào lưu phương pháp sáng tác với nhau.
Tuy nhiên có thể quy vào hai loại hình là : chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện đại. CN
hiện thực gồm có: CN hiện thực mới ( như C. Lê -vi với tác phẩm Chúa Cơ đốc dừng lại
ở Apoli, Kẻ cướp của Béc -tô ở Đức và Italia) , CN hiện thực cấu trúc (như Cuối tuần ở
Goatêmala của M.A. Ax-tu-ri-rax, Phòng xanh của M.V Lơ-sa ở Pê ru), CN hiện thực
tâm lí (như Thần tượng vụn nát của M.D Rơdrigét ở Vênêdla, Ơng già biển cả của
Hê-min-guê ở Mỹ) , CN hiện thực thần bí ở Đức, CN hiện thực kì ảo ở châu Mỹ la tinh
(như Đất trắng sắc đỏ của J.A-ma-dô ở Braxin, Chim dữ trong đêm của J. Dô-nô-sê ở
Chi lê), CN hiện thực xã hội chủ nghĩa (như Người mẹ của M. Gor-ki và Chiến tranh và
hồ bình của L.Tơn-xtơi ở Nga...). CN hiện đại gồm có: CN tượng trưng (như Tương
giao của Ch. Bô-đơ-le; Nhà người chăn cừu của A.Vi-nhi), CN biểu hiện (như nhà thơ
Thra-kôn ở Áo, J. Bê-sơ ở Đức, E.Rai-xơ ở Mỹ... , CN vị lai, CN đa đa, CN siêu thực và
CN trừu tượng xuất hiện ở các nước châu Âu, CN hiện sinh (như Dịch hạch của Ca-muy
ở Pháp). Với sự xuất hiện đa dạng phong phú của các trào lưu văn học, văn học thế kỉ
XX đã có nhiều thành tựu nổi bật, mặc dù vẫn còn những mặt tồn tại của nó. Tuy nhiên
văn học đã phản ánh hiện thực cuộc sống và con người một cách toàn diện và sâu sắc
hơn, đa dạng và phong phú hơn trong sáng tạo nghệ thuật.
Ở Việt Nam, ở thế kỷ XX nền văn học phát triển theo hướng hiện đại hoá đã thoát
khỏi nhiều khuôn mẫu của văn học trung đại với những trào lưu văn học xuất hiện những
năm 30-45 như: trào lưu lãng mạn ( tiêu biểu như: Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,

Huy Cận, Nguyễn Bính...), trào lưu hiện thực phê phán ( tiêu biểu như: Nam Cao,
Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng...), trào lưu cách mạng ( tiêu biểu như : Hồ Chí Minh,
Tố Hữu...), trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa ( tiêu biểu như : Quang Dũng, Nguyễn
Tuân, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Đình Thi...)
Sau năm 1985, văn học Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều nhà
văn tiêu biểu có những đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật như Nguyễn Minh Châu với
tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Phiên chợ Giát; Lê Lựu với tác phẩm
Thời xa vắng; Nguyễn Huy Thiệp với tác phẩm Tướng về hưu; Bảo Ninh với tác phẩm
Nỗi buồn chiến tranh và nhà văn nữ tiêu biểu Phạm Thị Hồi...đã góp phần tạo ra diện
mạo mới cho nền văn học nước nhà.
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

2


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

II. Vài nét đánh giá chung về văn học thế giới và văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ
XXI
Bước sang thiên niên kỷ mới, cùng với văn học nước ngồi tiếp tục có những
thành tựu mới với những tác phẩm thu hút sự quan tâm của người đọc rất lớn. Người đọc
trên thế giới đã háo hức chờ đợi, xếp hàng để đón nhận những tác phẩm văn học mới ra
đời như: Tác phẩm Mật mã Da Vinci của Dan Brown (người Mỹ), tác phẩm Harry
Potter của J. K. Rowling ( người Anh); Totem sói của Khương Nhung (người Trung
Quốc); Tác phẩm Flying Fingers (Những ngón tay bay) của Adora Svitak (Trâu Kỳ Kỳ ,
người Mỹ gốc Hoa) là cuốn sách về những sáng tác văn chương của một cô bé bảy tuổi
đã làm nên một hiện tượng trên văn đàn Mỹ...Những tác phẩm này đã tạo nên những cơn
sốt sách trên toàn thế giới hoặc đã tạo nên dư luận, thu hút giới nghiên cứu, phê bình văn
học trên thế giới. Ngồi ra cịn có những tác phẩm đạt giải Nobel văn học từ năm 2000
đến nay như: Tiểu thuyết Linh Sơn của Cao Hành Kiện người Trung Quốc (năm 2000);

tác phẩm The Enigma of Arrival của V.S. Naipaul người Trinidad (năm 2001); Tiểu
thuyết Sosrtalanság (Không số phận) của Imre Kertész người Hungary (năm 2002); tác
phẩm Disgrace của John Maxwell Coetzee người Nam Phi (năm 2003); tiểu thuyết Giáo
viên đàn piano của Elfriede Jelinek người Áo (năm 2004); những tác phẩm của Harold
Pinter người Anh (năm 2005); những tác phẩm Istanbul, My Name Is Red, Snow của
Orhan Pamuk người Thổ Nhĩ Kỳ (năm 2006); tác phẩm The Clefts, ...của Doris Lessing
người Anh (năm 2007); tác phẩm Révolutions ( Cách mạng ), L’Africain ( Người châu
Phi )… của Le Clézio người Pháp (năm 2008).
Cùng với nền văn học thế giới, văn học Việt Nam đang có sự chuyển mình cùng
với q trình đổi mới của đất nước. Ở Việt Nam, những năm đầu thế kỷ XXI, nền văn
học nước ta chưa có những thành tựu như ở thế kỷ XX. Trong xu thế chung của thời đại,
xu thế đổi mới của đất nước, văn học Việt Nam cũng có những hiện tượng thu hút với
cơng chúng, có những tác phẩm lơi cuốn độc giả và có nhiều ý kiến tranh luận của các
nhà nghiên cứu phê bình...Những tác phẩm thể hiện phương pháp sáng tác của chủ nghĩa
tượng trưng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo, chủ nghĩa hiện sinh kết hợp
trong mỗi tác phẩm tạo nên dư luận với những ý kiến đánh giá khác nhau. Như những tác
phẩm Cái trống thiếc, Phế đơ, Nơn nóng, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi
giận, Rừng xanh lá đỏ và Hồ Quý Ly,…toàn những tiểu thuyết dày vài trăm trang nhưng
được nhiều người đang tìm đọc và đọc lại; những: Tự sự 265 ngày, Cõi người rung
chuông tận thế của Hồ Anh Thái, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Nằm nghiêng của
Phan Huyền Thư, Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, mặc dù cho đến bây giờ, ý
kiến về nhà văn này vẫn rất khác nhau. Tập truyện ngắn mới của Nguyễn Thị Thu Huệ
Nào, ta cùng lãng quên, vừa mới ra, cũng được hào hứng đón đọc. Có những cây viết trẻ,
vừa mới xuất hiện tác phẩm đầu tay, như Nguyễn Ngọc Thuần với Vừa nhắm mắt vừa
mở cửa sổ, Một thiên nằm mộng, Nguyễn Ngọc Tư với những truyện ngắn xinh xẻo tiêu
biểu là truyện ngắn Cánh đồng bất tận và Phương Trinh với Mây bay ngang rồi mây bay
qua, Quả táo, là những truyện ngắn khá tinh tế, hứa hẹn mới lạ… cũng đã được người
đọc chú ý ngay.
Có một xu hướng văn học, chủ nghĩa hiện thực kì ảo gần như đã kết thúc trọn
vẹn vai trị lịch sử của nó. Manh nha từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, phát triển mạnh

