Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

ảnh hưởng của văn hóa phương tây đến lối sống của thanh niên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.69 KB, 54 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HÓA PHƢƠNG TÂY ĐẾN LỐI
SỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Sƣ phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giảng viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

TS-GVC Lê Duy Sơn

Nguyễn Việt Khái
MSSV: 6106618

Lớp: Giáo Dục Công Dân K36

Cần Thơ: 11/2013


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với sự hỗ trợ,
giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của ngƣời khác. Trong suốt thời
gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đƣờng đại học cho đến nay, em đã nhận đƣợc rất
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy Cô ở Khoa Khoa học
chính trị - Trƣờng Đại Học Cần Thơ cùng với tri thức và tâm huyết của mình đã
truyền đạt vốn kiến thức quý báo cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại


trƣờng. Và đặc biệt em xin chân thành cám ơn Thầy Lê Duy Sơn đã tận tâm hƣớng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành tốt bài luận văn tốt nghiệp của mình. Nếu không có sự
hƣớng dẫn, chỉ bảo của Thầy thì em nghĩ em rất khó có thể hoàn thành bài luận văn
tốt nghiệp của mình đƣợc. Một lần nửa, em xin chân thành cám ơn Thầy.
Lần đầu tiên thực hiện một đề tài nghiên cứu, sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót là điều chắc chắn. Do vậy, em rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp quý
báo của quý Thầy Cô để kiến thức của em đƣợc hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc quý Thầy Cô trong Khoa Khoa học chính trị và
Thầy Lê Duy Sơn thật dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao
đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Việt Khái


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................................1
2.Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................2
3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................................2
4.Phƣơng pháp nghiên cứu ..........................................................................................................2
5.Kết cấu của đề tài .......................................................................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA
PHƢƠNG TÂY, VỀ THANH NIÊN VIỆT NAM ...............................................................3
1.1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa phƣơng Tây. ......................................3
1.2 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thanh niên Việt Nam .....................................12
Chƣơng 2:THỰC TRẠNG ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HÓA PHƢƠNG TÂY ĐẾN
LỐI SỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM ...................................................................15

2.1 Những ảnh hƣởng tích cực từ văn hóa phƣơng Tây đến lối sống của thanh niên
Việt Nam. ..................................................................................................................15
2.2 Những ảnh hƣởng tiêu cực từ văn hóa phƣơng Tây đến lối sống của thanh niên
Việt Nam. ..................................................................................................................26
Chƣơng 3:NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY NHỮNG ẢNH HƢỞNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG ẢNH HƢỞNG TIÊU CỰC TỪ VĂN HÓA
PHƢƠNG TÂY ĐẾN LỐI SỐNG THANH NIÊN VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI .35
3.1 Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc đối với công tác giáo dục lối sống
văn hóa cho thanh niên. .............................................................................................35
3.2 Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống......................................... 37
3.3 Kết hợp chặt chẽ công tác tuyên truyền và công tác giáo dục lối sống văn hóa
cho thanh niên Việt Nam...........................................................................................40
3.4 Tổ chức các hoạt động sinh hoạt, vui chơi, giải trí lành mạnh cho thanh niên... 43
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 51


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên là một lực lƣợng xã hội đặc biệt, có vai trò rất quan trọng trong
lịch sử, trong các giai đoạn Cách mạng cũng nhƣ trong hiện tại và tƣơng lai. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với thanh niên. Khi
đánh giá về Thanh niên Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Thanh niên là ngƣời
chủ tƣơng lai của nƣớc nhà… Nhà nƣớc thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần là
do các thanh niên”.[12, tr.84]. Nhận thức đúng vị trí, vai trò của thanh niên Đảng ta
khẳng định: Sự nghiệp đất nƣớc ta thành công hay không, đất nƣớc ta bƣớc vào thế
kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không chủ yếu là do lực
lƣợng thanh niên ngày nay quyết định. Tƣơng lai của dân tộc Việt Nam, sự phát
triển của đất nƣớc tùy thuộc vào việc bồi dƣỡng rèn luyện thế hệ thanh niên.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, sự chuyển biến mạnh mẽ của những điều

kiện kinh tế - xã hội đã và đang ảnh hƣởng trực tiếp đến thanh niên – lớp ngƣời trẻ
tuổi. Một mặt nền kinh tế thị trƣờng, xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức, việc
mở rộng giao lƣu hội nhập với các nền văn hóa thế giới, đang tạo nhiều cơ hội, điều
kiện cho thanh niên tiếp thu những văn hóa mới một cách chủ động và sáng tạo hơn.
Mặt khác, một bộ phận thanh niên có lối sống coi trọng vật chất, chạy theo đồng
tiền mà xem thƣờng giá trị tinh thần, đánh mất những giá trị truyền thống tốt đẹp
của ông cha.
Thực tế cho thấy thanh niên ngày nay đang phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, thử thách trƣớc những du nhập cũng nhƣ ảnh hƣởng của nền văn hóa phƣơng
Tây. Bên cạnh việc tiếp thu kiến thức tiên tiến và tinh hoa văn hóa từ nƣớc khác,
một bộ phận không nhỏ thanh niên còn chịu ảnh hƣởng của những mặt trái, mặt tiêu
cực từ chính những nƣớc này. Chính điều đó đã và đang đặt ra những nhu cầu và
đòi hỏi mới với việc định hƣớng, nâng cao nhận thức để thanh niên hình thành cho
mình những bản sắc văn hóa riêng trong khuôn khổ những giá trị và chuẩn mực
chung của toàn xã hội trong quá trình hội nhập. Vì vậy em xin chọn đề tài: “Ảnh
hƣởng của văn hóa phƣơng Tây đến lối sống của thanh niên Việt Nam hiện
nay”. Làm đề tài tốt nghiệp của mình.
1


2.Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu những mặt tích cực, những mặt tiêu cực từ văn hóa phƣơng Tây
đến lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay. Đồng thời trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp nhằm góp phần phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt
tiêu cực từ văn hóa phƣơng Tây đến lối sống thanh niên Việt Nam thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa phƣơng Tây,
về thanh niên Việt Nam.

Hai là, phân tích và làm rõ thực trạng ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây đến
lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay.
Ba là, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những ảnh hƣởng tích cực và
hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực từ văn hóa phƣơng Tây đến lối sống thanh niên
Việt Nam thời gian tới.
3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây đến lối
sống của thanh niên.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây đến lối
sống của thanh niên Việt Nam giai đoạn hiện nay.
4.Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp chung nhất mà đề tài sử dụng là phƣơng pháp biện chứng duy
vật, ngoài ra đề tài sử dụng các phƣơng pháp: phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp
chứng minh, phƣơng pháp so sánh.
5.Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có cấu
trúc gồm ba chƣơng, 8 tiết.

2


B. PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA PHƢƠNG
TÂY, VỀ THANH NIÊN VIỆT NAM
1.1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa phƣơng Tây.
1.1.1 Tiêu chí đánh giá và phân loại văn hóa phƣơng Tây.
Khái niệm văn hóa
Cho đến nay ngƣời ta đã thống kê có tới hàng trăm định nghĩa văn hoá. Có thể
nói có bao nhiêu nhà nghiên cứu thì có bấy nhiêu khái niệm về văn hoá.Tuy đƣợc

dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhƣng suy cho cùng, khái niệm văn hóa bao giờ
cũng có thể quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa đƣợc giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng,
theo không gian hoặc theo thời gian... Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa đƣợc hiểu
là những giá trị tinh hoa của nó nhƣ: nếp sống văn hóa, văn hóa nghệ thuật... Giới
hạn theo chiều rộng, văn hóa đƣợc dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực
nhƣ: văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh doanh... Giới hạn theo không gian, văn hóa
đƣợc dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng nhƣ: văn hóa Tây Nguyên,
văn hóa Nam Bộ... Giới hạn theo thời gian, văn hóa đƣợc dùng để chỉ những giá trị
trong từng giai đoạn nhƣ: văn hóa Hoà Bình, văn hóa Đông Sơn...
Theo nghĩa rộng, văn hóa thƣờng đƣợc xem là bao gồm tất cả những gì do
con ngƣời sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ
mục đích của cuộc sống, loài ngƣời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"[13, tr.431]. Federico
Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số ngƣời, văn hóa chỉ bao
gồm những kiệt tác trong các lĩnh vực tƣ duy và sáng tạo, đối với những ngƣời
khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác,
3


từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngƣỡng, phong tục, tập quán,
lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã đƣợc cộng đồng quốc tế chấp nhận
tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại
Venise”.[6,tr.5].
Tóm lại,văn hoá là một sản phẩm của loài ngƣời, văn hóa đƣợc tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con ngƣời và xã hội. Song, đƣợc tái tạo và phát triển

