Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

tư tưởng đức trị của mạnh tử, tuân tử mặt tích cực và hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.56 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA
MẠNH TỬ, TUÂN TỬ
MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ

Giáo viên hướng dẫn
TS. Lê Ngọc Triết

Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hạnh Nguyên
MSSV: 6106632
Chuyên ngành: Giáo dục công dân

Cần Thơ, ngày 27 tháng 11 năm 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ ...........................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................3
5. Kết cấu của luận văn .............................................................................................3
NỘI DUNG................................................................................................................4
CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ NHỮNG
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA
MẠNH TỬ, TUÂN TỬ.............................................................................................4


1.1 Hoàn cảnh ra đời triết học Nho giáo .....................................................................4
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời triết học Nho giáo ..............................................................4
1.1.2 Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử ......................13
1.2 Những quan điểm triết học ảnh hưởng đến tư tưởng đức trị của Mạnh Tử, Tuân
Tử.......................................................................................................................17
1.2.1 Tư tưởng triết học Khổng Tử ảnh hưởng đến tư tưởng đức trị của Mạnh Tử,
Tuân Tử...............................................................................................................17
1.2.2 Tư tưởng triết học Mặc Tử và Biệt Mặc ảnh hưởng đến tư tưởng đức trị của
Mạnh Tử, Tuân Tử. ............................................................................................. 24
CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG VỀ ĐỨC TRỊ CỦA MẠNH TỬ, TUÂN TỬ - MẶT
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ. ...................................................................................33
2.1 Nội dung tư tưởng về đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử. .........................................33
2.1.1 Nội dung về tư tưởng đức trị của Mạnh Tử .................................................33
2.1.2 Nội dung về tư tưởng đức trị của Tuân Tử ..................................................41
2.2 Mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử...............48
2.2.1 Mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng đức trị của Mạnh Tử ......................48
2.2.2 Mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng đức trị của Tuân Tử .......................54
2.3 Điểm khác biệt giữa Mạnh Tử, Tuân Tử về tư tưởng đức trị và ý nghĩa đối với Việt
Nam hiện nay............................................................................................................59
KẾT LUẬN .............................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................74

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Khi nói đến nền văn minh phương Đông thì Trung Quốc chính là trung tâm văn
hóa cổ xưa, rực rỡ và phong phú nhất của nền văn minh ấy. Trong đó, tư tưởng triết
học Trung Quốc đóng vai trò quan trọng nó gắn liền với quá trình hình thành và phát

triển xã hội Trung Quốc. Triết học Trung Quốc đã đóng góp vào kho tàng văn minh
nhân loại những tư tưởng, học thuyết có giá trị về thế giới quan, nhân sinh quan, chính
trị- xã hội và luân lý đạo đức v.v… với những nét đặc sắc mang đậm dấu ấn Phương
Đông.
Triết học cổ đại Trung Quốc ra đời vào thời kỳ từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên xã
hội phong kiến. Trong bối cảnh ấy sự quan tâm hàng đầu của các nhà triết học cổ đại
Trung Quốc bấy giờ là vấn đề thuộc về đời sống chính trị và đạo đức xã hội. Nho gia
ra đời nó là học thuyết chính trị- xã hội với chủ trương dùng “đức trị” theo khuynh
hướng nhập thế, chứa đựng nhiều tư tưởng triết học sâu sắc vào cuối thời Xuân Thu
(thế kỷ thứ VI tr.CN) và nhanh chóng trở thành học thuyết có sức ảnh hưởng lớn nhất
ở Trung Quốc và lan rộng sang các nước phương Đông trong đó có Việt Nam. Người
sáng lập ra trường phái Nho gia là Khổng Tử ông là người mở đường cho triết học
Trung Quốc thời kỳ cổ đại. Người kế tục xuất sắc nhất là Mạnh Tử và Tuân Tử.
Trong quá trình tiếp thu và phát triển tư tưởng “đức trị” của Khổng Tử, giữa
Mạnh Tử và Tuân Tử có những điểm tương đồng. Bên cạnh đó, hai ông lại có những
điểm khác nhau hoàn toàn. Mạnh Tử dựa trên cơ sở “đức trị” của Khổng Tử xây dựng
học thuyết “nhân chính” thực hiện chính trị bằng “nhân”. Khi đó, Tuân Tử lại đi sâu
nghiên cứu về “Lễ” và chủ trương dùng “Lễ trị”. Việc nghiên cứu về tư tưởng “đức
trị” của các nhà triết học Nho gia không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà về mặt khoa
học nó còn giúp chúng ta thấy rõ những mặt tích cực và hạn chế của tư tưởng này,
nhằm tiếp thu những mặt tích cực vào cuộc sống đặc biệt là trên con đường đổi mới ở
Việt Nam hiện nay. Trước tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, coi trọng đồng
tiền do mặt trái của nền kinh tế thị trường mang lại thì việc giáo dục đạo đức bằng
đường lối “đức trị” là rất cần thiết. Đó cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài: “Tư
tưởng đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử- Mặt tích cực và hạn chế” làm đề tài luận văn
của mình.
2