ở thập niên 90 rồi thoái trào ở những năm đầu thế kỷ XXI trong nền văn học thế giới.
Nói như thế không phải là sự biến mất hẳn của yếu tố kỳ ảo trong văn học. Ở nước ta yếu
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

3


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

tố kỳ ảo vẫn được nhiều nhà văn trẻ thể hiện trong Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh,
Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, Bóng đè của Đỗ Hồng Diệu ; như
Giấc ngủ nơi trần thế của Nguyễn Thị Ấm tố cáo sự lạnh lùng vô cảm của con người,
Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo, Cứu tinh của Hồ Anh Thái nói về sự tàn nhẫn vơ lương,
Thợ may của Phạm Hải Vân lại bàn về lòng tham cố hữu của con người… Cái ác qua yếu
tố kỳ ảo được thể hiện dưới nhiều hình thức hết sức đa dạng. Có khi nó là sự thể hiện
mặc cảm phụ bạc và con người tâm linh sám hối như trong Hoa đại trắng của Đức Ban.
Cũng có khi đó là thói nghiện ngập, đam mê thái quá đến mức bệnh hoạn như trong Điếu
cày của Phạm Hải Vân. Như vậy, bằng việc hữu hình hóa cái ác qua yếu tố kỳ ảo, các
cây bút viết truyện ngắn sau 1975 đã thể hiện nỗi lo âu khắc khoải về sự suy mòn của
nhân tính, của đạo lý truyền thống. Giữa lúc giá trị đạo đức bị tấn cơng từ nhiều phía, ở
hiền chưa chắc đã gặp lành, con người tìm đến yếu tố kỳ ảo để tìm đến một giải pháp
thăng bằng tâm linh giữa xã hội đầy biến động. Bên cạnh đó, nhu cầu đào sâu tìm hiểu
con người cá nhân, con người bản thể đang trở thành tâm điểm chú ý của nền văn học. Vì
thế, dễ nhận thấy, văn học đương đại đang quan tâm nhiều đến sự giải phóng cái tơi cá
nhân, con người cá nhân tự do và hiện sinh. Chủ đề giới tính xuất hiện ngày càng nhiều
trong văn học với rất nhiều tên tuổi như Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc
Thuần, Nguyễn Ngọc Tư… Đây thực sự là vấn đề lớn cần nhiều thời gian xem xét và có
sức vẫy gọi rất lớn với những ai tâm huyết muốn tìm hiểu.
Thơ Việt những năm đầu thế kỷ XXI đang có dấu hiệu của sự chuyển động và
đang tạo ra được diện mạo mới. Nổi lên như một hiện tượng, nhà thơ Vi Thùy Linh có

những cách tân thể hiện được nhiều người chú ý và một số nhà thơ trẻ khác như:
Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ngô Tự Lập, Lê Thu Thủy, Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải,
Nguyễn Quyến, Nguyễn Vĩnh Tiến, Ly Hoàng Ly, Dạ Thảo Phương, Nguyễn Danh
Lam... đã tạo được cho mình tiếng nói riêng ở trên thi đàn.
III. Những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI
III.1. Về thơ : Hiện tượng Vi Thuỳ Linh
Tiêu biểu trong các nhà thơ trẻ xuất hiện ở những
năm đầu thế kỷ XXI là nhà thơ Vi Thuỳ Linh, sinh ngày
4/4/1980 tại Hà Nội, tốt nghiệp Đại học Báo chí. Từ năm
1998, Vi Thùy Linh trở thành "Hiện tượng Vi Thùy Linh"
trong thơ trẻ Việt Nam. Tập thơ Đồng Tử của Vi Thùy Linh
vào chung kết Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2006.
Trong đó có nhiều tác phẩm được bạn đọc và giới nghiên
cứu quan tâm và được đánh giá cao. Với những tác phẩm
như: Khát ( NXB Hội nhà văn, 1999 ) , Linh ( NXB Thanh
niên, 2000 ), Đồng Tử ( NXB Văn Nghệ, 2005 ). Ngồi ra
Vi Thuỳ Linh có thơ in trong các tuyển tập như: Thơ trẻ chọn lọc 1994 - 1998 ( NXB
Văn hóa - Thơng tin, 1998 ), Thơ sáng tác trẻ ( NXB Hội Nhà Văn, 2000 ) , Tuyển
tập thơ Việt Nam 1975 – 2000 (tập 1, NXB Hội Nhà Văn, 2000)………………………
Thơ của Vi Thuỳ Linh được đánh giá cao, trở thành hiện tượng có giọng điệu
riêng, phong cách riêng, có phong cách thơ mới như nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận
xét:
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