trong quá trình hành động và tƣơng tác xã hội của con ngƣời. Văn hóa là trình độ
phát triển của con ngƣời và của xã hội đƣợc biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ
chức đời sống và hành động của con chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên
con ngƣời, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa đƣợc truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa ngƣời cũng nhƣ trong
giá trị vật chất và tinh thần mà do con ngƣời tạo ra.
Văn hóa phƣơng Tây
Văn hóa phƣơng Tây, đôi khi đồng nghĩa với văn minh phƣơng Tây, lối sống
phƣơng Tây hoặc nền văn minh châu Âu, là một thuật ngữ đƣợc sử dụng rất rộng rãi
để chỉ một di sản của chuẩn mực xã hội, các giá trị đạo đức, phong tục truyền thống,
hệ thống niềm tin, hệ thống chính trị và cụ thể các đồ tạo tác và các công nghệ.
Tiêu chí phân loại văn hóa
Văn hóa là sản phẩ m của con ngƣời, cho nên viê ̣c phân loại văn hóa cầ n bắ t
đầ u tƣ̀ viê ̣c tìm hiể u sƣ̣ hình thành và phân bố các chủng ngƣời trên trái đấ t nói
chung. Lâu nay trên thế giới phổ biế n cách phân chia nhân loại thành ba đa ̣i chủng:
chủng Á (Mongoloid, trong cách nói dân gian thƣờng gọi là chủng da vàng), chủng
Âu (Europeoid, dân gian thƣờng gọi là chủng da trắ ng) và chủng Úc-Phi (AustraloNegroid, dân gian thƣờng gọi là chủng da đen). Song nhƣ̃ng nghiên cƣ́u mới hơn
trong khoa nhân chủng học cho thấ y rằ ng sƣ̣ phân loại ấy mới chỉ dƣ̣a trên các đă ̣c
điể m thích nghi về màu da, hình tóc, mũi, môi...
Căn cƣ́ vào nhƣ̃ng đă ̣c điể m trung tính, không thay đổ i trƣớc biế n đô ̣ng của
môi trƣờng nhƣ: nhóm máu, đƣờng vân tay, hình thái răng... ngƣời ta đã chia nhân
loại thành hai khố i quầ n cƣ lớn Úc-Á và Phi-Âu. Đó cũng chính là hai trung tâm
hình thành chủng tô ̣c cổ xƣa nhấ t của loài ngƣời, trung tâm phía Tây (Phi-Âu)
4


và trung tâm phía Đông (Úc-Á). Theo nhà nhân chủng học nổ i tiế ng ngƣời Nga
N.N. Cheboksarov, ngay tƣ̀ sơ kỳ đồ đá cũ đã xuấ t hiê ̣n hai trung tâm hình thành
chủng tô ̣c: sớm hơn là miề n Đông-Bắ c Phi và Tây-Nam Á, ít nhiề u muô ̣n hơn là
miề n Đông-Nam Á. Nhƣ̃ng con ngƣời muô ̣n hơn nƣ̃a thuô ̣c loại hiê ̣n đa ̣i homo

sapiens dầ n dầ n phân bố rô ̣ng rãi khắ p nơi trên trái đấ t... họ tuy còn giƣ̃ lại nhiề u
đă ̣c điể m trung tính nhƣng đồ ng thời cũng tiế p tục thích nghi với nhƣ̃ng điề u kiê ̣n tƣ̣
nhiên khác nhau để phân hóa dầ n thành các chủng tô ̣c ngày nay.
Tƣ̀ trung tâm phía Tây, con ngƣời nguyên thủy phân tán ra thành hai đa ̣i
chủng: Đa ̣i chủng Âu (Europeoid) và Đa ̣i chủng Phi (Negroid). Tƣ̀ trung tâm phía
Đông, con ngƣời nguyên thủy cũng phân tán ra thành hai đa ̣i chủng: Đa ̣i chủng Á
(Mongoloid) và Đa ̣i chủng Úc. Hai trung tâm này xuấ t hiê ̣n không đồ ng thời, trung
tâm phía Tây có trƣớc. Không loại trƣ̀ khả năng là tƣ̀ đó, loài ngƣời nguyên thủy đã
tiế n dầ n sang phía Đông để rồ i phát triể n thành trung tâm thƣ́ hai ở đây. Bởi vâ ̣y mà
trong khoa nhân chủng học, bên cạnh thuyế t khá phổ biế n về hai trung tâm hình
thành loài ngƣời, còn có thuyế t mô ̣t trung tâm. Ngoài ra, cũng còn có cả loại ý kiế n
cho rằ ng con ngƣời ngày nay xuấ t phát từ nhiề u trung tâm tồ n tạisự phân biê ̣t hai
trung tâm vƣ̀a xét thành “Tây” và “Đông” là thuầ n túy dƣ̣a vào điạ lý. Trong quá
trình phát triể n của lịch sƣ̉ nhân loại, hình thành sƣ̣ phân biê ̣t hai khái niê ̣m “phƣơng
Tây” và “phƣơng Đông”" về mă ̣t văn hóa. Sƣ̣ phân biê ̣t này do ngƣời châu Âu đă ̣t
ra: “phƣơng Tây” là khu vƣ̣c châu Âu nơi họ cƣ trú (vùng Tây-Bắ c của cƣ̣u lục điạ
Á-Âu), vùng đấ t rô ̣ng lớn phía Đông-Nam còn lại mà họ chƣa biế t tới, bao gồ m
toàn bô ̣ châu Á và mở rô ̣ng tới châu Phi, đƣơ ̣c gọi là “phƣơng Đông”. Các nhà khoa
học nghiên cƣ́u về vùng đấ t này đƣơ ̣c gọi là các nhà Đông phƣơng học.
Nế u cầ n vẽ mô ̣t đƣờng ranh giới thì đó sẽ là mô ̣t đƣờng chéo chạy tƣ̀ lƣu vƣ̣c
sông Nile tới dãy Ural, nói một cách chính xác hơn thì đƣờng ranh giới đó là cả mô ̣t
vùng đệm chạy chéo tƣ̀ Tây-Nam là châu Phi qua Ai-câ ̣p, tới Đông-Bắ c là vùng
Xibêri của nƣớc Nga. Nhƣ vâ ̣y, nế u trƣ̀ đi vùng đệm đó thì “phƣơng Đông” là khu
vƣ̣c Đông-Nam còn lại tƣ̀ Ấn Độ qua Trung Hoa tới Nhâ ̣t Bản vòng xuố ng Đông
Nam Á. Trong khi các ngôn ngƣ̃ phƣơng Tây biế n hình thì các ngôn ngƣ̃ phƣơng
Đông chủ yế u là đơn lâ ̣p, trong khi ngƣời phƣơng Tây coi trọng cá nhân thì ngƣời
5


phƣơng Đông coi trọng cô ̣ng đồ ng, trong khi ngƣời phƣơng Tây bắ t (nắ m) tay nhau

lúc gă ̣p nhau thì ngƣời phƣơng Đông tƣ̣ nắ m tay mình (chắ p tay, khoanh tay)...
Nhƣ̃ng khác biê ̣t này xƣa nay đã đƣơ ̣c nhiề u ngƣời nhắ c đến. Nguyễn Duy Cầ n
phân biê ̣t Đông-Tây bằ ng các phạm trù hƣớng nô ̣i và hƣớng ngoại, trầ m mă ̣c và
hoạt đô ̣ng, phẩ m và lƣơ ̣ng... Kim Đinh
̣ nói đến tĩnh chỉ (statique) và đô ̣ng đić h
(dynamique), vô vi và hƣ̃u vi... Còn đây là nhƣ̃ng câu thơ nổ i tiế ng của nhà thơ Anh
J. Kipling, ngƣời đã số ng nhiề u năm ở Ấn Độ: Ôi, phƣơng Tây là phƣơng Tây,
phƣơng Đông là phƣơng Đông! Họ sẽ không gă ̣p nhau, chƣ̀ng nào mà Trời chƣa gă ̣p
Đất...Nhƣng nế u không có phƣơng Đông thì làm gì có phƣơng Tây! Bởi văn hóa là
sản phẩ m của con ngƣời và tƣ̣ nhiên nên nguồ n gố c sâu xa của mọi sƣ̣ khác biê ̣t về
văn hóa chính là do nhƣ̃ng khác biê ̣t về điề u kiê ̣n tƣ̣ nhiên (điạ lý- khí hâ ̣u) và xã
hô ̣i (lịch sƣ̉ - kinh tế ) quy đinh.
̣ Môi trƣờng số ng của các cô ̣ng đồ ng cƣ dân ở
phƣơng Đông (chính xác hơn là Đông Nam) là xƣ́ nóng sinh ra mƣa nhiề u (ẩm), tạo
nên nhƣ̃ng nhƣ̃ng con sông lớn với các vùng đồ ng bằ ng trù phú. Còn phƣơng Tây
(chính xác hơn là Tây Bắ c) lại là xƣ́ lạnh với khí hâ ̣u khô, không thích hơ ̣p cho thƣ̣c
vâ ̣t sinh trƣởng, có chăng chỉ là nhƣ̃ng vùng đồ ng cỏ mênh mông. Hai loại điạ hình
đồ ng bằ ng và đồ ng cỏ dẫn đến chỗ cƣ dân của hai khu vƣ̣c phải sinh số ng bằ ng hai
nghề chủ yế u là trồ ng trọt và chăn nuôi. Kinh tế trồ ng trọt bắ t buô ̣c ngƣời dân phải
số ng đinh
̣ cƣ, vì trồ ng cái cây xuố ng thì phải chờ cho nó lớn lên, ra hoa kế t trái để
còn thu hoạch. Ấy là chƣa kể đến nhƣ̃ng loại cây lâu năm, phải trồ ng công phu, phải
chờ 5-10 năm mới có quả, rồi lại thu hoạch nhiề u lầ n. Lố i số ng chăn nuôi thì khác:
tài sản của dân du mục là đàn gia súc. Gia súc ăn cỏ và không bị cố đinh
̣ nhƣ cái
cây, ăn hế t cỏ không thể ngồ i đơ ̣i cho cỏ mọc mà phải đi tìm bãi cỏ khác. Cho nên
sống bằ ng nghề du mục là lố i số ng du cƣ - vƣ̀a đi vƣ̀a ở, nay đây mai đó lang thang.
Nghề chăn nuôi ở phƣơng Tây phổ biế n đến mƣ́c trong Kinh Thánh, tƣ̀ "cƣ̀u" đƣơ ̣c
nhắ c tới trên 5.000 lầ n, tín đồ đƣơ ̣c gọi là "con chiên", Chúa là ngƣời "chăn chiên".
Theo tác giả cuố n Lịch sƣ̉ nhân loại thì ngày xƣa, ngƣời Hy Lạp chỉ nuôi dê và cƣ̀u,

