Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số ở việt nam trong giai đoạn hiện nay (qua thực tế tại tỉnh hậu giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.39 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
-----
-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

PHÁT HUY VAI TRÒ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
(QUA THỰC TẾ TẠI TỈNH HẬU GIANG)

Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân
Giáo viên hướng dẫn:
NGUYỄN THANH SƠN

Sinh viên thực hiện:
ĐOÀN THỊ LÙNG
MSSV: 6106626
LỚP: SP. GDCD

K36
CẦN THƠ – 11/2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
5. Kết cấu của luận văn ............................................................................................ 4


NỘI DUNG ..................................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC DÂN TỘC THIỂU
SỐ TỈNH HẬU GIANG ................................................................................................. 5
1.1 Đặc điểm tình hình đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số ở Hậu Giang ........ 5
1.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa tỉnh Hậu Giang .................................... 5
1.1.2 Vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang ................... 10
1.1.3 Đặc điểm tình hình đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang 19
1.2 Thực trạng đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang ............... 21
1.2.1 Những thành tựu và nguyên nhân các thành tựu của đội ngũ trí thức các
dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang .................................................................................... 21
1.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân các hạn chế của Hậu Giang trong việc
phát huy vai đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số ......................................................... 35
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI
TRÒ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH HẬU GIANG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............................................................................. 43


2.1 Phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát huy vai trò đội ngũ tri thức các dân tộc
thiểu số tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn hiện nay .................................................... 43
2.1.1 Nhận thức đúng tầm quan trọng của việc xây dựng và phát huy đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số ............................................................................................ 43
2.1.2 Nắm vững những tư tưởng cơ bản về xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ................................................................................ 44
2.1.3 Tăng nhanh về số lượng đồng thời từng bước nâng cao về chất lượng và
điều chỉnh hợp lý về cơ cấu đối với trí thức người dân tộc thiểu số .............................. 45
2.1.4 Tạo một hệ thống động lực thức đẩy lao động sáng tạo của đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số ............................................................................................ 46
2.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân
tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn hiện nay .............................................. 47
2.2.1 Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số gắn liền với việc đổi

mới có hiệu quả sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh .............................................. 47
2.2.2 Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số gắn liền với việc đào
tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số của tỉnh Hậu Giang 53
2.2.3 Tăng cường đầu tư ngân sách cho nghiên cứu khoa học - công nghệ, giáo
dục và chính sách tôn vinh, đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ trí thức các dân tộc
thiểu số ........................................................................................................................... 55
2.2.4 Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số gắn liền với việc đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với trí thức các dân tộc thiểu số
........................................................................................................................................ 59
KẾT LUẬN................................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 64


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng
lớn lao”, câu nói nổi tiếng trên của Thân Nhân Trung có ý nghĩa phổ biến đối với mọi
quốc gia mọi thời kì lịch sử. Không có trí thức, không có người tài thì không thể thực
hiện được công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không thể phát triển nhanh và bền vững
được. Do đó, muốn thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, đưa nước
ta đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, vấn đề trí thức, vấn đề
người tài trở thành một vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định.
Hơn 30 năm qua, kể từ ngày cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội,
với sự quan tâm đào tạo, bồi dưỡng của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã xây dựng một
đội ngũ trí thức giỏi, đáp ứng một phần yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đội ngũ ấy đã có những đóng góp đáng tự hào cho sự chấn hưng đất nước,
trong đó có vai trò quan trọng của trí thức dân tộc thiểu số.
Trí thức người dân tộc thiểu số là một lực lượng quan trọng, có vai trò và vị trí
không nhỏ góp phần giải quyết vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc. Cùng
với sự phát triển của đất nước, sự phát triển của các dân tộc thiểu số trong thời đại Hồ

Chí Minh, trí thức dân tộc thiểu số cũng được hình thành và được chăm lo phát triển
ngay từ những ngày đầu cách mạng. Trên nhiều phương diện khác nhau của đời sống
kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng… đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số
đã và đang dần có sự lớn mạnh nhất định về số lượng và chất lượng, đóng góp ngày
càng nhiều cho sự phát triển chung của đất nước và cộng đồng các dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên trước nhu cầu phát triển mới của đất nước, việc nhìn lại đội ngũ trí
thức các dân tộc thiểu số để thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
trong thời kì hiện nay là rất cần thiết, có giá trị và tác động quan trọng trước mắt và lâu
dài đối với việc thực hiện chính sách dân tộc, công tác dân tộc ở nước ta hiện nay.

1


Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhận thức được vị trí,
vai trò quan trọng của trí thức nói chung, trí thức các dân tộc thiểu số trong khối liên
minh công nhân, nông nhân, trí thức, Đảng và Nhà nước ta đã làm hết mình nhằm xóa
dần khoảng cách miền núi và vùng xuôi với chủ trương: ưu tiên phát triển giáo dục ở
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng đào tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu
số, củng cố và tăng cường hệ thống thường nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiểu
số, từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo toàn diện đi đôi với
cải tiến chính sách học bổng cho học sinh trường này… Thực hiện tốt chính sách cử
tuyển, đào tạo theo địa chỉ đối với vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có nhiều
khó khăn, nhằm phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức này để đào tạo nguồn trí
tuệ và nhân tài cho đất nước.
Bên cạnh những ưu điểm, thì đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số cũng còn
tồn tại một số mặt yếu kém như: số lượng còn ít, chất lượng thì chưa đáp ứng được yêu
cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Vì vậy, phát huy vai trò đội ngũ trí
thức các dân tộc thiểu số hiện nay là một vấn đề rất cần thiết.
Để hiểu rõ những nét chung nhất về đặc điểm,vị trí,vai trò cũng như thực trạng
của đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung qua thực tế ở tỉnh Hậu