4


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

“Khi bàn về thơ Vi Thuỳ Linh, có người đã gọi chị là nhà thơ đổi mới. Tơi khơng

nghĩ thế. Bởi nói đến những nhà thơ đổi mới, thì chí ít, họ cũng phải có những cái cũ để
mà đổi thành mới. Nhiều thi sĩ thành danh, đã dũng cảm đập vỡ mình ra, rồi nhào nặn lại
thành một gương mặt khác, với một vẻ đẹp hoàn toàn khác. Vi Thuỳ Linh đâu phải thế.
Chị sinh ra đã có gương mặt riêng, tiếng nói riêng. Chị khơng có nợ nần gì với q khứ,
cũng ít tiếp nhận những giá trị của quá khứ. Và trong tâm khảm, tơi tin Vi Thuỳ Linh
cũng chẳng có ý thức quyết làm người tiên phong đổi mới thơ ca. Đối với chị, hình như
đó là một việc rất xa lạ. Chị chỉ sống đúng như những gì mình có. Nghĩ theo cách nghĩ
của riêng mình. Rồi cất lên tiếng nói cũng của chính mình. Tất cả đều hồn nhiên và giản
dị.”
Hay nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nhận xét:
“Vi Thùy Linh là một hiện tượng của thơ Việt Nam hiện đại. Đó là hiện chín sớm
trong thơ và cả trong đời. Cơ gái mới 20 tuổi đã có những khát khao dữ dội về chức năng
làm mẹ và nghĩ một cách thâm trầm, sâu sắc đến không ngờ về thiên chức người mẹ
trong thế giới. Bằng cú pháp thơ già dặn, cách nói thơ đơn giản và trực diện. Những bài
thơ của Vi Thùy Linh như hồ nước chứa những con sóng ngầm từ bên dưới.”
Nhà thơ Thanh Thảo đã viết: ……………………………………………………
“Vi Thùy Linh là một cơn lốc. …………..………………………………
Lốc ý tưởng, lốc chữ (chứa chất nổ), lốc tình cảm (đơi khi là khối cảm).
Cơn lốc khơng kiềm chế đó đương nhiên gây sốc, khiến nhiều người ngộ nhận những cố
gắng đổi mới trong thơ cô và lầm lẫn cho sự bất chấp những ước lệ và kiêng kỵ là phạm
húy. Với tơi, Vi Thùy Linh là một biểu tượng giải phóng phụ nữ trong thơ !”
Nhà thơ Dương Tường đã viết trong bài “ Hiện tượng Vi Thuỳ Linh”: “…Ngày
lên ngôi vị thơ của Vi Thùy Linh chưa có trong sự thật. Mong rằng ngày ấy sẽ đến.
Nhưng nó sẽ đến dần dần. ………………………………………………………………
Vi Thùy Linh đang thẫn thờ sắp xếp lại mình. Đừng thẫn thờ nữa mà phải nhanh
nhẹn sắp xếp lại mình. Cuộc đời cịn ở phía trước. Ở tuổi 20 thì những nổi nênh chỉ là trị
cười dưới mắt những người từng trải. ……………………………………………………
Vi Thùy Linh là một hiện tượng trong thơ Việt Nam. Cũng là một tiếng thơ lạ. Vi
Thùy Linh mới chỉ bắt đầu đi những bước đầu tiên trên con đường thơ truân chuyên gian
khó của mình. Phía trước là bầu trời... ở đấy có vinh quang, có hiểm họa. Hãy tin ngày

mai trong sự ngây ngất. Cũng chẳng cần thông minh hơn nhiều, so với tuổi. Cũng chẳng
cần già hơn nhiều, so với tuổi. Dư luận cũng nên rộng lòng dù giả tạo, cá sấu cịn biết
khóc. Cịn hơn những kẻ vơ tâm. Những nhà thơ trẻ rất cần sự nâng đỡ về tinh thần, tình
cảm, cần sự chỉ dẫn của những người đi trước. …………………………………………..
Bài viết này như một cử chỉ cho thấy không phải dư luận lãng quên Vi Thùy
Linh. Tôi chẳng thể hiến tặng gì ngồi ánh hào quang tăm tối ấy...”
Những đóng góp của Vi Thuỳ Linh đã tạo nên sức sống mới, ban đầu đã tạo nên
phong cách mới góp phần xua tan khơng khí “trầm lắng” trong làng thơ Việt Nam.
III.2. Về văn xuôi
Trong các hiện tượng của văn học Việt Nam ở những năm gần đây, có một số tác
phẩm nổi bật thu hút nhiều sự chú ý của dư luận độc giả; đó là Nhật kí Đặng Thuỳ
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

5


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

Trâm của Liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm và Mãi mãi tuổi hai mươi , nhật kí của Liệt sĩ
Nguyễn Văn Thạc. Đó là những tập nhật ký của những người lính trẻ trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước thể hiện những tình cảm trong sáng, cao đẹp đối với gia đình,
người thân, quê hương đất nước, những khát vọng hồ bình, lí tưởng lớn lao nhưng rất
bình dị và nhân văn. Ngồi ra cịn có tác phẩm Bóng đè của Đỗ Hồng Diệu, Cánh đồng
bật tận của Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện thân phận và khát vọng của những người phụ
nữ. Trong đó, Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm tuy là nhật ký viết trong chiến tranh nhưng
được xem là một hiện tượng văn học ở đầu thế kỷ XXI, được nhiều nước trên thế giới
quan tâm và xuất bản.
2.1. Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm
2.1.1. Tiểu sử
Đặng Thuỳ Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 trong một gia đình trí thức Hà

Nội. Bố là người Huế, bác sĩ ngoại khoa; mẹ là dược sĩ, giảng viên trường Đại học Dược
Hà Nội.
Tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Thùy Trâm tham gia Quân
đội Nhân dân Việt Nam với tư cách là một bác sĩ quân y và được điều vào công tác ở
Đức Phổ, chiến trường Quảng Ngãi trong chiến tranh Việt Nam. Chị vào Đảng Cộng Sản
Việt Nam ngày 27 tháng 9 năm 1968.
Ngày 22 tháng 6 năm 1970, trên đường công tác từ Ba Tơ về đồng bằng chị bị
quân đội Hoa Kỳ phục kích và hy sinh. Hài cốt chị được mai táng tại nơi hy sinh, sau
thống nhất được đưa về nghĩa trang liệt sĩ xã Phổ Cường. Năm 1990, được gia đình đưa
về nghĩa trang Liệt sĩ Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội.
2.1.2. Tác phẩm
Hai tập nhật ký được viết từ ngày 8 tháng 4 năm 1968, khi tác giả phụ trách bệnh
xá Đức Phổ, Quảng Ngãi cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1970, hai ngày trước khi hy sinh.
Nội dung quyển sách là những suy nghĩ,
cảm xúc của tác giả về gia đình, xã hội và cuộc
chiến, khi trực diện với sự sống, cái chết đang
diễn ra.
Hai tập nhật ký do Frederic Whitehurst,
cựu sĩ quan quân báo Hoa Kỳ, lưu giữ cho đến
ngày được trả lại cho gia đình tác giả vào cuối Người lính Mỹ Liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm
tháng 4, 2005. Ơng này đã giữ lại quyển nhật ký
mà không đốt đi, vì theo lời của thơng dịch viên, thượng sĩ qn đội Việt Nam Cộng Hòa
Nguyễn Trung Hiếu, trong cùng đơn vị: "Fred, đừng đốt cuốn sổ này, bản thân trong nó
đã có lửa."
Quyển sách được Nhà xuất bản Hội Nhà văn cho ra mắt nhân dịp kỉ niệm ngày
Thương binh liệt sĩ (27-7) năm 2005 của Việt Nam. Đến tháng 3 năm 2006, sách này đã
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

6



Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

bán được hơn 400.000 bản - được xem là một hiện tượng văn học. Hiện tại cuốn Nhật ký
được lưu giữ tại Viện lưu trữ về Việt Nam ở Lubbock, Texas, Hoa Kỳ.
Tính đến thời điểm này, đã có 15 nước thỏa thuận mua bản quyền Nhật ký Đặng
Thùy Trâm. Random House bán bản quyền cho 12 nước: Mỹ, Đan Mạch, Hà Lan, Na
Uy, Hàn Quốc, Brazil, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hi Lạp, Đức, Ý, Trung Quốc, Anh.
Gia đình Đặng Thùy Trâm đã bán bản quyền cho Nhật và Thái Lan.
Nhật ký Đặng Thùy Trâm được dịch tiếng Anh và có tựa đề Đêm qua tơi mơ
thấy hịa bình (Last night I dreamed of peace).