ít ngƣời làm nghề nông, phầ n đông lo viê ̣c mục súc và hàng hải, ngƣời La Mã uố ng
sƣ̃a bò, áo quầ n dê ̣t bằ ng lông cƣ̀u hoă ̣c bằ ng da thú vâ ̣t. W. Durant trong
cuố nNguồ n gố c văn minh. cho biế t: "Tại nhƣ̃ng bô ̣ lạc săn bắ n và mục súc, loài bò
6


là mô ̣t đơn vị giá trị rấ t tiê ̣n. Vào thời đa ̣i Homer ở Hy Lạp, ngƣời ta đánh giá ngƣời
và vâ ̣t bằ ng số bò bô ̣ binh giáp của Diomède đáng giá 9 con bò, mô ̣t ngƣời nô lê ̣
khéo tay đáng giá 4 con. Ngƣời La Mã cũng vâ ̣y, họ dùng hai danh tƣ̀ gầ n giố ng
nhau - pecus vàpecunia - để trỏ bò và tiề n bạc". [18, tr.97].
Về sau, các dân tô ̣c ven biể n thì phát triể n thƣơng nghiê ̣p buôn bán, các dân
tô ̣c trong lục điạ thì làm nông nghiê ̣p, nhƣng chăn nuôi vẫn là mố i quan tâm chủ
yế u của họ. Trong Hồ i ký về cuô ̣c chiế n tranh ở Gôlơ, Ju. Cesar viế t rằ ng vào thế kỷ
II tr.CN, ngƣời Giécmanh vẫn số ng cuô ̣c đời du mục, đến giƣ̃a thế kỷ I tr. CN,
ngƣời Giécmanh đã cấ y trồ ng, song họ không chí thú với cuô ̣c số ng đinh
̣ cƣ, sau
mỗi năm lại chuyể n đi nơi khác, họ đă ̣c biê ̣t không chăm làm nông nghiê ̣p mà số ng
chủ yế u bằ ng sƣ̃a và súc vâ ̣t. Còn nhà sƣ̉ học La Mã nổ i tiế ng K. Taxit (54-120
s.CN) trong tâ ̣p Giécmanh thì cho biế t Giécmanh là đấ t nƣớc giàu gia súc, ngƣời
Giécmanh thích có nhiề u gia súc vì đó là hình thƣ́c của cải duy nhấ t và dễ chịu nhấ t.
Bô ̣ Luâ ̣t Salica cho biế t vào đầ u thế kỷ VI, ngƣời Frăng làm nông nghiê ̣p nhƣng vẫn
đă ̣c biê ̣t coi trọng chăn nuôi, công xã có bãi chăn nuôi chung.
Ở phƣơng Tây, các thầ n thánh đều cƣỡi ngƣ̣a và chơi với gia súc. Tiêu chuẩ n
của mô ̣t phụ nƣ̃ quý tô ̣c là phải biế t cƣỡi ngƣ̣a. Còn các chƣ̃ đầ u của cả hai bảng chƣ̃
cái La-tinh và Hy Lạp là A và a (alpha) đều bắ t nguồ n tƣ̀ hình vẽ cái đầ u bò. Các vâ ̣t
dụng nhƣ con dấ u, đồ ng tiề n, bình nƣớc, v.v., thƣờng có hình bò, ngƣ̣a.Con ngƣời
có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Do vậy, con
ngƣời cũng có hai loại hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
Từ đó, văn hóa nhƣ một hệ thống thƣờng đƣợc chia làm hai dạng: văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần.

Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất vật chất
của con ngƣời tạo ra: đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, công cụ
sản xuất, phƣơng tiện đi lại...
Văn hóa tinh thần
Văn hóa tinh thần bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất tinh thần
của con ngƣời tạo ra: tƣ tƣởng, tín ngƣỡng - tôn giáo, nghệ thuật, lễ hội, phong tục,
7


đạo đức, ngôn ngữ, văn chƣơng... Tuy nhiên, không ít các vật dụng sinh hoạt hàng
ngày lại có giá trị nghệ thuật rất cao, ví dụ nhƣ chiếc ngai vàng đƣợc chạm trổ công
phu; ngƣợc lại, các sản phẩm tinh thần thƣờng tồn tại dƣới dạng đã đƣợc vật chất
hóa, ví dụ nhƣ pho tƣợng, quyển sách.Trong thực tế, văn hóa vật chất và tinh thần
luôn gắn bó mật thiết với nhau và có thể chuyển hóa cho nhau: không phải ngẫu
nhiên mà K.Marx nói rằng "Tƣ tƣởng sẽ trở thành những lực lƣợng vật chất khi nó
đƣợc quần chúng hiểu rõ". Bởi vậy mà tuỳ theo những mục đích khác nhau, việc
phân biệt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần sẽ phải dựa vào những tiêu chí khác
nhau. Với mục đích thực tế là phân loại các đối tƣợng văn hóa thì việc phân biệt văn
hóa vật chất và tinh thần chỉ có thể thực hiện một cách tƣơng đối căn cứ vào "mức
độ" vật chất / tinh thần của đối tƣợng văn hóa. Trong trƣờng hợp này, có thể dùng
khái niệm "mục đích sử dụng" làm tiêu chí bổ trợ: những sản phẩm làm ra trƣớc hết
để phục vụ cho các nhu cầu vật chất thì, dù có giá trị nghệ thuật cao đến mấy (nhƣ
chiếc ngai vàng đƣợc chạm trổ công phu dùng cho vua ngồi thiết triều) vẫn thuộc
dạng văn hóa vật chất; còn những sản phẩm làm ra trƣớc hết để phục vụ cho các
nhu cầu tinh thần thì, dù đƣợc vật chất hóa (nhƣ pho tƣợng, quyển sách mua về để
trƣng, để đọc), chúng vẫn thuộc dạng văn hóa tinh thần.Còn với mục đích phân loại
các giá trị, làm rõ bản chất của chúng, đƣa ra một bức tranh khoa học về văn hóa vật
chất và tinh thần thì có thể dựa hẳn vào chất liệu để phân biệt: theo đó, văn hóa vật
chất liên quan đến sự biến đổi mang tính sáng tạo thiên nhiên quanh mình thành

những sản phẩm có dạng chất liệu vật thể; còn văn hóa tinh thần thì chỉ liên quan
đến sự biến đổi thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của con ngƣời, sản phẩm của nó
là tƣ tƣởng thuần tuý, "phi vật thể". Với cách này, cùng một đối tƣợng có thể vừa có
phần giá trị vật chất, vừa có phần giá trị tinh thần của nó. Riêng về các hoạt động
thì, thông thƣờng, ngƣời ta xếp hoạt động sản xuất vật chất vào dạng văn hóa vật
chất (vì loại hoạt động này phải sử dụng nhiều năng lực cơ bắp, mồ hôi...) còn hoạt
động sản xuất tinh thần đƣợc xếp vào văn hóa tinh thần (vì loại hoạt động này chủ
yếu sử dụng năng lực trí tuệ).

8


1.1.2 Văn hóa phƣơng Tây nhìn từ góc độ triết học.
So sánh các nề n văn hóa trên thế giới, ngƣời ta thấ y chúng vô cùng đa dạng và
phong phú. Chính vì vâ ̣y mà khi nói đến chúng, ngƣời ta thƣờng liê ̣t kê. Chẳ ng hạn,
Arnold Toynbee kể ra 38 nề n văn minh thế giới, trong đó văn minh Viê ̣t Nam xế p
cạnh văn minh Triề u Tiên, Nhâ ̣t Bản. Song, cũng đã tƣ̀ lâu, ngƣời ta nhâ ̣n thấ y giƣ̃a
các nề n văn hóa có không ít nét tƣơng đồ ng.Để giải thích sƣ̣ tƣơng đồ ng này, ngƣời
ta đã đƣa ra nhiề u ý kiế n khác nhau nhƣng tƣ̣u trung lại, có thể quy về ba thuyế t .
Tƣ̀ cuố i thế kỷ XIX ởTây Âu đã phổ biế n thuyế t khuế ch tán văn hóa (cultural
diffusion) với nhƣ̃ng đa ̣i biể u nhƣ F. Ratsel, L.Frobenius, F. Grabner, W.Schmidt ở
Đức, Áo, G. Elliot Smith, W. Rivers ở Anh... Quan điể m chủ yế u của nhƣ̃ng ngƣời
theo thuyế t này là văn hóa đƣơ ̣c hình thành tƣ̀ mô ̣t trung tâm rồ i đƣơ ̣c "truyề n bá",
"lan tỏa" ra các nơi khác bằ ng cách mô phỏng hoă ̣c nhờ nhƣ̃ng cuô ̣c thiên di của các
dân tô ̣c. Có lan tỏa toàn bô ̣ hoă ̣c lan tỏa bô ̣ phâ ̣n (truyề n bá nhƣ̃ng yế u tố riêng lẻ
của mô ̣t nề n văn hóa), lan tỏa tiên phát (trƣ̣c tiế p tƣ̀ nơi phát sinh) hoă ̣c lan tỏa thƣ́
sinh. Viê ̣c cƣ̣c đoan hóa thuyế t này đã dẫn đến chỗ bị giới cầ m quyề n thƣ̣c dân lơ ̣i
dụng để đề cao dân tô ̣c này và khinh rẻ các dân tô ̣c khác, đi ngƣơ ̣c lại quyề n lơ ̣i của
con ngƣời. Đầu thế kỷ XX, tƣ̀ nhƣ̃ng ý kiế n của F. Boas, các nhà nhân chủng học
Mỹ C.L. Wisler và A.L. Kroeber đã phản đố i thuyế t khuyế ch tán văn hóa và đề xuấ t