Giang nói riêng, đồng thời đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm góp phần
phát huy đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số về số lượng và cả chất lượng. Do đó em
đã chọn đề tài: “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hậu Giang)” làm luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn: Từ trên cơ sở phân tích vị trí, vai trò, thực
trạng đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số ở Việt Nam qua thực tế tại tỉnh Hậu Giang,
từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí thức

2


các dân tộc thiểu số ở Việt Nam qua thực tế tại tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn hiện
nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
Một là, nêu rõ vị trí, vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số trong giai đoạn
hiện nay.
Hai là, nêu lên đặc điểm tình hình đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam qua thực tế tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, trình bày rõ thực trạng đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu
Giang.
Bốn là, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm để khắc phục những
hạn chế và phát huy tối đa vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang
trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hậu Giang
trong giai đoạn hiện nay.
Trí thức các dân tộc thiểu số mà luận văn đề cặp đến là tập hợp những người

thuộc các thành phần dân tộc thiểu số đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Hậu Giang
chuyên làm việc, lao động trí óc; có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề
nghiệp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, luận văn còn chú ý
đến những văn bản của Đảng ủy và chính quyền địa phương các cấp của tỉnh Hậu
Giang trong những năm gần đây.

3


Về phương pháp cụ thể, luận văn chú ý nhiều đến kết hợp các phương pháp
logic và lịch sử, thống kê và phân tích, tổng hợp và so sánh, gắn lý luận với thực thiễn
để thực hiện nhiệm vụ đặt ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 2 chương 4 tiết.

4


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC DÂN TỘC THIỂU
SỐ TỈNH HẬU GIANG
1.1 Đặc điểm tình hình đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số ở Hậu Giang
1.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa tỉnh Hậu Giang
Đặc điểm tự nhiên:
Hậu Giang là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, có thành
phố Vị Thanh là thành phố trực thuộc tỉnh Hậu Giang. Tọa độ địa lý từ: Từ 9 030’35’’

đến 10019’17’’ vĩ độ Bắc và từ 105014’03’’ đến 106017’57’’ kinh độ Đông. Phía Bắc
giáp thành phố Cần Thơ, phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang,
phía Đông giáp tỉnh Sóc Trăng, phía đông bắc giáp sông Hậu và tỉnh Vĩnh Long.
Thành phố Vị Thanh cách thành phố Hồ Chí Minh 240 km về phía tây nam; cách thủ
đô Hà Nội 1937 km, cách thành phố Cần Thơ 60 km. Tỉnh Hậu Giang ngày nay có diện
tích tự nhiên 1601 km2 chiếm khoảng 4% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long và
khoảng 0,4% diện tích tự nhiên cả nước Việt Nam.[1].
Nhìn chung, với vị trí trung tâm tiểu vùng Tây Nam sông Hậu, tỉnh Hậu Giang
nằm trong khu vực trung chuyển giao lưu giữa các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên
Giang với đô thị trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long là thành phố Cần Thơ,
thông qua nhiều tuyến thủy, bộ quan trọng. Ngoài các tuyến quốc lộ 1A, kênh Xà No,
kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp còn có các tuyến quốc lộ 61, 61B nối thành phố Vị Thanh
với thành phố Cần Thơ nên dễ dàng giao lưu với các tỉnh lân cận trong vùng và các
vùng khác bằng đường thủy lẫn đường bộ.
Địa hình tỉnh Hậu Giang khá bằng phẳng và thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ
Đông sang Tây. Có thể chia địa hình ra làm ba vùng:

5


Vùng triều là vùng tiếp giáp sông Hậu về hướng Tây Bắc. Diện tích của vùng
này khoảng 19.200 ha, đây là điều kiện để phát triển mạnh về kinh tế vườn và kinh tế
công nghiệp và dịch vụ.
Vùng úng triều tiếp giáp với vùng triều. Diện tích tự nhiên khoảng 16.800 ha,
đây là điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh cây lúa , có tiềm năng về công nghiệp và
dịch vụ.
Vùng úng : là vùng nằm sâu trong nội đồng. Đây là những thuận lợi để khu vực
này phát triển nông nghiệp đa dạng như: lúa, mía, khóm… Đồng thời có khả năng phát
triển mạnh về công nghiệp, dịch vụ.
Tỉnh Hậu Giang nằm trong vòng đai Nội chí tuyến Bắc bán cầu, gần xích đạo,

có khí hậu nhiết đới gió mùa cận xích đạo, chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, Hậu Giang có nền
nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình là 270C không có sự chênh lệch quá lớn qua các năm.
Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 4 (350C) tháng thấp nhất là tháng 12 (20,30C). Do
Hậu Giang nằm trong khu vực gió mùa Đông Nam Á, hằng năm có hai mùa gió phân
biệt rõ rệt về hướng: Gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4 chủ yếu là gió Tín
phong bán cầu và một phần là gió mùa cực đới biến tính với độ ẩm không lớn và ít biến
động. Đây là thời kỳ khô hạn điển hình trong năm. Từ tháng 5 đến tháng 10: Gió mùa
Tây Nam chủ yếu là Tín phong bán cầu vượt xích đạo đổi hướng với độ ẩm lớn. Vì
vậy, đây là thời kì ẩm ướt trong năm.[1].
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, chiếm từ 92%- 97% lượng mưa cả
năm. Lượng mưa ở Hậu Giang thuộc loại trung bình, khoảng 1500- 1800 mm/năm,
lượng mưa cao nhất vào khoảng tháng 9 (250,1mm). Độ ẩm trung bình trong năm phân
hóa theo mùa một cách rõ rệt, chênh lệch độ ẩm trung bình giữa tháng ẩm nhất và
tháng ít ẩm nhất khoảng 11%. Độ ẩm trung bình thấp nhất vào khoảng tháng 3 và tháng
4 (77%) và giá trị độ ẩm trung bình trong năm là khoảng 82%.[1].