Gia đình anh hùng, liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm tiết lộ số bản in sách bìa cứng
(chưa phải là con số cuối cùng) của Đêm qua tôi mơ thấy hịa bình (Last night I
dreamed of peace) tại Mỹ là 33.000 bản, chưa kể sách điện tử và sách bìa mềm. Loại
sách bìa mềm sẽ được xuất bản sau khi đợt phát hành sách bìa cứng chấm dứt. Tại Nhật
Bản, Nhật ký Đặng Thùy Trâm sẽ được in với số lượng 20.000 bản. Tại những nước còn
lại, số bản in được thỏa thuận khoảng vài ngàn. Năm 2009, Nhật ký Đặng Thùy Trâm đã
được đạo diễn Đặng Nhật Minh chuyển thể thành phim truyện Đừng đốt và sẽ ra mắt
công chúng trong thời gian tới.
2.1.3 . Đánh giá
1. Tôi là Frederic Whitehurst. Tơi đã giữ kí ức về chị cô, bác sĩ Đặng Thùy Trâm ba
lăm năm nay. Tôi đã giữ cuốn nhật kí của chị ấy suốt ba lăm năm nay…Sau bao nhiêu
năm tìm kiêm, điều này giống như một giấc mơ và tìm ra gia đình cơ khiến tơi bật
khóc…Cuốn nhật kí mà người lính Mỹ đã quyết định giữ lại, không đốt đi, bởi theo lời
của một người lính ngụy-thơng dịch viên người Việt trong đơn vị anh ta – thì “ở trong đó
có lửa. Giờ đây, hãy để cho ngọn lửa trong nhật kí của Đặng Thùy Trâm cháy mãi…
2. So với lớp thanh niên ngày nay, người thanh niên của gần bốn chục năm trước có
một cách sống khác, một cách sống khơng lắm chiều cạnh phong phú, không tự do nhiều
vẻ, nhưng lại trong sáng thánh thiện đến kỳ lạ. Sự tận tụy làm người của Thuỳ Trâm là

nhân tố khiến cho những người lính Mỹ khác hẳn về lí tưởng cũng phải kính trọng…
Trong mn màu mn vẻ của thực tại, con người vẫn là mẫu số chung làm nên những
giá trị vĩnh cửu. Nhật kí Đặng Thùy Trâm có cái nhân tố nhân văn đầy bí mật đó. Nếu
cuốn sách có thể giúp mỗi người sau khi đọc xong quay trở lại tìm ra những thiết tha cao
đẹp và cả những cay đắng bi thảm có thể có trong kiếp người của chính mình, tức là sự
hy sinh của một con người ở tuổi 27 có thêm một ý nghĩa chân chính.(Vương Trí Nhàn)
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

7


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hồng Anh Tuấn

3. Báo chí của Mỹ:
* Báo chí Mỹ đã quan tâm đến việc phát hành cuốn sách này như thế nào?
-Chúng tôi chú trọng "lôi cuốn" sự chú ý của báo chí từ sớm. Nhà báo Seth Mydans của
tờ New York Times đã gọi những ký ức của Thùy là "những cảm xúc đầy kịch tính như
chính sự kịch tính của chiến tranh vậy". Tờ Kirkus Reviews viết: "Thúc bách và giản dị,
xuyên thẳng vào trái tim người đọc" và một tờ tạp chí dành cho người Mỹ gốc Á
Audrey đã viết: "Cuốn sách được sinh ra để trở thành một tác phẩm kinh điển".
* Tại sao Random House chọn Nhật ký Đặng Thùy Trâm để xuất bản?
- Chúng tôi bị tác động bởi sự giản dị trong văn phong của Thùy, sự tận hiến, lòng trắc
ẩn và lịng trung thành của chị. Chúng tơi cho rằng câu chuyện của chị vô cùng quan
trọng đối với người Mỹ và những người của quốc gia khác nữa, để họ thấy được phía bên
kia của cuộc chiến.
* Một cuốn sách từ nước ngồi cần có những tiêu chuẩn gì để được Random House
xuất bản?
- Chúng tơi tìm kiếm những câu chuyện hấp dẫn có tính tồn cầu, bất kể thứ ngơn ngữ
gốc của nó là gì. Việc chúng tôi đã bán bản quyền Đêm qua tôi mơ thấy hịa bình cho 12
quốc gia đã khẳng định được tính tồn cầu và vĩnh cửu - sự lơi cuốn của câu chuyện

Thùy Trâm.
4. Lời Thuỳ là một cây cầu bắc qua dịng sơng chất chứa bao sự vơ tình, bao cây
đắng, bao nỗi buồn, bao lòng tin lầm lạc đã chia cắt hai dân tộc chúng ta quá lâu…
(Robert Whitehurs - Cựu chiến binh Mỹ)
Có thể nói, Nhật ký Đặng Thùy Trâm là một tác phẩm có giá trị văn học và giá
trị lịch sử để giáo dục tư tưởng, đạo đức cho thế hệ tuổi trẻ hôm nay và mai sau. Bởi ở đó
rực cháy tấm lịng u nước, chan chứa tinh thần nhân văn với những khát vọng cao quý
của tuổi trẻ, lý tưởng sáng ngời nhưng chân thực, với những tâm sự buồn vui ...của con
người. Tác phẩm vừa soi sáng tâm hồn vừa sẻ chia những tình cảm thiết tha về gia đình,
quê hương, đất nước...đã tạo nên sự đồng cảm sâu sắc với người đọc.
2.2. Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư
2.2.1. Tác giả
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976; quê
quán huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Hội viên Hội nhà văn
Việt Nam. Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà Mau.
……...Nguyễn Ngọc Tư đã đạt được nhiều giải thưởng
như: Giải nhất cuộc thi "Văn học tuổi 20 lần thứ II" của
Nhà xuất bản Trẻ, Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh,
báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2000 với tập truyện "Ngọn đèn
không tắt. Giải thưởng Văn học của Hội nhà văn Việt
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

8


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

Nam năm 2001 với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt. Tập sách này đã được chọn in
lại trong "Tủ sách Vàng" của NXB Kim Đồng năm 2003. Giải thưởng văn học ASEAN,
năm 2008.