thuyế t vùng văn hóa (cultural areas). Trên cơ sở nghiên cƣ́u văn hóa các dân tô ̣c da
đỏ Mỹ, các tác giả này đã khẳ ng đinh
̣ sƣ̣ tồ n tại của nhiề u dân tô ̣c trên cùng mô ̣t
vùng lãnh thổ mà văn hóa của họ có nhƣ̃ng điể m chung.
Tƣ̀ cách tiế p câ ̣n vùng văn hóa trên cơ sở mô ̣t đă ̣c trƣng hạn hẹp, C.L. Wisler
và mô ̣t số tác giả về sau đã đi đến kế t luâ ̣n về sƣ̣ cầ n thiế t lƣ̣a chọn mô ̣t tâ ̣p hơ ̣p
nhƣ̃ng đă ̣c trƣng, tạo nên tip, hay loại hình văn hóa vùng. Trên cơ sở quan điể m này,
tƣ̀ nhƣ̃ng năm 30, trong dân tô ̣c học Xô-viế t đã hình thành thuyế t loại hình kinh tế văn hóa mà đa ̣i biể u là N.N. Cheboksarovà mô ̣t số tác giả khác. Các học giả này cho
rằ ng trong lịch sƣ̉ văn hóa nhân loại tƣ̀ng tồ n tại ba nhóm loại hình kinh tế - văn
hóa: loại hình kinh tế - văn hóa săn bắ t, hái lƣơ ̣m và đánh cá; loại hình kinh tế - văn
hóa nông nghiê ̣p dùng cuố c và chăn nuôi, loại hình kinh tế văn hóa nông nghiê ̣p
dùng cày với sƣ́c kéo đô ̣ng vâ ̣t.
9


Mỗi mô ̣t trong ba thuyế t trên đều ít nhiề u có hạt nhân hơ ̣p lý của nó. Chúng
thƣ̣c ra không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, mỗi thuyế t thích hơ ̣p trong nhƣ̃ng
điề u kiê ̣n khác nhau. Thâ ̣t vâ ̣y, nế u các dân tô ̣c chủ nhân của các nề n văn hóa, cũng
nhƣ các ngôn ngƣ̃ của họ, xuấ t phát tƣ̀ cùng mô ̣t gố c thì giƣ̃a văn hóa gố c và các
nề n văn hóa này có thể có quan hê ̣ "khuyế ch tán", "lan tỏa".Nế u các nề n văn hóa
gầ n gũi nhau về điạ lý thì chúng có thể tƣ̀ tiế p xúc đến giao lƣu với nhau, và trong
viê ̣c giao lƣu ấy có thể xảy ra hiê ̣n tƣơ ̣ng nhƣ̃ng yế u tố của nề n văn hóa này thâm
nhâ ̣p vào nề n văn hóa kia (tiế p thu thụ đô ̣ng) hoă ̣c nề n văn hóa này vay
mƣơ ̣n nhƣ̃ng yế u tố của nề n văn hóa kia (tiế p thu chủ đô ̣ng), rồ i trên cơ sở nhƣ̃ng
yế u tố nô ̣i sinh (endogenous) và ngoại sinh (exogenous) ấy mà điề u chỉnh, biế n cải
cho phù hơ ̣p, gây ra sƣ̣ tiế p biế n văn hóa. (acculturation). Các nề n văn hóa gầ n gũi
và giao lƣu với nhau này tạo nên nhƣ̃ng vùng văn hóa. Cũng có thể phân biê ̣t vùng
văn hóa ngay trong nô ̣i bô ̣ mô ̣t nề n văn hóa. Sƣ̣ tiế p biế n văn hóa cũng có thể xảy ra
khi các nề n văn hóa tuy ở cách xa nhau nhƣng đã có điề u kiê ̣n tiế p xúc với
nhau.Nế u các nề n văn hóa mă ̣c dù ở xa nhau và chƣa bao giờ gă ̣p gỡ nhau nhƣng lại

nằ m trong nhƣ̃ng điề u kiê ̣n tƣ̣ nhiên và xã hô ̣i tƣơng đồng thì chúng cũng có thể có
nhƣ̃ng nét giố ng nhau. Sản phẩ m của hai trƣờng hơ ̣p này là nhƣ̃ng đă ̣c trƣng loại
hình. Đặc trƣng loại hình càng mạnh và rõ ở các nề n văn hóa cùng gố c hoă ̣c gầ n gũi
nhau về điạ lý. Chính vì vâ ̣y mà các nhà dân tô ̣c học Xô-viế t đã phân biê ̣t khái niê ̣m
"loại hình kinh tế - văn hóa" với khái niê ̣m "vùng văn hóa - lịch sƣ̉": Nế u vùng văn
hóa - lịch sƣ̉ là mô ̣t không gian điạ lý liên tục thì loại hình kinh tế - văn hóa có thể
bao gồ m cả nhƣ̃ng khu vƣ̣c điạ lý khác nhau.
Các thuyế t và các khái niê ̣m nêu trên đều có thể đƣơ ̣c vâ ̣n dụng ở nhƣ̃ng mƣ́c
đô ̣ khác nhau. Chẳ ng hạn, lý thuyế t vùng văn hóa sẽ rấ t hƣ̃u hiê ̣u cho viê ̣c xác đinh
̣
các vùng văn hóa của ngƣời Viê ̣t và các dân tô ̣c ít ngƣời nhƣ văn hóa sông Hồ ng,
văn hóa đồ ng bằ ng sông Cƣ̉u Long, văn hóa Tây Nguyên... Lý thuyế t về sƣ̣ lan tỏa
thích hơ ̣p cho viê ̣c giải thích sƣ̣ tƣơng đồ ng văn hóa giƣ̃a Đông Nam Á lục địa và
Đông Nam Á hải đảo... Song, để làm sáng tỏ bản sắ c của văn hóa Viê ̣t Nam, điề u
quan trọng hơn là cầ n nêu đƣơ ̣c sƣ̣ đồ ng nhấ t và khác biê ̣t giƣ̃a nó với các nề n văn
hóa khu vƣ̣c (nhƣ Trung Hoa) và thế giới (nhƣ phƣơng Tây). Trong sƣ̣ so sánh này,
10


viê ̣c xác đinh
̣ loại hình văn hóa là hế t sƣ́c quan trọng. Chỉ ra đƣơ ̣c các loại hình với
mƣ́c đô ̣ khái quát cao và nhƣ̃ng đă ̣c trƣng của mỗi loại, ta có thể căn cƣ́ vào đó mà
xế p bấ t kỳ mô ̣t nề n văn hóa nào vào mô ̣t trong các "ô" phân loại đã có. Ba loại hình
kinh tế - văn hóa của N.N. Cheboksarothiên về các đă ̣c điể m mang tính lịch sƣ̉ kinh tế mà chƣa đồ ng thời phản ánh đƣơ ̣c các đă ̣c trƣng điạ lý - khu vƣ̣c là điề u
không kém phầ n quan trọng đố i với viê ̣c xác đinh
̣ mô ̣t nề n văn hóa.
1.1.3 Văn hóa phƣơng Tây nhìn từ góc độ xã hội hiện nay.
Chúng ta đang bƣớc vào thời kì hội nhập của toàn cầu hóa. Đất nƣớc đang
bƣớc những bƣớc khá quan trọng trên đà tăng trƣởng kinh tế, những tiến bộ khoa
học ngày một ứng dụng rộng rãi. Con ngƣời đang bƣớc vào thời kỳ mà hàng hóa vật