6


Tỉnh Hậu Giang có một hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt như: sông
Hậu, sông Cái Tư, kênh Quảng Lộ, kênh Phụng Hiệp, kênh Xà No… với tổng chiều dài
khoảng 2300km.
Đặc điểm kinh tế,văn hóa - xã hội:
Hậu Giang chính thức đi vào hoạt động từ tháng 01 năm 2004 xuất phát từ việc
tách tỉnh Cần Thơ thành hai đơn vị hành chính: thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung
ương và tỉnh Hậu Giang ngày nay. Thực hiện theo Nghị quyết 22/2003/QH11 ngày 26
tháng 11 năm 2003 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam và Nghị định số
05/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2004 của Chính phủ.
Tỉnh Hậu Giang là trung tâm của tiểu vùng Tây Nam Sông Hậu, diện tích tự

nhiên 1.607,72 km2, dân số khoảng 773.556 người, 192.936 hộ. Trong đó, dân tộc thiểu
số toàn tỉnh có 7.587 hộ, 36.184 người dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 4,7% dân số
toàn tỉnh (Trong đó dân tộc Khmer có 5.553 hộ, 26.257 người, chiếm 3,4%, người Hoa
1.972 hộ, 9.699 người chiếm khoảng 1,25%, dân tộc Chăm và dân tộc khác 60 hộ, 228
người, chiếm khoảng 0,03%)[17, tr 1]. Mỗi dân tộc có kinh nghiệm sản xuất và truyền
thống văn hóa độc đáo riêng. Tuy nhiên, ba dân tộc này luôn có truyền thống đoàn kết,
cần cù sáng tạo cùng nhau xây dựng quê hương, đem đến sự đa dạng về văn hóa, tín
ngưỡng, phong tục tạp quán của tỉnh Hậu Giang.
Tỉnh Hậu Giang gồm có 7 đơn vị hành chính gồm có 1 thành phố trực thuộc
tỉnh, 1 thị xã và 5 huyện: thành phố Vị Thanh, thị xã Ngã Bảy, huyện Châu Thành,
huyện Châu Thành A, huyện Long Mỹ, huyện Phụng Hiệp, huyện Vị Thủy. Trong 7
đơn vị hành chính có tất cả 75 xã, phường.[21].
Sau 2 năm thành lập, do tỉnh mới thành lập từ phần đất chủ yếu thuộc các huyện
vùng sâu, vùng xa của tỉnh Cần Thơ cũ, cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục
còn quá thiếu và nhiều yếu kém. Tuy nhiên, Hậu Giang đã phấn đấu vượt bậc. Hậu
Giang đã xây dựng nhiều chương trình kế hoạch hành động điều hành, phát triển kinh

7


tế - xã hội của tỉnh. Kết quả nền kinh tế Hậu Giang đã từng bước phát triển, tốc độ phát
triển bình quân hằng năm đều cao, tổ chức bộ máy luôn được củng cố; các vấn đề văn
hóa - xã hội được từng bước giải quyết tốt; quốc phòng an ninh trật tự xã hội ổn định.
Đảng bộ, dân và quân tỉnh Hậu Giang đã không ngừng phấn đấu, đoàn kết nhất
trí cao, đồng thuận lớn, năng động sáng tạo, tự lực tự cường vượt qua những khó khăn,
thách thức, thực hiện đạt được thành tựu toàn diện và rất quan trọng. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân khá cao, trong 5 năm 2006- 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân dự kiến đạt 12,44%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực trong
đó, khu vực I tăng 4,07%; khu vực II tăng 16,85%; khu vực III tăng 18,84% [20, tr 1].
Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội được đầu tư phát triển, thu hút nhiều dự án đầu tư quan

trọng, văn hóa- xã hội có tiến bộ trên nhiều lĩnh vực; xóa đói giảm nghèo đạt kết quả
nổi bật; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục, thể dục thể thao… Những năm
qua đã thay đổi tích cực. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đều có trạm y tế, trường học,
các phương tiện truyền thông được trang bị đầy đủ, nhiều trung tâm văn hóa được xây
dựng, các chính sách xã hội đều thực hiện khá tốt. Hệ thống điện và nước sạch đã đến
được với người dân. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa, tinh thần của người dân
tỉnh Hậu Giang.
Các yếu tố kinh tế - xã hội của tỉnh Hậu Giang đã góp phần thúc đẩy tích cực sự
phát triển nguồn nhân lực cả về thể chất lẫn tinh thần. Thức nhất, kinh tế phát triển,
quy mô sản xuất được mở rộng, giải quyết việc làm cho người lao động; thứ hai, điều
kiện sống của người dân được cải thiện, đồng thời các dịch vụ xã hội như y tế, giáo
dục, giải trí… Ngày càng phát triển, người dân có điều kiện và cơ hội để nâng cao dân
trí, sức khỏe, đời sống văn hóa tinh thần.
Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được chưa tương xứng với lợi thế, tiềm năng,
nhu cầu khắc phục hậu quả chiến tranh và phát triển của tỉnh Hậu Giang; tăng trưởng