2.2.2. Tác phẩm và dư luận
Mượn một bối cảnh thực là những cánh đồng với sông nước mênh mông của miền
Tây Nam Bộ, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã thêu dệt nên một bức tranh đời sống quen
thuộc được lạ hoá qua Cánh đồng bất tận.
Một bi kịch của những khát vọng sống trong một xã hội
đang mở cửa và biến động. Bắt đầu từ một người phụ nữ nơng
thơn, có một gia đình mẫu mực, có chồng giỏi việc, con ngoan,
bản thân mình xinh đẹp, được chồng chiều chuộng hết mực,
ngày kia nghe theo tiếng gọi một cuộc sống khác hấp dẫn nơi thị
thành, đã bỏ gia đình ra đi.
Đau khổ vì hạnh phúc bị bất ngờ gãy đổ, không chỉ xé nát
một gia đình mà cịn xé nát cả tâm hồn, tình cảm, linh hồn một
người đàn ơng rắn rỏi, anh ta đã đốt cả ngơi nhà cùng tất cả
những gì liên quan đến người vợ bội bạc, đưa hai đứa con lên
một con thuyền nhỏ lênh đênh trên sông nước bằng nghề ni vịt
thả đồng.
Hồn cảnh thương đau dù khơng cịn đạn bom vẫn có nguy cơ làm người ta đánh
mất quê hương ngay trên quê hương, đẩy con người vào tình thế bị lưu đầy vĩnh viễn.
Trong hành trình vô định ấy, người đàn ông đã trả thù đời một cách độc ác khi khoái trá,
sau mỗi lần tàn nhẫn bỏ rơi những người phụ nữ đã yêu thương mình.
Hồn cảnh khắc nghiệt đe doạ sự lành lặn đời sống tinh thần tình cảm của hai đứa
trẻ. Nhưng nhờ trái tim từ mẫu, can đảm, biết khoan dung, tha thứ và cả sự tận hiến của
người phụ nữ buộc phải kiếm sống bằng nghề bản thân, được chúng tình cờ cứu sống,
mà tâm hồn trẻ thơ không bị khô héo, cằn cỗi.
Một hoàn cảnh sống trần trụi, khốc liệt của một gia đình nhỏ, bị tách khỏi đám
đơng, ngỡ đơn giản, tẻ nhạt mà tích tụ với mật độ đậm đặc các mối quan hệ tình cảm
biến hố khơn lường của kiếp người: Tình u đơi lứa, vợ chồng, cha con, chị em, hàng
xóm…, một bức tranh thu nhỏ với hàm lượng cao của đời sống gia đình hiện đại.
Khơng gian sơng nước miền Tây bao la, hào phóng và kỳ ảo. Khơng có dấu vết
nào của cuộc chiến tranh lớn vừa đi qua. Một số lượng nhân vật ít, sinh sống trên một

con thuyền nhỏ, lẻ loi. Hạn chế tối đa việc tiếp xúc với thế giới bên ngồi, nên lời thoại
cũng cực ngắn và cực ít.
Qua cấu trúc, hình ảnh, khắc hoạ tính cách nhân vật thật sự tài hoa, tác phẩm đã
mở ra một không gian thăm thẳm, đa tầng, đa nghĩa, đa sắc, và bao la hơn không gian vật
chất ấy là thế giới tinh thần, tình cảm của những con người thật hiện đại mà vẫn rất quen
thuộc, thật cá biệt mà vẫn thấy phổ biến đó đây, khơng chỉ ở một xứ sở cụ thể.
Cốt truyện bạo liệt, nhưng được kể một cách đầy xúc động thể hiện một chủ nghĩa
nhân văn cao cả, sâu sắc, đầy sức cảnh tỉnh.
Ngay từ khi ra đời ( năm 2005), Cánh đồng bất tận đã nhận được nhiều khen
ngợi từ các nhà phê bình cũng như đông đảo bạn đọc yêu văn học.
Trước khi Cánh đồng bất tận ra đời, Nguyễn Ngọc Tư đã in các tập Ngọn đèn
không tắt, Giao thừa, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Những truyện đầu trong tập Cánh
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang

9


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

đồng bất tận bao giờ cũng có chừng mực khi diễn tả về hạnh phúc và cả nỗi buồn đau,
bất hạnh của con người. Chị nhìn cuộc sống và những người xung quanh mình bằng một
tấm lòng khoan dung, độ lượng… Dường như chị cho rằng chẳng có ai là hạnh phúc trọn
vẹn và cũng chẳng có ai là đau khổ đến tận cùng và trong khá nhiều tác phẩm, dường
như chị cũng không đụng chạm nhiều đến sự tuyệt đối của cái tốt và cái xấu… Hãy vui
với những hạnh phúc nho nhỏ mà mình may mắn có được và cũng đừng tuyệt vọng…
Đến Cánh đồng bất tận, chị đã bất ngờ thay đổi trong giọng văn, trong cách nhìn,
trong sự suy ngẫm về cuộc đời. Vẫn những lời văn đặc sệt chất Nam Bộ, nhưng cái nhìn
về cuộc sống khơng cịn bình n, phẳng lặng như trước mà dữ dội, chua xót, cay đắng…
Chị khơng cịn dễ tính như trước nữa. Chị khơng chấp nhận cái tính “biện chứng” là phải
nói cả “tốt xấu với một tỷ lệ như thế nào đó” mà tỏ rõ thái độ quyết liệt của mình trước

hiện thực cuộc đời. Chỉ riêng việc dũng cảm nói lên suy nghĩ, (có thể chưa hồn tồn là
chân lý) nỗi cay đắng, xót xa của chị (nếu là người có kinh nghiệm sống hơn chắc sẽ dè
dặt khi nói về những nỗi bất hạnh trong xã hội ta) khi viết Cánh đồng bất tận cũng làm
cho những người ít quan tâm đến văn học quý mến chị. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng
tác phẩm miêu tả nhiều cái xấu xa, độc ác của con người, có ít người tốt như thế là tư
tưởng có vấn đề, đã nói quá hiện thực, thiếu tính giáo dục.
Trong tác phẩm, Nguyễn Ngọc Tư thể hiện về tình yêu, về sự dốt nát, về sự phản
trắc, về nỗi cô đơn, về thân phận con người… bằng nhận thức và cảm nhận sâu sắc của
mình. Nhưng vượt lên trên tất cả, ở Cánh đồng bất tận là tấm lòng bao dung đối với sự
lỡ lầm, là sự căm ghét cái ác, cái xấu và sự khao khát cho con trẻ và mọi người có được
một cuộc sống “tươi tỉnh” và “vui vẻ” mà Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện trên trang giấy.
Nguyễn Ngọc Tư đã tâm sự khi viết Cánh đồng bất tận để nói thêm về sự thực và
tưởng tượng trong tác phẩm này: “Tôi cũng bàng hồng, khi viết. Tơi thường tự hào về
trí tưởng tượng của mình nhưng thấy chóng mặt, ngộp thở với chi tiết có thật mà tơi nghe
được, giữa đời. Tôi thú nhận là đã sao chép cuộc sống, bởi tưởng tượng chỉ là trò bỏ đi.
Nhưng xin các bạn đừng ngạc nhiên, tôi chưa từng tưởng tượng chuyện con người lại tra
tấn bằng cách bắt lươn sống chui vào cửa mình người phụ nữ, đá thốc vào bụng người
đang mang thai... nhưng những ai đi qua chiến tranh không hề thấy lạ. Tôi cảm giác khi
cái ác lên ngôi trong phần con, phần người chết ngắc...” (Tuổi Trẻ 21/11/2005).
Nhà văn Nguyên Ngọc đã viết về Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm Cánh đồng bất
tận: “ …là một cây bút dũng cảm dám nói lên những sự thực tăm tối và đau lòng đang
còn tràn lan trên vùng đất đẹp và đáng yêu biết bao này. Họ phẫn nộ vì những kẻ “đánh”
một cây bút to gan dám nói lên tất cả sự thật. Tư buồn khơng phải vì những người đánh
cơ đến té tát. Cơ buồn vì những người u cơ mà chẳng phải vì những điều cơ đau đáu
muốn nói về cuộc đời. Nguyễn Ngọc Tư nào có muốn nói về một Cà Mau, một miền đất.
Chẳng qua cô gửi vào cái khung cảnh ấy, trên đất đai ấy, mà cô quen cô thuộc hơn bất cứ
nơi nào trên thế gian này, một kiếp người, những kiếp người, hạnh phúc nhọc nhằn và
đau khổ muôn đời của con người, cái chất thiên thần và quỷ sứ trộn lẫn bất trị, khơng gì
khơng bao giờ chữa nổi trong con người. Và cô làm ra cái sản phẩm đã đưa văn học ta ra
khỏi tình thế cám cảnh tỉnh lẻ của cái thời kéo dài “văn học phục vụ”, “văn học đi thực