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Luận văn làm rõ mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng
đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử.
Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử và một số tư
tưởng triết học khác có ảnh hưởng đến tư tưởng đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích: Việc nghiên cứu đề tài luận văn này nhằm tìm hiểu nội dung tư
tưởng đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử và thấy được mặt tích cực và hạn chế của nó từ
đó tiếp thu những mặt tích cực ấy vào trong cuộc sông hiện nay.
Nhiệm vụ: có 3 nhiệm vụ
Thứ nhất: Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời triết học Nho giáo và những quan điểm
triết học ảnh hưởng đến tư tưởng đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử.
Thứ hai: Làm rõ nội dung tư tưởng đức trị của Mạnh Tử, Tuân Tử.
Thứ ba: Làm rõ mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng đức trị của Mạnh Tử,
Tuân Tử.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn dựa trên thế giới quan, phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Phương pháp cụ thể: Phương pháp lôgic học - lịch sử, phương pháp phân tích
tổng hợp, quy nạp diễn dịch.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương 5 tiết.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
HOÀN CẢNH RA ĐỜI TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ NHỮNG QUAN
ĐIỂM TRIẾT HỌC ẢNH HƯỞNG ĐẾN TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA

MẠNH TỬ, TUÂN TỬ.
1.1 Hoàn cảnh ra đời triết học Nho giáo
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời triết học Nho giáo
Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đông Á. Trên lãnh
thổ Trung Quốc có hai con sông lớn chảy qua, đó là Hoàng Hà (dài 5,464 km) ở phía
Bắc và Trường Giang (dài 6,300km) ở phía Nam. Hai miền đó, địa thế và khí hậu khác
nhau. Miền Bắc khí hậu lạnh lẽo, đất cát khô khan, cây cỏ thưa thớt, phong cảnh tiêu
điều, sản vật hiếm hoi. Miền Nam khí hậu ấm áp, mưa nhiều đất đai phì nhiêu, cây cỏ
xanh tốt. Thường có nhiều cơn dông nhưng khi trời tạnh thì cảnh vật rực rỡ, trời nước
một màu trong tươi. Hoàng Hà từ xưa thường gây lũ lụt, nhưng do đó đã bồi đắp cho
đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp khi công cụ
sản xuất còn tương đối thô sơ. Trung Quốc là một trong những nơi từ rất sớm đã có
loài người cư trú.
Với tính cách là hình thái ý thức xã hội, quá trình phát sinh và phát triển của tư
tưởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với sự biến đổi của tính chất sinh hoạt xã
hội Trung Quốc cổ đại. Nội dung và đặc điểm của nền triết học đó tất yếu phản ánh và
bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử của xã hội ấy.
Từ cuối thế kỷ thứ III TCN Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc mở đầu
thời kỳ phong kiến. Trung Quốc cổ đại trải qua hai thời kỳ lớn: Thời Tam đại (Hạ,
Thương, Chu) và thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Sự phát triển kinh tế- xã hội và khoa
học qua hai thời kỳ này đặc biệt là thời Xuân Thu- Chiến Quốc đã tạo tiền đề ra đời
cho hàng loạt hệ thống triết học với các nhà triết học lỗi lạc.
- Thời Tam đại Hạ, Thương và Tây Chu ( thế kỷ XVII-VIII tr.CN)
Ở Trung Quốc nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên xuất hiện vào khoảng thế kỷ
XXI TCN, đó là nhà Hạ, ở thời kỳ này người ta đã biết khai thác, sáng chế, sử dụng
4