8


kinh tế chưa thật sự ổn định và bền vững; khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa vững chắc, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn
yếu kém và chưa đồng bộ.
Sản xuất nông nghiệp còn manh mún, công nghiệp phát triển chậm, nhỏ lẻ. Văn
hóa - xã hội phát triển chưa ngang tầm và còn nhiều vấn đề quan tâm, nhất là tỷ lệ hộ
nghèo, cận nghèo còn khá cao; thu nhập và đời sống dân cư tuy có cải thiện nhưng vẫn
còn khó khăn.
Năng lực lãnh đạo của một bộ phận cán bộ ở một số nơi chưa theo kịp sự phát
triển của thời kỳ mới; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn có một số mặt hạn chế
và yếu kém; công tác kiểm tra, giám sát và các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế cán bộ,

một số đảng viên vi phạm kỷ luật mang lại hiệu quả chưa cao.
Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt, mục tiêu và phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế xã hội dài hạn đến
năm 2020 của tỉnh Hậu Giang là:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo chuyển biến về chất lượng phát triển
bền vững, vượt qua khỏi tình trạng kém phát triển, thu nhập thấp.
Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế ngoài nhà nước trong và ngoài
tỉnh, đầu tư phát triển công thương nghiệp, dịch vụ, cơ sở hạ tầng.
Phát triển mạnh mẽ, cải thiện một bước đáng kể trình độ khoa học và công nghệ.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác có hiệu quả các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại.
Cải thiện đời sống nhân dân, tiếp tục thực hiện xóa đói giảm nghèo, tạo thêm
việc làm. Phát triển và từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Đẩy nhanh

9


việc xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ
vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
1.1.2 Vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Trí thức là vốn liếng của dân tộc, giành chính
quyền cần có trí thức, kháng chiến kiến quốc cần trí thức, xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần có trí thức hơn. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đội ngũ cán bộ khoa học,
đặc biệt là cán bộ có trình độ cao, là vốn quý của dân tộc”.
Cùng với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định ngày càng đầy đủ hơn, rõ hơn vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức
trong quá trình thực hiện chủ trương đó.

Đảng ta luôn khẳng định vai trò của trí thức ngày càng quan trọng, bởi vì: “Trí
tuệ là nguồn tài nguyên lớn của quốc gia…” Cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc không thể thiếu sự tham gia của lực lượng trí thức.
Tầng lớp trí thức là đại biểu tập trung trí tuệ của dân tộc; những trí thức tiến bộ,
những nhà lý luận cách mạng vô sản đã góp phần thức tỉnh phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động đưa họ đến trình độ tự giác về lý tưởng.
Trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, với tư cách là lực lượng có học vấn cao, trí thức
tham gia trực tiếp và chủ yếu vào sự nghiệp nâng cao dân trí, đồng thời là bộ phận chủ
yếu của nguồn lực khoa học kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất lên chất lượng mới.
Tại Đại hội VII (1991) Đảng ta khẳng định “… Trong cách mạng dân tộc dân
chủ, vai trò giới trí thức đã quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò giới trí
thức càng quan trọng. Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và
bản thân công- nông không được nâng cao kiến thức, không dần dần được trí thức hóa,
thì không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội”. [4, tr 113].

10


“Đội ngũ trí thức có vai trò hết sức quan trọng đối với đất nước” đó là nội dung
được tiếp tục khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng ta; đây là nguồn lực đặc biệt
trong chiến lược phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực. Đảng ta luôn có những chủ
trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc được phát huy và ứng nghiệm đã đạt được
nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư
tưởng Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ hướng đến
tương lai đã giúp cho đất nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực, vượt qua mọi
khó khăn, đoàn kết trên quan điểm giai cấp liên minh công - nông và tầng lớp trí thức
cùng chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Phát huy truyền thống Đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta luôn luôn đánh giá
cao và coi trọng những đóng góp to lớn của đội ngũ trí thức cho bước đường phát triển
đi lên của đất nước và đội ngũ trí thức đã sống, làm việc và cống hiến xứng đáng với

lòng tin của Đảng, của dân tộc. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi tài nguyên lớn
nhất cho mỗi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người thì
nhiều nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức; ở đây không
có nghĩa là đề cao những con người trí thức một cách cụ thể mà muốn nói đến một điều
kiện không thể thiếu cho sự phát triển của đất nước. Và trí thức tỉnh Hậu Giang đã hiểu
rõ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Người trí thức tham gia cách mạng, tham gia
kháng chiến rất quý báu cho Đảng”. Trí thức của tỉnh Hậu Giang đã thể hiện tốt vai trò
của mình là hạt nhân đoàn kết thực hiện chủ trương phát triển tinh thần đại đoàn kết
dân tộc, trên nền tảng liên minh với giai cấp công nhân và giai cấp nông dân trong cách
mạng dân tộc dân chủ trước đây; và nền tảng liên minh giai cấp công nhân với đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây vừa là nguồn lực sức mạnh, là động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm mọi thắng lợi của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và tạo động lực phát triển của tỉnh Hậu
Giang nói riêng.