tế”, “văn học bám sát đời sống thực tế”, văn học “mũi nhọn mũi tà”… Nó đưa văn học
trở lại là văn học, thế thơi, chẳng của gì hết. Và vì vậy, nó khiến văn học ta, cả chúng ta
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang 10


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hồng Anh Tuấn

nói chung nữa, cũng “tồn cầu hố” như ai. Nó tạo khơng gian mới cho chúng ta hít thở
kiểu mới cùng thiên hạ…”
Tác phẩm Cánh đồng bất tận không phải là tác phẩm hay nhất trong văn học
Việt Nam thời kỳ đổi mới nhưng đây là một trong số không nhiều những tác phẩm làm
nhiều người rơi nước mắt, có bao nhiêu là hình ảnh và tâm trạng xót xa về lịng thù hận,
bao nhiêu tâm trạng về nỗi cay cực, cảm thông cho thân phận bất hạnh của con người
như nhiêu tác phẩm lớn ở Việt Nam và trên thế giới xưa nay đã đánh động lương tri của
con người khi viết về cái xấu để phê phán. Từ đó đồng cảm xót xa với nỗi đau khổ của
người phụ nữ nói riêng và con người nói chung, đồng thời mong muốn cuộc đời là những
cánh đồng bất tận về tình yêu thương của con người với con người, là những cánh đồng
bất tận được mùa hạnh phúc.
Năm 2003, Cánh đồng bất tận được báo Văn nghệ - tờ báo uy tín nhất của giới
văn học Việt Nam, bình chọn là một trong những truyện vừa hay nhất của năm. Cái tên
Cánh đồng bất tận theo như tác giả viết: Cánh đồng khơng có tên, nhưng với tơi và Điền
chẳng có nơi nào vơ danh. Chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà
chúng tơi có trên mỗi cánh đồng (trích một đoạn trong tác phẩm). Cũng theo các nhà phê
bình đây là một trong số không nhiều truyện ngắn hay trong nhưng năm gần đây, nó đã
góp phần ghi dấu ấn cho nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư như một cây bút tài năng với niềm
trăn trở về vùng đất Nam Bộ quê chị.
Ngày 13/10/2006, Hội nghị Ban Chấp Hành Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 6
khóa VII họp tại Hà Nội đã quyết định trao tặng giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm
2006 cho truyện vừa Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư . Năm 2009, truyện ngắn
Cánh đồng bất tận được chuyển thể thành vở kịch nói Cánh đồng bất tận (kịch bản,

đạo diễn: Minh Nguyệt) đang gây cơn sốt tại sân khấu 5B (Thành phố Hồ Chí Minh) và
tác phẩm đang được chuyển thể thành phim Sơng nước .
3.2. Bóng đè của Đỗ Hồng Diệu
3.2.1. Tác giả
Đỗ Hoàng Diệu, sinh năm 1976 ở Hà Nội,
từng đoạt giải thưởng “Tác phẩm tuổi xanh” lần thứ
1 năm 1991 với tác phẩm Ơng già hàng xóm. Tuy
nhiên, sau mười mấy năm “im hơi lặng tiếng”, sống
cuộc sống đời thường. Năm 2005, Đỗ Hoàng Diệu đã
ra mắt tập truyện ngắn Bóng đè (NXB Đà Nẵng) gây
xơn xao dư luận . Hiện nay Đỗ Hoàng Diệu là tư vấn
luật cho một cơng ty nước ngồi và đang sống tại Mỹ
với chồng và con. Năm 2009, Đỗ Hoàng Diệu được
mời đi Nhật Bản diễn thuyết về văn chương do tổ
chức Japan Foundation - Chương trình diễn thuyết
của các nhà văn châu Á do nhà văn quá cố Takeshi
Kaiko khởi xướng (JF) tài trợ.
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang 11


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hồng Anh Tuấn

3.2.2 Tác phẩm và dư luận
Bóng đè viết về nhân vật Tôi về làm giỗ ở gia đình
chồng. 17 cái giỗ của gia đình chồng trong năm là 17 lần cơ
con dâu dịng dõi đế vương Trung Hoa sống với điều bí mật
riêng tư và ám ảnh vì những chiếc bóng từ bàn thờ hiện về
làm chuyện ân ái. Từ chỗ miễn cưỡng, hoảng sợ, nổi loạn cho
đến chấp nhận chờ đợi, thoả mãn thách thức những bí mật ấy.
“Tơi băn khoăn thắc mắc vì sao Thụ (chồng cơ) lại đổi giọng

mỗi khi có sự hiện diện của cái bàn thờ?”. Người chồng thờ ơ
và làm ra vẻ gia giáo. Người mẹ chồng rình rập cứ như cũng
đã từng mang nỗi ám ảnh riêng tư kia và bà cô em chồng tên
Thắm chẳng biết vô tư hay đồng lỗ với thế lực bóng tối …
…………………………………....
Những chiếc bóng bay về tìm thú vui và giành giật lạc
thú với người cõi trần, người hậu duệ, chung huyết thống. Lần đầu tiên, bàn thờ được
“truất” xuống sống với cõi người ái ố, để cùng con người nghi vấn trước bao nhiêu phi lý