công cụ bằng đồng, đã bắt đầu xuất hiện văn tự. Việc sử dụng kim loại và văn tự biểu
hiện bước tiến có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử phát triển nhận thức của người

Trung Quốc cổ đại.
Phù hợp với sự phát triển của đời sống kinh tế, chính trị xã hội, những quan
điểm tư tưởng tôn giáo, triết học trong thời kỳ này đã có bước phát triển mới và chúng
được phát triển trên cả hai mặt. Mặt thứ nhất, khi nền sản xuất dưới triều đại nhà Hạ đã
bắt đầu chuyển từ kỹ thuật săn bắn, đánh cá lên kỹ thuật chăn nuôi và trồng trọt thì chế
độ totem và bái vật linh cũng mất dần ý nghĩa trong đời sống tinh thần xã hội, thay vào
đó là những quan điểm sùng bái sức mạnh của lực lượng tự nhiên mang tính chất tín
ngưỡng tôn giáo duy tâm với các biểu tượng về Thượng đế chi phối vạn vật và vận
mệnh của con người, về “linh hồn tổ tiên” và sự thờ cúng tổ tiên thịnh hành. Mặt thứ
hai, tín ngưỡng tôn giáo thời kỳ này không còn mang tính chất tự nhiên như thời
nguyên thủy mà đã mang đậm tính chất chính trị xã hội và luân lý đạo đức. Giai cấp
quý tộc nhà Hạ ra sức lợi dụng các biểu tưởng tôn giáo như một phương tiện quan
trọng để ru ngủ, lừa mị dân lao động, xoa dịu mâu thuẫn trong xã hội, cũng cố sự
thống trị xã hội của chúng đối với bách tính. Núp dưới cái vỏ tín ngưỡng tôn giáo thần
bí, giai cấp quý tộc chủ nô luôn tuyên truyền rằng sự thống trị của họ đối với nhân dân
trên mặt đất chẳng qua chỉ là thể hiện mệnh lệnh và ý chí của trời mà thôi. Hơn thế
nữa trời còn khen thưởng cho những ai dám làm điều thiện và trừng phạt nghiêm khắc
những kẻ làm điều ác dám chống lại mệnh trời. Đây là điểm khác biệt căn bản về chất
giữa tôn giáo nguyên thủy và tôn giáo dưới chế độ xã hội có sự phân chia đẳng cấp.
Tuy nhiên, ngay thời đó, từ đời sống hiện thực, giai cấp thống trị quý tộc cũng
đã nhận thức được vai trò của quần chúng lao động trong xã hội. Trong Kinh Thư,
Kinh Thi cũng đã ghi lại những bài học chính trị đầu tiên nhưng không kém phần quan
trọng mà người Trung Quốc cổ đại đã rút ra rằng, giai cấp cầm quyền dù có thế lực
đến đâu đi nữa, nhưng nếu không sống nhân đức và không nhận được dân ủng hộ thì
sớm muộn nhất định sẽ bị lật đổ.
Khoảng nữa đầu thế kỷ XVII tr.CN, Thành Thang người đứng đầu bộ tộc
Thương đã lật đổ vua Kiệt nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt đô ở đất Bạc, thuộc tỉnh
Hà Nam bây giờ. Đến thế kỷ XIV tr.CN, Bàn Canh dời đô về đất Ân thuộc huyện An
Dương, Hà Nam ngày nay. Vì vậy, nhà Thương còn gọi là nhà Ân.