chất lan tràn và phong phú. Có thể nói mọi nhu cầu của con ngƣời đều đƣợc đáp
ứng một cách nhanh chóng, ngƣời ta không nghĩ đến chuyện “ăn no mặc ấm” nửa
mà thay vào đó là “ăn ngon mặc đẹp”, bên cạnh đó thời kì hội nhập văn hóa với
việc du nhập văn hóa phƣơng Tây ngày càng nhanh. Sự phát triển và hội nhập văn
hóa phƣơng Tây đó tác động nhanh và mạnh nhất đối với giới trẻ, với thanh niên.
Bởi thanh niên mang trong mình sức sống dồi dào, mang trong mình một bầu nhiệt
huyết sôi sục. Thanh niên là ngƣời rất năng động, tích cực trong mọi việc, trong mọi
vấn đề của cuộc sống, kể cả tình yêu. Thanh niên cũng là ngƣời dồi vào tình cảm,
nhạy bén trong sự cảm thụ cái hay, cái đẹp của cuộc đời.
Dƣới cái nhìn của xã hội thì ở đâu và thời nào, thanh niên luôn đƣợc xem là
tƣơng lai của quốc gia, là giƣờng cột của nƣớc nhà, là tinh hoa của dân tộc. Bởi lẽ
trong một xã hội, thanh niên luôn là sức mạnh nội lực, là sự sống còn của cả dân
tộc, họ phải lèo lái, dẫn dắt con thuyền dân tộc tiến vào tƣơng lai trong sự thành đạt
và tiến bộ của nhân loại. Mặt khác thanh niên luôn là cầu nối giữa quá khứ của dân
tộc và tƣơng lai của thế giới, là nơi lƣu giấu và cất giữ những nét đẹp văn hóa
truyền thống của dân tộc để chuyển trao cho lớp thế hệ trẻ mai sau. Thế nên, thanh
niên đóng một vai trò quan trọng đối với quê hƣơng và đất nƣớc, có trách nhiệm và
nhiệm vụ nặng nề đối với dân tộc và quốc gia. Ý thức đƣợc nghĩa vụ thiêng liêng ấy
thanh niên phải luôn biết đóng góp công sức và trí tuệ làm cho quốc gia trở nên
“Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Muốn đƣợc nhƣ vậy
11


thanh niên phải là những ngƣời đang sống, đang hình thành, đang lớn dần, đang
muốn khẳng định, muốn trƣởng thành, bộc lộ, hội nhập, thành công, và muốn cảm
thấy mình có ích cho cộng đồng, cho ngƣời khác, cho gia đình và xã hội. Họ đang
sống quanh ta và muốn hòa nhập vào trong đó một sức sống, một lý tƣởng và mục
đích rõ rệt, muốn đóng góp sức mình vào đó. Họ muốn tạo cho họ một cuộc sống có
ý nghĩa cho bản thân và cho đời, Thanh niên chính là giai đoạn sung mãng nhất của
cuộc đời. Nhƣng cũng đầy mơ mộng, luôn muốn đƣợc đổi mới đƣợc nỗi trội, muốn

đƣợc ngƣời ta ca tụng. Chính vì thế mà họ luôn tìm cách theo đuổi những giá trị,
những phƣơng cách sống nhằm thỏa mãn họ. Họ luôn khát khao cái mới, cái nổi
trội, vì thế mà họ luôn tìm mọi cách để nổi trội, để đổi mới, không chịu gò bó trong
một khuôn khổ nào cả.
Ngày nay thanh niên có trong tay của mình sức khỏe, sự cƣờng tráng, sự liều
lĩnh, ý chí vƣợt khó sự hăng hái xã thân, lòng nhiệt thành. Họ có kiến thức, kiến
thức sống và kiến thức hội nhập bạn bè, hàng xóm, gia đình. Họ có đủ điều kiện để
có một lý tƣởng sống chính đáng, có một đích hƣớng đến cái hay cái đẹp, một hy
vọng tràn về tƣơng lai.
1.2 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thanh niên Việt Nam
Từ góc độ xã hội học, thanh niên đƣợc xem là một nhóm xã hội của những
ngƣời “mới lớn”. Khi nghiên cứu về lối sống thanh niên PGS.TS Phạm Hồng Tung
cho rằng: tuổi thanh niên là độ tuổi quá độ từ trẻ con sang ngƣời lớn trong cuộc đời
mỗi ngƣời. Nhà khoa học này cũng khẳng định: đây là một nhóm động, không ổn
định, nó nhƣ một dòng chảy, thƣờng xuyên đón nhận những thành viên mới và chia
tay với những ngƣời đã trƣởng thành, vƣợt quá phạm vi lứa tuổi của nhóm.
Từ góc độ tâm lý học, thanh niên là một độ tuổi, ở giữa lứa tuổi trẻ em và
trƣởng thành. Ở giai đoạn này, sự phát triển về thể chất đạt đến đỉnh cao. Tuy nhiên,
các yếu tố tâm lý mới đƣợc định hình và ổn định một cách tƣơng đối. Thanh niên có
sự khác biệt lớn về nhiều mặt (tuổi, nơi sinh sống, nghề nghiệp…), do đó, các đặc
điểm tâm lý của thanh niên rất phong phú, đa dạng, tuy nhiên, chúng có một tính
chất chung, đó là tính trẻ. Tính trẻ đƣợc thể hiện ở sự năng động, nhiệt huyết, chấp

12


nhận mạo hiểm, giàu mơ ƣớc và hoài bão lớn, thích cái mới, thích giao lƣu, học hỏi
và mong muốn có những đóng góp cho xã hội để khẳng định bản thân.
Từ góc độ pháp luật, theo điều 1, Luật Thanh niên năm 2005: thanh niên là
công dân Việt Nam từ mƣời sáu tuổi đến ba mƣơi tuổi.

Phạm vi tuổi của thanh niên khá rộng (từ 16 đến 30). Vì vậy, xét từ góc độ
nghề nghiệp của họ, trong thanh niên có nhiều nhóm nhỏ khác nhau. Nhóm trẻ tuổi
nhất đang chuẩn bị kết thúc những năm học phổ thông, mối quan tâm lớn nhất của
họ là lựa chọn nghề, chọn trƣờng để tiếp tục học cao hơn, hoặc bƣớc vào nghề, một
bộ phận khác đang ngồi trên ghế các trƣờng cao đẳng, đại học, tiếp thu kiến thức và
kỹ năng chuyên môn ở trình độ cao để trở thành nguồn nhân lực chất lƣợng cao của
đất nƣớc, một bộ phận khác mới bƣớc vào hoạt động nghề nghiệp, đang ứng phó
với những khó khăn, thử thách ban đầu của hoạt động này, bên cạnh đó, một bộ
phận thanh niên đã khẳng định đƣợc vị trí nghề nghiệp của mình, có những cống
hiến nhất định cho xã hội. Ngày nay, nhờ sự phát triển nhanh của công nghệ - một
lĩnh vực có rất nhiều đặc điểm phù hợp với tâm lý thanh niên, đƣợc thanh niên ƣa
thích và tích cực vận dụng vào chuyên môn, không ít thanh niên đã sớm đạt đƣợc
thành tựu lớn, nhanh chóng khẳng định bản thân.Với sự nhanh nhạy, nhiệt huyết
của tuổi trẻ, dám nghĩ, dám làm và sức khỏe tốt, thanh niên đƣợc xem là lực lƣợng
lao động chủ chốt của xã hội. Từ những cơ sở trên, có thể định nghĩa thanh niên
Việt Nam nhƣ sau: Thanh niên Việt Nam là những ngƣời từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi,
gồm những ngƣời có sức khỏe thể chất đạt đến đỉnh cao, năng động, nhiệt huyết,
dám nghĩ, dám làm, thích giao lƣu, học hỏi để nâng cao trình độ về mọi mặt, mong
muốn đƣợc đóng góp cho xã hội để khẳng định bản thân. Họ là một lực lƣợng quan
trọng của xã hội hiện tại cũng nhƣ trong tƣơng lai.
Đứng trƣớc tình hình hiện nay, với vị trí, vai trò là ngƣời chủ hiện tại và tƣơng
lai của nƣớc nhà, thanh niên Việt Nam chiếm gần 30% dân số, là lực lƣợng sung
mãn về thể lực, giàu khát vọng, hoài bão, có nhu cầu, có khả năng tiếp thu nhanh
nhạy những thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật và quản lý hiện đại trên thế
giới, năng động sáng tạo, chủ động học hỏi những cái mới, cái tiến bộ của nhân loại.
Vì vậy, cùng với sự phát triển của đất nƣớc, thái độ và ý thức chính trị của thanh
13


niên đã có những chuyển biến tích cực, thanh niên ngày càng quan tâm và có trách

nhiệm hơn đối với những vấn đề của quê hƣơng, đất nƣớc, những vấn đề trong khu
vực và trên thế giới. Ý thức lập nghiệp của thanh niên cũng cao hơn, tinh thần xung
phong, tình nguyện, ý thức chia sẻ, tinh thần tƣơng thân, tƣơng ái đã đƣợc khơi dậy
với một chất lƣợng mới, thanh niên đã chủ động và tự tin hơn trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thanh
niên đang đứng trƣớc nhiều khó khăn thách thức lớn đó là: trình độ học vấn, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức kinh tế, quản lý, kiến thức pháp luật và ý thức
chấp hành pháp luật của thanh niên nhìn chung còn thấp. Trong thanh niên nhận
thức về học nghề, chọn nghề, định hƣớng nghề nghiệp còn nhiều lệch lạc, việc làm
và thu nhập thấp vẫn đang là những vấn đề bức xúc trong thanh niên. Rồi sức khoẻ
và thể chất của thanh niên nƣớc ta còn thấp hơn các nƣớc trong khu vực và trên thế
giới rất nhiều, bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ trong thanh niên thiếu ý thức rèn
luyện để hoàn thiện nhân cách của mình, non kém về nhận thức chính trị, chƣa xác
định đƣợc lý tƣởng sống đúng đắn…Trƣớc những thuận lợi và khó khăn của đất
nƣớc cũng nhƣ của bản thân mình, hơn lúc nào hết thanh niên Việt Nam phải nhận
thấy rõ vị trí, vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nƣớc. Phải nhận thức
đƣợc khó khăn lớn nhất của mình trong giai đoạn này là sự cạnh tranh quyết liệt về
trí tuệ để đạt tới những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng nhƣ trình
độ quản lý. Để vƣợt qua đƣợc khó khăn đó, đòi hỏi rất cao ở thanh niên là phải tự
học tập, tự rèn luyện để nâng cao trình độ về mọi mặt, phải trau dồi bản lĩnh chính
trị, giữ vững lý tƣởng, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh với vai trò là chủ thể tích cực, là lực lƣợng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Để cùng đất nƣớc vƣợt qua những khó khăn, trƣớc mắt mỗi thanh niên phải nỗ
lực nhiều hơn, đặc biệt là phải mở rộng tầm hiểu biết của mình về tình hình thế giới
để có tƣ duy, hành động phù hợp hơn. Đây vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là
quyền lợi của thanh niên, của tổ chức đoàn để cùng đất nƣớc gặt hái đƣợc nhiều
thành công trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