đời
sống
này
khơng
trả
lời
hết!
…………………………………………………………………………………..
Khơng khí ma qi trộn lẫn sự toả hơi của nhục cảm có sức ám ảnh và hấp dẫn
người đọc từ đầu đến cuối truyện ngắn Bóng đè: “Vú tôi là đời sống, là hơi thở, là khí
quyển. Mồ mả là q khứ!... Tơi múa điệu múa da thịt tươi tốt thách thức thần linh, thách
thức âm hồn dịng dõi Trung Hoa nhà Thụ”, hình ảnh người phụ nữ rướn tấm thân "cong
như hình chữ S, một chữ S cố phản kháng"... khiến người đọc như lướt trên những xác
chữ nhấp nhổm nhục cảm”.
Truyện ngắn Bóng đè đã gây hai luồng trái ngược nhau. Đây là một truyện ngắn
hay, hay cả ở cách viết và nội dung. Trong tâm thế, tâm thức giải mã lịch sử và truyền
thống Việt, một xu hướng đã được dấy lên từ thời văn học đổi mới, Đỗ Hoàng Diệu đã
tạo được một hình tượng “bóng đè” đầy ám ảnh và dằn vặt cũng như trong truyện ngắn
Vu quy. Mặt khác cho rằng: đây là tác phẩm tầm thường, đáng phê phán về cách viết
cũng như về thái độ, tư tưởng.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khuyến khích cách viết của Đỗ Hồng Diệu, nhà

văn Nguyên Ngọc, Châu Diên, Phạm Xuân Nguyên và một số người khác nồng nhiệt
khen ngợi Bóng đè. Nhà văn Nguyên Ngọc nói, với trong vài năm trở lại đây ơng có tâm
trạng bi quan về văn chương Việt Nam. Nhưng với Bóng đè, ơng nhận ra mình đã lầm.
Ông cho rằng, cũng như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh trước đây, Đỗ Hoàng Diệu là một
bất ngờ và sự ra đời một cuốn sách như Bóng đè đánh dấu mốc khởi đầu của một thời kỳ
mới. Nhà văn Nguyên Ngọc đã đánh giá cao tác phẩm Bóng đè của Đỗ Hồng Diệu:
“ Thường có một câu hỏi: Nhà văn viết bằng trực cảm hay bằng ý thức hoàn toàn
tỉnh táo? Tơi nghĩ có lẽ bằng cả hai. Và cũng có lẽ một trong những dấu hiệu đáng tin
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang 12


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

cậy để nhận ra một tài năng văn học là đọc họ ta cảm thấy cứ như bằng trực cảm, bằng
một thứ ăngten riêng, dường như họ nhận ra được và truyền đến cho chúng ta những
nghiền ngẫm sâu thẳm về con người, xã hội, về đất nước, thậm chí về số phận dân tộc,
mà chính bằng luận lý họ lại cũng khơng nói ra cho rõ được.
Tơi cho rằng ta có thể chờ đợi ở Đỗ Hoàng Diệu một tài năng như vậy qua một số
truyện ngắn cịn khá ít ỏi của chị ta đã được đọc.
Trong những truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu toàn là những nhân vật phụ nữ, tất
cả đều còn trẻ, khát khao sống, mãnh liệt sống, tràn đầy dục tính, song chắc chắn vấn đề
của chị lớn hơn rất nhiều vấn đề số phận đàn bà.
Những phụ nữ của Đỗ Hoàng Diệu là những người phụ nữ bị đeo đuổi vì “một thứ
tội tổ tơng”, những phụ nữ “q thơng minh nhưng q cả tin”, có “tấm thân cong lên
hình chữ S, một chữ S cố phản kháng”, song lại ln nghĩ mình “là nơ lệ... cả từ nghìn
năm nay... từ khi chưa sinh ra đời”...
Có lần tơi đã thử nói về một dịng “văn học tự vấn” khơi mào từ Nguyễn Huy
Thiệp, tự vấn cần thiết và lành mạnh (vì biết tự vấn bao giờ cũng là một dấu hiệu của sự
lành mạnh về tinh thần) của dân tộc. Có phải Đỗ Hồng Diệu đang tiếp tục con đường
đáng q đó, có phần càng da diết hơn, vì lại thấm đẫm nữ tính, tỉnh táo nhiều khi đến tàn

nhẫn mà vẫn thật mê hoặc...”
Và nhà văn Phạm Xuân Nguyên cho rằng:
“Để chuyển tải được một thơng điệp có nhiều lớp nghĩa như vậy, Bóng đè đã
được xây dựng như một ẩn dụ sâu sắc trong một câu chuyện nhiều nhục cảm. Chính lối
viết này là một sự táo bạo của tác giả, và nó là thích hợp cho sự thể hiện chủ đề tác
phẩm. Tình dục (hay sex) ở đây đã trở thành một yếu tố nghệ thuật cần thiết. Bởi sự mô
tả gần như tỉ mỉ, chi tiết cảm giác nhục thể của nhân vật truyện là đồng thời mang ý
nghĩa thực và hư, cụ thể và tượng trưng. Vu quy cũng vậy, sự chung đụng của cô gái
trong truyện với mấy người tình là mang nghĩa tượng trưng, cơ chưa biết tương lai đời
mình sẽ gắn bó với ai, chẳng lẽ là với xác ướp. Thân phận cô gái là thân phận đất nước,
vu quy vẫn chỉ là ước vọng.
Truyện ngắn Bóng đè hay là vì vậy, theo cách đọc văn bản nghệ thuật của tơi. Có
những người khác thấy nó là phản chính trị, phản đạo đức, thì đấy là tùy cách đọc của
họ. (Dịp này đang kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du, tôi liên tưởng đến những
nhà nho thủ cựu một thời coi Truyện Kiều là “dâm thư” nên đã khuyên răn: “Đàn ông
chớ đọc Phan Trần, đàn bà chớ đọc Thúy Vân Thúy Kiều”. Ơi chao, từ Truyện Kiều đến
“Bóng đè” đã cách hai thế kỷ rồi!). Nhưng vậy là ở đây có sự khác nhau về quan niệm,
về cách đọc. Tuy nhiên, khác nhau thế nào thì cũng phải trên cơ sở văn bản in ra. Do đó,
điều kiện đủ cho tác phẩm hay là phải bắt đầu từ quan niệm hay như một quá trình động,
biện chứng. Và như thế thì khơng thể tiên quyết đứng trên một quan niệm hay cố định,
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang 13