5


Mặc dù trình độ phát triển của công cụ sản xuất còn ở mức độ thấp, đồ sắt chưa
phổ biến, nhưng nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, vùng đất phì nhiêu của vùng Hoàng
Hà Lục Tỉnh, các bộ lạc người Ân đã định cư ở đây và có nền kinh tế sản xuất ổn định,
với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, chăn nuôi và săn bắn phát triển ở trình độ cao.
Hình thức quan hệ sản xuất thời Ân là chế độ nô lệ gia trưởng kiểu phương Đông ở
trình độ thấp, chưa có sự phân biệt rõ rệt về khái niệm “sở hữu” đối với tư liệu sản
xuất và sức lao động. Vào thời Ân đã có sự phân tác, đối lập giữa thành thị và nông
thôn, có sự phân định xác lập bờ cõi, nhưng còn ở trình độ thấp, chỉ mới ở thời kỳ
manh nha của sự thành lập Nhà nước.
Về tri thức khoa học việc làm ra lịch mùa là một phát minh quan trọng của
người Ân. Nó quan hệ khăng khít với việc phát minh ra chữ viết, là vũ khí quan trọng
trong việc lợi dụng và chinh phục thiên nhiên của cư dân làm nông nghiệp định cư ở
các lưu vực sông lớn. Người Ân đã quan sát sự vận hành của mặt trăng, các vì sao, tính
chất chu kỳ của nước sông dâng lên, quy luật sinh trưởng của các cây trồng mà làm ra
âm lịch. Phép làm lịch của người Ân là lấy hệ thống can- chi để ghi ngày. Việc phát
minh ra hệ can- chi để ghi thời gian và việc làm ra lịch là một phát minh khoa học sớm
nhất của người Trung Quốc, nó phản ánh tri thức về khoa học của người Ân đã phát
triển tương đối toàn diện.
Về tư tưởng tôn giáo, người Ân bây giờ là một thị tộc tiến bộ, đã bước qua thời
kỳ tín ngưỡng Tôtem, bước vào giai đoạn tôn giáo tổ tiên. Do xã hội Ân còn bảo tồn
trọn vẹn chế độ thị tộc, sự phân công xã hội chưa phát triển, tư duy của con người còn
bị chế độ thị tộc ràng buộc, cho nên biểu hiện hình thái tôn giáo của họ cũng rất giản
đơn: Chỉ có một vị thần toàn năng của toàn thị tộc, đó là thần tổ tiên. Đối với người
Ân, phàm mọi việc như gió, mưa, bệnh tật, được mùa, mất mùa…. Họ đều cầu bói,
đều mê tín vào sự giáng phúc giáng họa của tổ tông. Tư tưởng thần tổ tông chi phối thế
gới quan của người Ân, đó là đặc trưng của thời đại mà chế độ phụ quyền đã được xác
lập.

Về tư tưởng đạo đức chính trị, thời Ân chưa có quan niệm rõ ràng, chưa có ý
thức về ý nghĩa đạo đức, tức là giữa các thành viên trong thị tộc chưa có thứ quan hệ
được xác lập dựa trên quan hệ quyền lợi- nghĩa vụ của xã hội văn minh sau này; trong
sinh hoạt cộng đồng, tư tưởng đề cao, tôn sùng người cầm đầu thị tộc thể hiện đậm nét.