14



Chƣơng 2
THỰC TRẠNG ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HÓA PHƢƠNG TÂY ĐẾN LỐI
SỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
2.1 Những ảnh hƣởng tích cực từ văn hóa phƣơng Tây đến lối sống của thanh
niên Việt Nam.
Bác Hồ đã từng nói:“…Thanh niên là rƣờng cột nƣớc nhà, đâu cần thanh niên
có đâu khó có thanh niên…” Điều đó khẳng định vai trò của thanh niên là vô cùng
to lớn và bao trùm rất nhiều lĩnh vực. Con ngƣời là chủ thể của văn hóa, là tác nhân
chính tạo nên các giá trị văn hóa thông qua quá trình phát triển của mình, vì vậy con
ngƣời có vai trò quy định bản sắc của nền văn hóa. Trong mối quan hệ giữa con
ngƣời với con ngƣời hay con ngƣời với thiên nhiên thì thanh niên vẫn đóng một vai
trò quan trọng trong việc xây dựng bản sắc văn hóa nói chung và xây dựng nếp sống
văn hóa nói riêng. Hơn nữa thanh niên vốn là lực lƣợng tiên phong trong các hoạt
động, trong đó có các hoạt động văn hóa – xã hội của cộng đồng. Chính vì tham gia
thƣờng xuyên vào các hoạt động văn hóa – xã hội nên họ là tác nhân trực tiếp tác
động tích cực đến bản sắc văn hóa. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi chúng ta
đang tiến hành hội nhập để phát triển kinh tế – văn hóa, điều đó đồng nghĩa với việc
chúng ta phải chấp nhận sự hòa nhập, giao thoa văn hóa. Cùng với đó là thời đại
công nghệ thông tin bùng nổ, các phƣơng tiện thông tin ngày càng phong phú, đặc
biệt là sự phát triển của công nghệ internet. Tất cả sự thay đổi trên đã tác động rất
lớn đến bản sắc văn hóa dân tộc. Thanh niên là đố i tƣơ ̣ng bi ̣ảnh hƣởng nhiề u nhấ t ,
bởi họ là những ngƣời trẻ tuổi, năng động và rất nhạy bén trong việc tiếp thu các
loại hình văn hóa. Thanh niên là đối tƣợng dễ tiếp thu văn hóa từ đó dễ thay đổi nếp
sống văn hóa đã có sẵn, vì vậy có thể nói thanh niên giữ vai trò quan trọng trong
việc giữ gìn, xây dƣ̣ng và tiế p thu văn hóa.
2.1.1 Cách ứng xử của phương tây tác động tích cực đến lối sống của thanh niên
Việt Nam.
Trong cuộc sống, giao tiếp hằng ngày con ngƣời phải ứng phó với biết bao

tình huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc thật phức tạp, khó xử. Xã hội càng văn
minh thì nhu cầu ứng xử của con ngƣời càng cao. Ứng xử một cách thông minh,
15


khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức độ nghệ thuật, ngày nay đƣợc
coi nhƣ là bí quyết thành công trong cuộc sống và trong công việc.
Văn hoá ứng xử và văn minh giao tiếp là một phạm trù rất rộng gồm cử chỉ,
lời nói, hành vi thể hiện và cả trang phục phù hợp. Trong xã hội ngày càng văn
minh, hiện đại thì những quy tắc, những phong cách giao tiếp lịch sự, văn minh ấy
càng cần đƣợc thể hiện. Những việc tƣởng chừng nhƣ đơn giản ấy, thực ra lại rất
quan trọng và mang lại một giá trị to lớn. Cái đẹp đã tạo ra thế giới và nó luôn hiện
hữu quanh ta. Nhƣng trong dòng chảy hối hả của cuộc sống, có một lúc nào đó
ngƣời ta vô tình bỏ qua nhiều giá trị cao đẹp. Đã có một số quan niệm cho rằng, với
tốc độ phát triển nhƣ vũ bão hiện nay, với xu thế toàn cầu hoá nhanh và mạnh của
thời đại, dần dần xã hội sẽ đƣợc duy trì bằng pháp luật và đô la. Nếu bình tĩnh suy
nghĩ lại, văn hoá là cái đẹp nhân bản kết tinh từ những tinh hoa của nhân loại. Đây
mới chính là nền tảng vững chắc nhất để duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Hải
Thƣợng lãn ông Lê Hữu Trác - danh y từ Thế kỷ XVIII - trong Y huấn cách ngôn
ông đã viết: "Khi gặp những ngƣời cùng ngành nghề, nên khiêm tốn hoà nhã, cẩn
thận, chớ nên coi rẻ xem hơn. Đối với ngƣời cao tuổi thì nên cung kính lễ phép. Đối
với ngƣời giỏi hơn mình thì phải tôn thờ nhƣ bậc thầy. Đối với kẻ kiêu ngạo thì
nhún nhƣờng. Đối với những ngƣời non nớt thì nên dìu dắt giúp đỡ họ".[16, tr.51].
Văn hoá ứng xử là một nghệ thuật nhƣng nó không phải đến mức nghệ thuật
hoá. Nghệ thuật ứng xử bao giờ cũng xuất phát từ cuộc sống chân thực, lối sống thật
thà, thái độ của nhân sinh quan và tâm lý sâu sắc, không rắp tâm làm những điều mà
mình và ngƣời khác không mong muốn. Nếu một ngƣời có trái tim nhân hậu của
ngƣời mẹ hiền, có bộ não uyên bác của nhà khoa học, có tâm hồn lãng mạn của một
nghệ sỹ, có bàn tay khéo léo của một nghệ nhân, thì nghệ thuật ứng xử sẽ tự nhiên
thấm ngấm vào cuộc sống hàng ngày của họ. Nghệ thuật ứng xử không tự nhiên mà

có, nó càng không thể xây dựng trên một nền tảng tâm hồn và trí tuệ nghèo nàn, nó
là kết quả của cả một quá trình nhận thức và rèn luyện không ngừng của bản thân.
Chỉ để hoàn thành tốt nhiệm vụ và công việc chuyên môn thì dễ, nhƣng xử thế với
mọi ngƣời xung quanh mình mới khó. Giao tiếp vừa là một nhu cầu, vừa là một
nghệ thuật. Trong cuộc sống hàng ngày, để hiểu biết nhau, trao đổi tin tức, phổ biến
16


kiến thức cho nhau, con ngƣời cần phải sử dụng ngôn ngữ, nét mặt, thái độ, dáng
điệu, cử chỉ... hay còn gọi là phong cách ứng xử phi ngôn ngữ và ứng xử bằng ngôn
ngữ. Tình cảm sâu kín của con ngƣời có thể đƣợc biểu lộ qua nét mặt, nụ cƣời, thái
độ, ánh mắt, cử chỉ, động tác hình thể. Một nghiên cứu xã hội học về kỹ năng giao
tiếp ở phƣơng tây cho thấy, phong cách ứng xử phi ngôn ngữ đóng góp khoảng 90%
trong việc giao tiếp giữa con ngƣời với nhau. Từ nét mặt của mỗi ngƣời, hoặc kiêu
hãnh tự hào, hoặc trầm tƣ đăm chiêu, hoặc nghiêm nghị, hoặc mỉm cƣời, hoặc cuời
nhạt hay cƣời không thành tiếng, dáng đi từ tốn, thái độ lịch sự... chỉ cần để ý quan
sát là có thể phần nào hiểu đƣợc tính cách của con ngƣời đó. Những ngƣời tầm
thƣờng hay có những hành động manh mún khuất tất, cử chỉ dung tục, ánh mắt soi
mói, gây khó chịu cho những ngƣời xung quanh. Những ngƣời lịch sự thƣờng có
những hành động đàng hoàng, cử chỉ thanh cao, rất dễ đƣợc lòng ngƣời khác."Lời
nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Bản tính con ngƣời là
muốn đƣợc sẻ chia. Tri thức, niềm vui kể cho một ngƣời nghe sẽ đƣợc nhân lên
thành hai, nỗi buồn kể cho một ngƣời nghe sẽ giảm đi một nửa. Ngôn ngữ là công
cụ quan trọng nhất của giao tiếp. Mọi khổ đau bất hạnh trên đời này đều từ lời nói
mà ra. Lời nói khởi đầu cho tất cả sự việc. Lời nói xấu thƣờng mang tai hoạ cho bản
thân và cho ngƣời khác. Ngƣợc lại, lời nói đẹp mang đến cho cuộc sống sự bình yên
hạnh phúc. Ngƣời xƣa có câu "Bệnh tòng khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất", nghĩa là:
bệnh từ miệng mà vào, hoạ từ miệng mà ra. Tai họa do trời gây ra có thể tránh, còn
tai hoạ do lời nói của mình gây ra thì khó tránh khỏi. Bởi vậy con ngƣời mới phải
học cách nói năng giao tiếp. Sửa đƣợc ngôn ngữ giao tiếp nghĩa là đã sửa đƣợc tâm