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

tĩnh tại để quyết định cái viết nào là được in ra, còn cái viết nào là cấm in, cấm phát
hành. Cuốn truyện Bóng đè được ra tại nhà xuất bản Đà Nẵng, và hiện giờ nơi đó đang
bị sức ép từ phía những ý kiến phê phán nặng nề cuốn sách. Còn những ý kiến đánh giá
cao tác phẩm thì khơng được coi trọng từ phía quản lý xuất bản. Thế thì sao nào? Thế thì
văn học Việt Nam khó có tác phẩm hay, nhất là những tác phẩm hay vượt ra ngồi thói

quen, khn khổ thơng thường.”
Mặt khác, có nhiều ý kiến cho rằng truyện ngắn Bóng đè của Đỗ Hồng Diệu là
sex, là đồi trụy, là hạ bệ quá khứ, là “những chuyện tình dâm ơ”,“qn đi cội nguồn văn
hóa để viết ra những câu chữ mang nội dung thô tục”, “phản giáo dục và vô trách nhiệm,
làm bẩn tâm hồn người đọc”, “làm nhục văn chương và văn hóa Việt” … được đăng tải
trên các phương tiện báo chí và mạng internet. Có ý kiến vừa khen vừa chê như nhà thơ,
nhà văn Đơng La: “…ĐHD thuộc loại thứ hai, cơ có nhiều tố chất văn chương, khi viết,
hiện thực với cô chỉ là cái cớ, thậm chí cơ cịn bịa ra cả hiện thực để mã hóa, cài đặt ý
tưởng của mình. Cơ dẫn chuyện khá nhuần nhuyễn, khéo che đậy, khiến đa phần độc giả
lầm, đến nỗi cô phải thanh minh: “Tôi đã và sẽ luôn khẳng định rằng tôi chưa bao giờ
viết về tính dục cả. Tơi chỉ mượn tính dục làm cái vỏ để chuyển tải những thơng điệp
khác của mình”… Cịn ĐHD, chắc chắn cơ có tài văn rồi, rất tài nữa là đằng khác, nhưng
khi 50 tuổi, trải đời hơn, học nhiều hơn, hiểu nhiều hơn, bớt nông nổi, cô sẽ viết khác và
thuyết phục hơn. Bởi kiểu truyện của cô là kiểu dành cho những người có trí tuệ”.
Chúng tơi cho rằng, khi tiếp nhận một tác phẩm văn học nói chung và Bóng đè
của Đỗ Hồng Diệu nói riêng, người đọc đứng trên lập trường cái Đẹp, tinh thần nhân
văn để đánh giá tư tưởng nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Cũng như khi chúng
ta đánh giá Truyện Kiều của Nguyễn Du, những bài thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, có
nhiều điểm nhìn khác nhau nhưng đều tập trung về giá trị của con người, của dân tộc để
cảm nhận, đánh giá đúng đắn chiều sâu, đánh giá toàn diện tác phẩm để văn học Việt
Nam có nhiều thành tựu trong thế kỷ XXI.
Tóm lại, những nhà văn trẻ đang dấn thân kiếm tìm khám phá những con đường
mới đầy khó khăn, gian nan. Họ viết như đường văn trước họ chưa có người đi. Họ viết,
bất chấp những ràng buộc thành văn và không thành văn trên trang viết và ngồi trang
viết. Họ viết, theo sự thơi thúc của văn chương và theo chính họ. Chính vậy nên họ đã có
được những tác phẩm hay, mang tính đột biến và cách tân mạnh mẽ. Và cũng chính vậy,
họ là những nhà văn bị hứng chịu nhiều “đòn roi” nhất của phê bình, của dư luận, cả
trong và ngồi văn học. Nhưng họ đã đứng lại được trong văn học bằng tên tuổi mình.
Cái hay, nhất là cái hay lối mới, thường gây dư luận và thường là dư luận trái chiều.
Cùng những bài thơ của Vi Thùy Linh, truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư

và Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu đã được mọi người khen chê trái ngược nhau. Nhưng đó
đều là truyện hay, có giá trị và tiếng nói riêng; đã góp phần tạo nên sức sống mới cho
nền văn học Việt Nam qua những ý kiến đánh giá, những tranh luận ngược chiều trên
văn đàn và xã hội. Những tác phẩm của họ đã và đang góp phần tạo nên diện mạo mới
cho nền văn học Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang 14


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

PHẦN KẾT LUẬN
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhìn chung nền văn học thế giới và của
Việt Nam đang có sự vận động mạnh mẽ với nhiều phương diện khác nhau, với những
giá trị giống và khác với những giá trị trong quá khứ của nhân loại. Từ đó các nhà văn
tiếp tục sáng tạo, thể hiện để chuẩn bị cho nhiều thành tựu văn học xuất hiện và khẳng
định giá trị của mình trong lịng độc giả, bước đầu đặt nền móng cho thời kỳ văn học mới
phát triển, phù hợp với xã hội hiện đại, xã hội văn minh và nhân văn.
Trên đây là một số vấn để cảm nhận về những hiện tượng văn học của thế giới và
văn học Việt Nam trong những đầu của thế kỷ XXI. Tư liệu được tham khảo trên các
trang web ở mạng internet. Từ đó hệ thống lại để người đọc nắm được những vấn đề cơ
bản của những hiện tượng văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI, sau đó tìm hiểu và khám
phá, nghiên cứu sâu hơn các tác giả và tác phẩm văn học tiêu biểu ở đầu thế kỷ XXI, góp
phần cập nhật và nâng cao kiến thức văn học trong quá trình giảng dạy. Trong quá trình
biên soạn chắc chắn có những thiếu sót, kính mong q thầy cơ góp ý để chúng tơi sửa
chữa, bổ sung; để tài liệu được hồn thiện hơn. Đồng thời kính mong q thầy cơ trong
tổ Ngữ văn cố gắng, tích cực tìm hiểu, nghiên cứu thêm về những vấn đề mới của văn
học để nâng cao trình độ chun mơn, cập nhật thông tin để đáp ứng tốt yêu cầu của học
sinh, giới thiệu cho các em có sự tiếp nhận văn học đúng đắn, tích cực để nâng cao chất
lượng mơn Ngữ văn, làm trịn trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp "trồng người" mà
Đảng, Nhà nước, nhân dân tin yêu và giao phó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục

toàn diện trong trường THPT.
Vinh Xuân, ngày 01 tháng 3 năm 2009
Người viết chuyên đề

HOÀNG ANH TUẤN
PHẦN ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI

Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang 15


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hồng Anh Tuấn

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

A.Phần mở đầu

1

I.Lí do chọn đề tài

1

II.Phương pháp nghiên cứu

1

III.Giới hạn đề tài


1

B. Phần nội dung

2

I. Vài nét đánh giá chung về văn học thế giới và văn học Việt Nam ở
thế kỷ XX
II. Vài nét đánh giá chung về văn học thế giới và văn học Việt Nam ở
thế kỷ XXI

3
4

III. Những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam ở đầu
thế kỷ XXI

4

III.1. Về thơ : Hiện tượng Vi Thuỳ Linh

5

III.2. Về văn xi

6

2.1. Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm


6

2.1.1. Tiểu sử

6

2.1.2. Tác phẩm

6

2.1.3 . Đánh giá

7

2.2. Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư

8

2.2.1. Tác giả

8

2.2.2. Tác phẩm và dư luận

9

3.2. Bóng đè của Đỗ Hồng Diệu

11


3.2.1. Tác giả

11

3.2.2 Tác phẩm và dư luận

12

C. Phần kết luận

15

D. Phần mục lục

16

Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang 16


Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI……….….….............Hoàng Anh Tuấn

Trường THPT Vinh Xuân................................................................................................Trang 17



×