11


Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Hậu Giang ngày càng được phát huy và càng tỏ
rõ hơn dưới sự lãnh đạo của Đảng, trí thức đã cùng với các tôn giáo, các tầng lớp nhân
dân, các thành phần thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Lực lượng trí thức luôn là lực
lượng gương mẫu, đi đầu trong việc ra sức đóng góp công sức của mình để góp phần
phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc.
Trong hoàn cảnh mới, Nhà nước ta cần phải nâng cao năng lực nội sinh, xây
dựng phát triển tiềm lực khoa học công nghệ của nước nhà; đào tạo, bồi dưỡng sử dụng
đội ngũ cán bộ khoa học và công nhân lành nghề có đủ sức đủ tài, phải trẻ hóa cán bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ. Trong hoàn cảnh ấy đòi hỏi chúng ta phải kiện toàn hệ
thống tổ chức, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, từng bước hình thành nền khoa học
công nghệ hiện đại của Việt Nam, có khả năng giải quyết những vấn đề lớn, vấn đề

then chốt nảy sinh trong quá trình. Đó là trách nhiệm lớn lao, của đội ngũ trí thức Việt
Nam trong đó có đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang trong bức
tranh toàn diện về cơ cấu xã hội, dân tộc ở nước ta.
Một là, đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số đã góp phần hoàn chỉnh bức tranh
cơ cấu tầng lớp trí thức
Nếu chúng ta đem so sánh trí thức người dân tộc thiểu số với trí thức người
Kinh thì số lượng trí thức người dân tộc thiểu số ít ỏi, song như trên đã nói, sự hiện
diện của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số đã góp phần hoàn chỉnh bức tranh về
tầng lớp trí thức, thể hiện dưới dạng thu nhỏ bức tranh về thành phần dân tộc của nước
ta.
Trí thức người dân tộc thiểu số chủ yếu được phân bố chủ yếu trong các ngành
giáo dục, y tế, nông - lâm trường, xí nghiệp, vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Hậu Giang.
Đặc biệt, một số trí thức người dân tộc thiểu số vừa tham gia hoạt động sáng tạo trong
lĩnh vực khoa học công nghệ vừa tham gia hoạt động xã hội.

12


Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang là một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội, vùng dân tộc thiểu số của tỉnh. Khái niệm “nguồn lực” trước đây ít được nhắc
đến, nhưng ngày nay đã được dùng trong văn kiện của Đảng và Nhà nước. Nguồn lực
là toàn bộ những yếu tố đã có và có khả năng góp phần trực tiếp thúc đẩy các quá trình
cải tiến xã hội theo con đường đã được lựa chọn tự giác của dân tộc quốc gia. Xác
định đúng nguồn lực và biến nó thành các yếu tố hiện thực cho sự phát triển kinh tế, xã
hội vùng dân tộc thiểu số là một quá trình phát huy bản lĩnh khoa học và nghệ thuật
lãnh đạo quản lý của Đảng và Nhà nước ở vùng dân tộc thiểu số.[14, tr 45].
Trên con đường đi lên của vùng dân tộc thiểu số, đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số tỉnh Hậu Giang còn là một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã
hội. Đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số vừa là bộ phận quan trọng của nguồn lực
con người, vừa là bộ phận chủ chốt của tiềm lực khoa học- kỹ thuật ở vùng dân tộc

thiểu số và vì đó là: “Nguồn lực quan trọng nhất”. Đảng và Bác Hồ luôn khẳng định trí
thức là vốn quý của dân tộc, vì vậy đã hết sức tạo điều kiện cho trí thức công tác và học
tập, phát huy tài năng của mình để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số ở các vùng dân tộc thiểu số tỉnh Hậu
Giang thật sự có vai trò to lớn trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Họ là những người
tuyên truyền và đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nhằm dần dần xóa đi ranh
giới cách biệt giữa, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với dân tộc
người Kinh. Đồng thời họ góp phần thực hiện tốt các chính sách bình đẳng, đoàn kết
tương trợ giữa các dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn
minh tiến bộ, gắn bó với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Hai là, vai trò của đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số trên lĩnh vực kinh tế
Với tư duy mới, chất xám là tài nguyên quý báu của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia,
là điều kiện cho sự giàu có và phát triển của mỗi vùng, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số

13


tỉnh Hậu Giang, nơi mà nền kinh tế còn kém phát triển và nhiều tiềm năng chưa được
khai thác. Việc huy động chất xám cho sự phát triển có tầm quan trọng đặc biệt với tư
cách là nguồn lực phát triển.
Trong công cuộc đổi mới, đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Hậu
Giang là chủ thể của cách mạng khoa học công nghệ ở vùng dân tộc thiểu số của tỉnh.
Đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số có trách nhiệm chủ yếu trong việc nghiên cứu
khoa học- kỹ thuật, nghiên cứu khoa học về phân công lao động xã hội. Những thành
tựu mới của nghiên cứu khoa học của trí thức người dân tộc thiểu số được kết tinh ở
những sản phẩm như: Các kế hoạch, dự án, phương án… và ở các mức độ khác nhau là
những phát minh, sáng chế, sáng kiến, giải pháp hữu ích nhằm phát triển kinh tế, xã hội
vùng dân tộc thiểu số.
Trong thời đại ngày nay khoa học và kỹ thuật càng gắn kết với nhau. Khoa học
không tách rời kỹ thuật, khoa học đi trước dẫn đường làm cơ sở cho kỹ thuật. Khoa học