tính, giảm bớt đƣợc khẩu nghiệp. Không thể cầu mong nghe đƣợc những lời nói dịu
dàng trong khi chính bản thân chƣa làm đƣợc nhƣ vậy.
Lời nói dễ nghe, êm ái, ngọt ngào bao giờ cũng xuất phát từ một tâm hồn cao
đẹp, một tấm lòng nhân ái bao la, nó có tác dụng động viên, an ủi ngƣời nghe, làm
cho ngƣời nghe có cảm tình, tạo dựng niềm tin và làm theo lời nói ấy. "Chim khôn
hót tiếng rảnh rang, ngƣời khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe". Cùng một nội dung
của lời nói, nhƣng tùy theo giọng nói, tùy theo cách nói mà hai ngƣời có thể cảm
thông cho nhau, nhƣng cũng có thể gây trách cứ, hiểu lầm nhau. Trong giao tiếp,
17


ngôn ngữ nói phải hấp dẫn, lôi cuốn, mạch lạc, dễ hiểu câu nói có đầy đủ cụm chủ
vị, đơn giản nhƣng hàm ý sâu xa. Ngƣời nói phải có sự chuẩn bị trƣớc, không nói
bừa, nói ẩu, nói không suy nghĩ. Phải hiểu và nắm bắt đƣợc tâm lý ngƣời nghe, đặt
mình vào vị trí ngƣời nghe. Phải luôn tôn trọng ngƣời nghe, xƣng hô đúng mực,
tuyệt đối không dùng những từ miệt thị nhƣ: mày, tao, thằng, con, nó, cái. Trong
ngôn ngữ giao tiếp đòi hỏi con ngƣời phải luôn luôn tế nhị và nhạy cảm. Có những
điều nói ra để góp ý cho ngƣời khác là không sai, nhƣng cần bình tĩnh, không nên
góp ý theo phản ứng, mà phải chọn thời điểm thích hợp. Ngƣời có trách nhiệm với
lời nói của mình là phải biết chọn đúng thời điểm thích hợp để nói, đó là khi bản
thân mình và ngƣời nghe đều đang ở trong trạng thái thoải mái, bình tĩnh, không hề
nóng giận. Bằng không, ngƣời nghe sẽ hiểu lầm, sẽ tìm cách phản ứng chống đối
lại, hoặc ít nhất cũng gây cho họ sự lúng túng khó xử. Một ngƣời mắc phải sai lầm
nhƣng họ đã nhận ra và đang có thái độ tích cực sửa chữa thì tốt hơn hết là không
nên góp ý với họ. Tranh luận về một vấn đề nào đó là rất tốt, nhƣng mục đích của
tranh luận là phải đi tới tận cùng vấn đề, phải tìm ra sự đúng sai để rút kinh nghiệm,
cho nên ngƣời nói và ngƣời nghe phải cùng có thiện chí.
Bản tính con ngƣời ai cũng muốn nhận đƣợc những lời khen. Lời khen khéo
léo và thành thật không phải là lời tâng bốc, phỉnh nịnh. Không nên nói những lời
khách sáo hoa mỹ, đề cao quá đáng, chót lƣỡi đầu môi. Dùng lời nói tâng bốc để

khen một ngƣời chính là đã xỉ nhục họ, xỉ nhục bản thân mình. Không nên chửi
mắng, nói lời châm chích cay nghiệt, nói lời không tử tế, lời tự cao tự đại, nói dối,
nói sau lƣng ngƣời, xúc giục gây mất đoàn kết. Nên biết cách lặng im và lắng nghe
ngƣời khác nói.Văn hoá ứng xử và văn minh giao tiếp nó là những cánh hoa thơm
lan toả về muôn nẻo đƣờng dựng xây đất nƣớc, nó đọng lại trong ta những tình cảm
tốt lành. Để có đƣợc văn hoá ứng xử tốt mỗi ngƣời phải không ngừng rèn luyện
nâng cao kỹ năng giao tiếp cũng nhƣ nỗ lực trao dồi những kiến thức và kinh
nghiệm trong cuộc sống. Tri thức nhân loại cùng với những trải nghiệm trong cuộc
sống là cơ sở vững chắc nhất để từ đó con ngƣời đạt tới nghệ thuật trong văn hoá
ứng xử. Cũng nhƣ ở các nƣớc khác, ở Hoa kỳ bắt tay là một cách chào phổ biến.
Chúng ta có thể bắt tay cả đàn ông và phụ nữ ở những lần gặp nhau đầu tiên hoặc
18


sau đó. Ngƣời Mỹ có thói quen bắt tay chặt dùng cả bàn tay chứ không phải chỉ
ngón tay (không có nghĩa là bóp chặt đến mức làm đau tay ngƣời khác) để thể hiện
sự thân thiện và nhiệt tình. Bắt tay lỏng lẻo có thể bị coi là không chắc chắn, thiếu
tự tin, và thậm chí là hờ hững trong quan hệ. Rất ít khi thấy ngƣời Mỹ dùng cả hai
tay để bắt tay. Thỉnh thoảng đàn ông với đàn bà hoặc đàn bà với đàn bà chào nhau
bằng cách ôm, và thậm chí cọ má vào nhau hoặc hôn nhẹ lên má nhau. Hình thức
chào này thƣờng chỉ dành cho những ngƣời là bạn bè lâu, hoặc ít nhất cũng đã quen
nhau. Ngoài ra, ngƣời Mỹ rất ít đụng chạm vào nhau.
Đối với những nơi công cộng: tiếng xin lỗi và lời cám ơn luôn đƣợc sử dụng
nơi công cộng nhƣ siêu thị, nhà hàng, xe buýt... Khi lên xuống xe buýt, hành khách
chào tài xế và ngƣợc lại. Khi vào cửa bất cứ nơi nào, ngƣời đi trƣớc đứng lại giữ
cửa cho những ngƣời đi sau bƣớc vào xong mới đến phiên mình và ngƣời đi sau
luôn nói tiếng cám ơn ngƣời đã giữ cánh cửa cho mình đi vào. Khi có sự cố va
chạm xảy ra thì lời xin lỗi luôn đƣợc vui vẻ chấp nhận. Mọi ngƣời luôn nhƣờng
nhịn nhau trong giao tiếp, nhất là xếp hàng theo thứ tự không bao giờ chen lấn
giành chỗ cho dù bạn là ai.

Cách ứng xử trong việc lƣu thông trên đƣờng: không có chuyện phóng nhanh,
giành đƣờng, vƣợt ẩu trên đƣờng. Mọi ngƣời chấp hành luật giao thông nhƣ là một
nét văn hóa của ngƣời lái xe. Đặc biệt ở ngã tƣ khi đèn tín hiệu giao thông bất ngờ
trục trặc không hoạt động hay báo hiệu không đúng, thì mọi ngƣời nhƣờng nhau,
mỗi chiều di chuyển khoảng 4, 5 chiếc sau đó tự động nhƣờng đƣờng cho chiều kia
đi. 4, 5 chiếc cứ thế lần lƣợt mà đi không xảy ra kẹt xe dù không có cảnh sát ở đó. Ở
Mỹ có luật cấm uống rƣợu bia khi lái xe, nhƣng điều quan trọng là ý thức tự giác
của mọi ngƣời, hầu nhƣ không ai uống rƣợu bia khi lái xe.
Những con đƣờng nội bộ trong siêu thị, khu mua sắm, khu dân cƣ khi gặp ngƣời đi
bộ băng ngang qua thì tất cả lái xe phải dừng lại nhƣờng đƣờng sau đó mới chạy
tiếp. Xe hơi chạy rất nhiều trên đƣờng cũng nhƣ trong trung tâm thành phố nhƣng
không có một tiếng còi xe. Giữa đêm khuya vắng vẻ không có chiếc xe nào qua lại
nhƣng ngƣời lái xe vẫn chờ đèn xanh ở ngã tƣ bật sáng lên rồi mới tiếp tục chạy.