kỹ thuật rất cần thiết cho vùng dân tộc thiểu số nơi mà kinh tế còn kém phát triển. Hoạt
động khoa học của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số không chỉ làm thay đổi căn
bản hệ thống sản xuất truyền thống mà còn làm xuất hiện những ngành sản xuất mới do
những yêu cầu của đời sống xã hội đặt ra. Thực tiễn công cuộc đổi mới đòi hỏi hoạt
động khoa học của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số không ngừng đáp ứng yêu
cầu vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời, công cuộc đổi mới cũng tạo điều kiện cho trí
thức người dân tộc thiểu số tham gia hoạt động lao động sáng tạo.
Trí thức người dân tộc thiểu số là những người tích cực tham gia hoạt động lao
động sáng tạo. Họ là những người tích cực tham gia hoạt động tuyên truyền đưa tiến bộ
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đời sống ở, vùng dân tộc thiểu số. Hoạt động này của
trí thức người dân tộc thiểu số thể hiện một cách tích cực cho xã hội và cải tạo xã hội
một cách thực tế. Tính hữu ích của lao động sáng tạo trí tuệ của trí thức người dân tộc
thiểu số trên lĩnh vực kinh tế đã được đo bằng kết quả của phong trào quần chúng, ứng
dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nhằm đạt năng suất và hiệu quả cao. Trí thức

14


người dân tộc thiểu số phải chuyển được sản phẩm nghiên cứu khoa học vào sản xuất
đại trà ở vùng sâu, vùng xa của đồng bào dân tộc thiểu số. Bước chuyển ấy phải vượt
qua những trở ngại lớn về tập tục, truyền thống lạc hậu ở vùng dân tộc thiểu số này.
Tuy vậy, đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số vừa thông thạo tiếng Kinh, vừa thông
thạo tiếng mẹ đẻ thì việc tuyên truyền và ứng dụng khoa học- kỹ thuật đến các bản làng
sẽ dễ hơn nhiều so với người Kinh sống trên vùng dân tộc thiểu số.
Ba là, vai trò của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số trong việc thực hiện trí
tuệ hóa lao động
Việc thực hiện nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ to
lớn của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số. Đảng ta khẳng định, cùng với khoa học
và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu. Do vậy, nét nổi bật trong công việc
nâng cao dân trí cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số là huy động tối đa con em dân tộc

thiểu số đến lớp, đến trường, xóa nạn mù chữ và tái mù chữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn. Nâng cao dân trí vùng đồng bào dân tộc thiểu số là thực hiện trí tuệ
hóa lao động; khi sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ đã làm
cho lao động trí óc và lao động chân tay xích lại gần nhau cả về nội dung và tính chất,
phương pháp lao động. Do đó, Đảng, Nhà nước ta coi giáo dục là động lực quan trọng
trong sự phát triển kinh tế, xã hội và việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đầu tư tập trung vào con đường là một đặc trưng quan trọng nhất của cách
mạng khoa học - công nghệ mới.
Ở vùng dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang, việc trí tuệ hóa lao động và nâng cao
dân trí đồi hỏi phải phát huy vai trò của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số và điều
đó liên quan đến việc xây dựng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, liên quan đến
hiệu quả lao động sáng tạo của họ. Ngược lại, chỉ có trên mặt bằng dân trí nhất định
mới có đủ điều kiện truyền bá tri thức, phát hiện năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài, mới
có thể tạo ra xu hướng phát triển tốt của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số của tỉnh
để phục vụ cho việc phát triển của Hậu Giang sau này.

15


Nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số là nhằm mục đích trí tuệ hóa lao
động, làm cho sản phẩm lao động tăng lên dồi dào. Ngày nay, kinh tế tri thức lại càng
đòi hỏi trí tuệ hóa lao động. Hàm lượng chất xám kết tinh trong mỗi sản phẩm vật chất
tăng lên không ngừng. Qua đó, sản phẩm của xã hội đa dạng hơn và chất lượng cao
hơn đồng thời chất lượng cuộc sống các dân tộc cũng được nâng lên không ngừng, và
sẽ rút dần được khoảng cách giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số với người Kinh trên
địa bàn tỉnh Hậu Giang. Chính điều đó đảm bảo cho sự thực hiện quan điểm nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta là: “bình đẳng- đoàn kết- tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ đưa miền núi tiến kịp miền xuôi”.
Bốn là, vai trò của đội ngũ trí thức các dân tộc hiểu số trên lĩnh vực văn hóa.
Dân tộc nào cũng có nền văn hóa riêng, bởi lẽ văn hóa là nền tảng tinh thần của

xã hội. Trước hết, trí thức người dân tộc thiểu số đã góp phần duy trì và phát triển nền
văn hóa dân tộc mình. Qua các tác phẩm nghệ thuật của mình, các văn nghệ sĩ dân tộc
thiểu số luôn cố gắng nêu lên khát vọng của nhân dân các dân tộc thiểu số về chân,
thiện, mỹ và hướng cho nền văn hóa của họ phát triển cùng nhịp với văn hóa của cả
nước, của thời đại.
Trong điều kiện ấy, trí thức người dân tộc thiếu số tỉnh Hậu Giang có vai trò
trách nhiệm lớn lao của mình trước đồng bào dân tộc thiểu số, cần phải đấu tranh
không khoan nhượng với xu hướng lai căng làm băng hoại văn hóa bản địa truyền
thống của đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng thời tiếp thu những giá tri văn hóa tiên
tiến phù hợp với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… ở mức nào cũng không thể
phát triển mạnh mẽ nếu không mở rộng giao lưu với bên ngoài.
Thế giới đương đại đòi hỏi mỗi dân tộc phải tự khẳng định mình để hội nhập với
cộng đồng thế giới. Nếu chúng ta không mở rộng giao lưu với bên ngoài, “Bế quan tỏa
cảng”; bài ngoại mù quáng, tự bằng lòng với những gì đã có, chắc chắn chúng ta sẽ bị
tụt hậu so với thế giới. Nhưng nếu mở cửa vô điều kiện để “nhập siêu” tất cả những gì

16


xa lạ với truyền thống văn hóa dân tộc thì sớm muộn gì “ta cũng chẳng còn là ta”. Do
đó, đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số có trách nhiệm gìn giữ và phát huy bản sắc dân
tộc của mình, đây là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, dân tộc; là vấn đề tồn tại hay
không tồn tại của từng dân tộc.
Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số tỉnh Hậu
Giang nói riêng và cộng đồng người Việt Nam cần phải có sự nhạy cảm trong lao động
sáng tạo không mệt mỏi, nhằm gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở
vùng dân tộc thiểu số.
Năm là, vai trò của đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số trong việc giải quyết
các vấn đề mang tính toàn cầu
Đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, bằng các hoạt động chuyên môn của

mình góp phần trực tiếp tuyên truyền và giải quyết các vấn đề bức xúc, mang tính toàn
cầu, động viên, tuyên truyền đồng bào dân tộc thiểu số định canh định cư, xây dựng
bản làng văn minh, không khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi, bảo vệ nguồn nước,
thực hiện tốt vấn đề dân số kế hoạch hóa gia đình… theo kế hoạch và chỉ thị Nhà nước
ban hành.
Tháng 7 năm 1974 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ bảy (khóa VII), Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh: “Khoa học và
công nghệ là vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của mỗi quốc gia,
phần thắng của cuộc kháng chiến ai thắng trên thị trường quy cho cùng là do trí tuệ và
năng lực sáng tạo của cả dân tộc biết học hỏi một cách khôn ngoan kinh nghiệm và
thành tựu tri thức nhân loại… Muốn vậy phải chú trọng bồi dưỡng và sử dụng tốt
nguồn nhân lực có trình độ văn hóa kỹ năng nghề nghiệp cao”.
Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và trong sự nhiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, việc đào tạo, bồi dưỡng quy tụ đông đảo đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số có phẩm chất chính trị vững vàng, có tinh thần yêu nước thiết tha, có lòng

17


nhiệt tình say mê nghề nghiệp là điều kiện trực tiếp giúp Đảng, Nhà nước có những
quyết sách đúng đắn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội vùng núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Vai trò của trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang ngày nay càng quan
trọng hơn bao giờ hết. Trí thức vừa là nguồn lực của sự phát triển kinh tế- xã hội đồng
thời còn là một thành phần trong khối liên minh công – nông - trí trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Khi nhận thức đúng đắn diều đó, chúng ta càng thấy việc xây
dựng đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số và phát huy vai trò của họ trong lao động
sáng tạo, trong sự nghiệp xây dựng bảo về Tổ quốc là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và
cấp bách hiện nay.
1.1.3 Đặc điểm tình hình đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang

Một là, đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang là những người
có học thức, và hầu hết trí thức người dân tộc thiểu số được đào tạo cơ bản, am hiểu
nhất định về lịch sử, văn hóa dân tộc mình. Đồng thời, có sự hiểu biết về các lĩnh vực
tự nhiên, xã hội, đặc biệt về tổ chức sinh hoạt cộng đồng. Do đó, đội ngũ trí thức người
dân tộc thiểu số góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc,
tôn giáo, tín ngưỡng, thiết chế xã hội. Bởi chính họ là những người dẫn dắt đồng bào
dân tộc mình vượt qua những định kiến hẹp hòi, thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc,
đưa cộng đồng người dân tộc hòa nhập cùng các anh em dân tôc khác ra sức xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đại bộ phận trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang đều có tư
tưởng, nhận thức, quan điểm rõ ràng, có trình độ ý thức vươn lên. Họ có khả năng tiếp
thu và vận dụng các chỉ thị, nghị quyết quyết định vào tham mưu, điều hành và triển
khai thực hiện các chương trình, dự án các chính sách phát triển kinh tế của vùng dân
tộc thiểu số. Hầu hết, đều nhận thức khá đầy đủ về tầm quan trọng nâng cao trình độ
trong thời kỳ mới, nên bản thân mỗi người đều có nguyện vọng được học thêm về

18


chuyên môn nghiệp vụ, về ngoại ngữ và tin học. Tuy nhiên, không phải ai cũng thực
hiện được nguyện vọng đó trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang có trình độ giác
ngộ xã hội chủ nghĩa, có phẩm chất và bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ học
vấn chuyên môn, có khả năng tiếp thu, vận dụng, thực hiện đường lối phát triển kinh
tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiêm, trước sự sụp đỗ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô, sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, sự chống phá
toàn diện của các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ bằng chiến lược “diễn biến
hòa bình” nhằm làm suy yếu và xóa bỏ chế độ chính trị nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, đồng thời sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta tuy đã đạt được những
thành tựu đáng kể, song cũng bộc lộ không ít khó khăn, nhiều mặc còn yếu kém… đã