19


Cách ứng xử nơi công sở, bệnh viện: khi đến công sở, điều đầu tiên nhận đƣợc
là lời chào hỏi của nhân viên làm việc và hỏi anh (chị) có cần đƣợc giúp không? sau
đó rất vui vẻ giải quyết công việc cho bạn đến khi xong và không quên chúc bạn có
một ngày tốt đẹp. Trong bệnh viện, khi bạn đến nhân viên hành chánh nhanh chóng
làm các thủ tục, các cô y tá niềm nở đón bạn vào phòng chờ đợi, sau đó họ đi mời
bác sĩ đến khám bệnh. Các bác sĩ khám bệnh rất tận tình, nói chuyện nhỏ nhẹ với
ngƣời bệnh, thật tuyệt vời trong giao tiếp với bệnh nhân làm cho bệnh nhân cảm
thấy bệnh tình cũng đƣợc thuyên giảm phần nào.
Cách ứng xử trong mua sắm: hàng hóa bạn mua đƣợc đổi hay trả lại trong
vòng một tháng sau khi sử dụng nếu bạn cảm thấy không thích nó và ngƣời bán vui
vẻ nhận lại. Tại mỗi nơi mua sắm đều có một quầy chuyên nhận lại hàng hoá đã bán
mà khách đem trả lại, mọi ngƣời đều vui vẻ không có tiếng cãi vã giữa ngƣời mua
và ngƣời bán. Ở Mỹ khi mua nhà cũng đƣợc trả lại cho ngƣời chủ trong một tháng

vào ở nếu bạn không thích ngôi nhà đó nữa.
Còn ứng xử với ngƣời tàn tật: tất cả xe buýt công cộng đều thiết kế bộ phận
nâng và hạ ngƣời ngồi trên xe lăng lên xuống xe buýt và đƣợc mọi ngƣời nhƣờng
cho đi lên hay xuống trƣớc, trên xe có chỗ dành riêng cho họ. Tại các bãi đậu xe
đều có nơi đậu xe hơi riêng của ngƣời tàn tật. Các siêu thị có loại xe đặc biệt giúp
họ di chuyển lựa chọn hàng hóa trong siêu thị. Trong thiết kế đƣờng xá ở Mỹ các
vỉa hè đều có độ dốc thoai thoải với mặt đƣờng tại các giao lộ ngã ba hay ngã tƣ, để
ngƣời tàn tật ngồi xe lăn tự mình điều khiển lên xuống vỉa hè dễ dàng. Do đó họ có
thể đi dạo phố một mình nhƣ ngƣời bình thƣờng. Nhìn chung ngƣời tàn tật ở Mỹ
đƣợc xã hội quan tâm giúp đỡ và hoà nhập tốt với cộng đồng.
Văn hóa ứng xử với thiên nhiên: Các loài chim hoang dã nhƣ vịt trời, mòng
biển, quạ, bồ câu... sinh sống, tụ tập đông đúc và thân thiện bên cạnh con ngƣời đi
chơi xung quanh hồ. Khi đi chơi trên núi, mọi ngƣời có thể gặp những đàn nai, dê
núi bình thản ngậm cỏ trên vách núi gần đƣờng xe chạy qua mà không hề sợ sệt vì
chúng không bị ai săn bắt cả.
Thậm chí ăn xin cũng có văn hóa ứng xử của ngƣời ăn xin, họ không bao giờ
đeo bám, kể lể hay chìa tay trƣớc mặt ngƣời đi đƣờng. Họ thƣờng đứng ở ngã tƣ có
20


đèn giao thông xe cộ hay dừng lại và cầm tấm bản nhỏ ghi chữ "cần giúp đỡ" hay
ngồi một chỗ xin nơi có đông ngƣời qua lại mà không làm phiền ai cả .
Xã hội nào cũng có nhiều nét văn hóa, trong đó văn hóa ứng xử tuy không có
gì cao siêu, nó rất giản dị và bình thƣờng, nhƣng nó làm cho con ngƣời đối xử với
nhau tốt đẹp hơn. Dƣới góc độ văn hóa dù là ai, sống ở nƣớc nghèo, hay nƣớc giàu
có thì văn hóa ứng xử tốt trong sinh hoạt hàng ngày là giá trị chung cho mọi xã hội,
chẳng qua là ta có hành xử nó nhƣ là một thói quen và trở thành ý thức của mỗi
ngƣời trong cộng đồng qua nhiều thế hệ thì nó sẽ trở thành văn hóa. Một nền giáo
dục tốt cho con cái học tập, môi trƣờng sống trong lành, xã hội mà mọi ngƣời đối
xử với nhau có văn hóa và cơ hội đồng đều cho mọi ngƣời vƣơn lên tùy theo năng

lực của mình.
2.1.2 Cách ăn mặc của phương tây tác động tích cực đến lối sống của thanh niên
Việt Nam.
Trong cuộc sống hiện đại, nhu cầu về ăn mặc sao cho đẹp, hợp thời trang rất
đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Vấn đề ăn mặc không đơn thuần chỉ là ăn cho no, mặc
cho ấm mà nó còn thể hiện nhân cách, vẻ đẹp và gu thẩm mỹ của mỗi con ngƣời.
Xã hội ngày càng phát triển, vấn đề ăn mặc càng trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết. Thậm chí, nó còn ảnh hƣởng đến đông đảo tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất
là thanh niên. Xƣa nay, ăn và mặc luôn là hai nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Nếu
nhƣ ăn là để duy trì sự sống thì mặc là để bảo vệ cơ thể, làm đẹp bản thân. Khi cuộc
sống cải thiện thì nhu cầu ăn mặc càng đƣợc nâng cao. Trang phục mặc trên ngƣời
không chỉ làm đẹp cho bản thân, tôn trọng bản thân mà còn tạo thiện cảm với mọi
ngƣời. Mặc đẹp, sang trọng, đứng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và môi
trƣờng là điều cần thiết. Nhƣng mặc thế nào để không trở nên lạc lõng với mọi
ngƣời xung quanh mà vẫn làm đẹp cho cộng đồng, xã hội và dân tộc, phù hợp với
xu thế của thời đại là điều quan trọng.
Đối với thanh niên, những đối tƣợng nhạy bén với thời trang, họ nhanh chóng
thích ứng với nhiều xu hƣớng, trƣờng phái, phong cách khác nhau. Một số thanh
niên đã tiếp thu và chọn lọc để có phong cách ăn mặc hài hòa, phù hợp với giới tính,
độ tuổi, hoàn cảnh giao tiếp. Sự tiếp biến ấy giúp các bạn có phong cách thời trang
21


thanh lịch, nhã nhặn nhƣng vẫn hiện đại, trẻ trung và tạo ra hình mẫu thời trang lý
tƣởng. Đó là phong cách thời trang đƣợc mọi ngƣời ƣa chuộng, tán đồng và ngƣỡng
mộ. Đồng thời bên cạnh đó vẻ đẹp trong cách ăn mặc truyền thống không hề bị mất
đi. Chúng ta có thể dể dàng thấy đƣợc điều đó thông qua hình tƣợng chiếc áo dài
truyền thống mà hiện đại.
Do ảnh hƣởng sự giao lƣu phƣơng Tây, chiếc áo dài cổ truyền đã đƣợc cải tiến
thành chiếc áo dài tân thời. Chiếc áo dài đã trở thành một sản phẩm thật độc đáo, nó

là một sự kết hợp thật xuất sắc giữa truyền thống dân tộc với ảnh hƣởng phƣơng
Tây. Bên cạnh những cải tiến đáng kể theo hƣớng tăng cƣờng phô trƣơng cái đẹp cơ
thể một cách trực tiếp kiểu phƣơng Tây (ôm sát thân, bó eo hơn, xẻ tà áo hai bên
sƣờn cao hơn,...) thì áo dài tân thời cũng đồng thời kế tục và phát triển cao độ
phong cách tế nhị và kín đáo cổ truyền trong khi áo tứ thân cổ truyền buông hai vạt
trƣớc bay phất phới thì áo dài tân thời ghép hai thân trƣớc thành một vạt dài kín đáo
hơn, trong khi áo tứ thân cổ truyền để hở ngực yếm, hở cổ thì kiểu áo dài tân thời
đƣợc ƣu chuộng nhất là kiểu có cổ nhỏ cao. Nhờ vậy, chiếc áo dài tân thời khiến
cho ngƣời phụ nữ mặc nó nhìn chung và nhìn từ phía trƣớc hết sức kín đáo đoan
trang mà vẫn không kém phần quyến rũ. Còn nếu nhìn nghiêng từ bên hông thì càng
thấy sức quyến rũ tăng lên gấp bội phần. Chính sự khiêu gợi một cách tế nhị kín
đáo, tính cách dƣơng ở trong âm đặc biệt này vừa đáp ứng đƣợc yêu cầu của thời
đại, lại vừa duy trì đƣợc bản sắc dân tộc, khiến cho chỉ trong một thời gian ngắn,
chiếc áo dài tân thời đã đƣợc phổ biến rộng rãi với phong cách địa phƣơng Hà Nội,
Sài Gòn, Huế và trở thành y phục truyền thống của Việt Nam mà chúng ta thƣờng
thấy trong các trƣờng học, lễ hội, cƣới hỏi...
Xƣa kia, bộ trang phục mà các cô dâu mặc trong ngày cƣới cũng chính là trang
phục các cô mặc trong những ngày hội cổ truyền của dân tộc. Ngày nay, do những
thay đổi về xã hội, văn hoá phƣơng Tây du nhập vào Việt Nam đã tạo nên những
biến đổi trong lối sống của ngƣời Việt. Nói về trang phục và trang sức cũng nhƣ
trang điểm, ở miền Bắc đã tiếp thu một số hình thức trang điểm của châu Âu: cô
dâu trang điểm son phấn, cài thêm bông hoa hồng trắng bằng voan ở ngực trái, tay
ôm bó hoa lay ơn trắng, tƣợng trƣng cho sự trong trắng, đồng thời làm đẹp cho bộ
22


×