có một số ít trí thức người dân tộc thiểu số dao động, giảm sút lòng tin vào con đường
xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Tuy nhiên, qua nhiều lần được học
tập, nhất là trước những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của cả nước và tỉnh nhà nói
riêng, đã giúp đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số củng cố thêm niềm tin vào công
cuộc đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Từ đó, giúp cho đội ngũ trí
thức người dân tộc thiểu số phấn đấu đóng góp nhiều công sức vào công cuộc xây
dựng và phát triển vào đất nước.
Bốn là, đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang có ý thức phục vụ
và trách nhiệm, làm việc cẩn trọng, nghiêm túc và chân thành. Trong giai đoạn hiện
nay, trí thức người dân tộc thiểu số được đào tạo trong điều kiện tốt hơn, kiến thức
rộng hơn, lại được tiếp xúc với phương tiện hiện đại và xu thế hội nhập. Tuy nhiên, bên
cạnh đó vẫn còn tồn tại một số người thiếu năng động, sáng tạo. Trong công việc và
suy nghĩ lại thiếu chiều sâu, chưa thật sự chín chắn, không ít người chưa thiết tha với
nghề nghiệp và kiến thức đã học.
Năm là, đời sống của đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang còn
nhiều khó khăn nhất là những trí thức hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc

19


thiểu số. Mặt khác, mặt khác một số trí thức người dân tộc thiểu số kể cả những người
có trình độ học vấn cao còn thiếu tự tin, còn e ngại, né tránh những vấn đề có liên quan
nhiều đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và
lòng tự trọng, thiếu tinh thần trung thực và tinh thần hợp tác. Ngoài ra, một số ít trí
thức người dân tộc thiểu số chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu
vươn lên về chuyên môn. Một bộ phận, do ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện kém, cộng với
tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, những luận điểm tuyên truyền, xuyên
tạc và sự lôi kéo của các thế lực thù địch... đã có những biểu hiện lệch lạc, sai trái về
quan điểm, thiếu say mê, tâm huyết với nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm công
dân và xa rời lý tưởng của Đảng

1.2 Thực trạng đội ngũ trí thức các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang
1.2.1 Những thành tựu và nguyên nhân các thành tựu của đội ngũ trí thức các
dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang
Những thành tựu
Sự phát triển về số lượng và chất lượng
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do chính sách ngu dân của thực dân
Pháp, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số cùng cực về vật chất lẫn tinh thần. Vì
vậy, đã khiến cho con em đồng bào dân tộc thiểu số hầu như không được đi học ở tất
cả các cấp học của hệ thống giáo dục thuộc địa Pháp. Chỉ có một số con em quan lại
được theo học có hệ thống để trở thành quan cai trị địa phương. Dưới thời thuộc địa
Pháp, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa hình thành đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số mà chỉ có một tầng lớp viên chức, quan lại được trang bị một ít tri thức để cai
trị dân chúng. Nhưng, từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, nhờ đường lối phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội của Đảng và nhà nước, đã dần dần hình thành đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế và quản lý

20


nhà nước… Hệ thống giáo dục quốc dân hình thành và phát triển đã giúp cho đồng bào
dân tộc thiểu số nâng cao trình độ học vấn ở tất cả các cấp học.
Theo báo cáo tại Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Hậu Giang lần thứ
nhất năm 2009. Nhằm tổng kết phong trào thi đua yêu nước, tôn vinh và biểu dương
công lao đóng góp của các đồng bào dân tộc thiểu số qua các thời kỳ cách mạng và
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, hội nhập
và phát triển trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đồng bào các dân tộc thiểu số
trong tỉnh đã cùng nhau đoàn kết, một lòng theo Đảng, theo cách mạng tham gia chiến
đấu, đóng góp nhiều sức người, sức của và cả xương máu, để góp phần quan trọng vào
cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Qua thống kê chưa đầy đủ, trong hai cuộc

kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã có trên 93 cán bộ là người dân tộc Khmer.
Từ ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đổi
mới, hội nhập quốc tế của đất nước, đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh nói chung,
những cán bộ chủ chốt, những người có uy tín, các chức sắc tôn giáo tiêu biểu, hội viên
các đoàn thể xã hội nói riêng, tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc.
Toàn tỉnh có 420 cán bộ dân tộc thiểu số tham gia trong hệ thống chính trị từ
tỉnh đến cơ sở.
Theo số liệu thống kê chất lượng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc
Khmer công tác tại các cơ quan hành chính, sự nghiệp toàn tỉnh Hậu Giang tính đến
ngày 30/06/2011 gồm có các đơn vị: cấp tỉnh, TP Vị Thanh, huyện Long Mỹ, huyện
Phụng Hiệp, huyện Vị Thủy, huyện Châu Thành A như sau:
Tổng số cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc Khmer hành chính cấp tỉnh
- và các huyện trên như sau:
Phân loại theo ngạch công chức:

21


Chia theo ngạch công chức

Đơn vị

Chuyên

Chuyên

Chuyên

Cán sự và


viên cao

viên chính

viên và

tương

cấp và

và tương

tương

đương

tương

đương

đương

Còn lại

đương
Cấp tỉnh

0

0


15

8

2

TP Vị Thanh

0

0

4

7

23

Huyện Long Mỹ

0

0

7

3

24


Huyện Phụng Hiệp

0

0

3

3

0

Huyện Vị Thủy

0

0

4

1

10

Huyện Châu Thành

0

1


6

3

1

Tổng cộng

0

1

39

25

60

0,08%

31,2%

20%

47,2%

Cao

Trung


Đẳng

cấp

Tỷ lệ (%)
Ghi chú

Phân loại theo trình độ chuyên môn đào tạo:
Chia theo trình độ đào tạo
Đơn vị

Tiến sĩ

Thạc sĩ

Đại học

22

Còn lại


×