6


Vào khoảng thế kỷ XI tr.CN, tộc Chu từ phía Tây Bắc, men theo sông Hoàng
Hà, tiến vào đất Ân và cuối cùng tiêu diệt hoàn toàn nhà Ân, lập nên nhà Chu. Giai
đoạn đầu của nhà Chu, sử gọi là Tây Chu, mặc dù đồ sắt chưa phổ biến, nhưng do tiếp
thu được những thành tựu của người Ân để lại, điều kiện tự nhiên thuận lợi, có nguồn
lao động dồi dào là các đơn vị thị tộc bị chinh phục, kết hợp với cách thức tổ chức
quản lý có tính kỷ luật cao của cư dân du mục, người Chu đã tiến xa hơn người Ân
trên con đường “dựng nước” chính thức bước vào xã hội văn minh. Do “dựng nước”
bước vào văn minh trong điều kiện trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém nên tình
hình kinh tế xã hội thời Tây Chu có những đặc điểm sau:
+ Nhà Chu do thực hiện chế độ quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất và sức lao
động rất nghiêm ngặt. Về nguyên tắc ruộng đất, mọi thành viên đều thuộc quyền quản
lý của nhà Chu.
+ Nhà Chu thành lập thành thị đại quy mô, đã có sự phân biệt đối lập thành thị
với nông thôn. Thành thị là nơi ở của tầng lớp quý tộc thị tộc, của kẻ thống trị, còn
nông thôn là nơi ở của người thị tộc bị nô dịch. Ở đây nhà Chu đã phải giữ lại hình
thức tổ chức của thị tộc cũ, chế độ thị tộc thành thị và chế độ thị tộc ở nông thôn. Hệ
quả dẫn đến là, trong phân tầng xã hội chỉ có phân biệt người quân tử (quý tộc) và tiểu
nhân (kẻ hèn) chứ không có sự phân biệt kẻ giàu và người nghèo trên cơ sở tài sản
hoặc kẻ trí người ngu trên cở sở tri thức. Và đương nhiên cũng dẫn đến nảy sinh đối
kháng giai cấp, đối kháng giữa thành thị và nông thôn.
+ Do trình độ non yếu của sức sản xuất nên mặc dù nhà Chu thành lập thành thị
đại quy mô nhưng thành thị đó chưa thể trở nên đồn lũy kinh tế, chưa thể khu vực hóa

một cách vững chắc, mà nó vẫn phải cần có sự quan hệ không thể chia tách với nông
thôn. Đó là dấu hiệu của sự phân công, chia tách xã hội thứ nhất không triệt để.
Về tôn giáo, ngoài việc tiếp tục truyền thống tế Đế tổ, Tiên vương của người
Ân, người Chu còn thêm tư tưởng kính trời, thờ Thượng đế, hợp mệnh trời, người với
trời hợp nhất. Họ cho rằng, Thượng đế và thần tổ tiên nguyên là hai, không thể lẫn làm
một. Họ cho rằng Người Ân không biết “mệnh trời” nên Thượng đế không còn ưa
người Ân nữa mà ban mệnh xuống thần phục người Chu, cho người Chu lập ấp, dựng
nước, lại ban mệnh cho “nhận bờ cõi” tức là (quyền sở hữu ruộng đất và sức lao động),
cho tổ tiên người Chu “sánh ngang với thượng đế” và nhận làm vương, làm hậu, làm
7


hoàng. Đây là một tư tưởng tôn giáo đã bị chính trị hóa, phản ánh tư tưởng của giai
tầng thống trị quý tộc thị tộc, phản ánh nền chuyên chính quý tộc thị tộc lúc bấy giờ.
Về tư tưởng chính trị chủ yếu của giai cấp quý tộc Chu là “Nhận dân”, “Hưởng
dân” và “Trị dân”. Đó là tư tưởng của giai cấp quý tộc độc chiếm tư liệu sản xuất và
sức lao động. Tư tưởng chính trị thời Chu đã được giáo hóa một cách toàn diện. Mọi
chính sách của nhà Chu đều được giải thích là “vâng mệnh trời”, “thuận theo mệnh
trời” và họ gọi người trị dân là Thiên tử tức con trời vì vậy phải kính cẩn, sợ uy và tôn
trọng phép tắc của Tiên vương. Tư tưởng “trị dân” cũng là một tư tưởng chính trị quan
trọng, nó được thể hiện nhiều trong các thiên cáo của Kinh Thư. Nếu làm dân mà loạn
thì kẻ được “Hưởng dân” (chủ của dân) sẽ phải dùng các phép “không phải đạo
thường” mà chém, giết, trị dân. Đấy là tư tưởng chính trị chuyên chính tàn khốc của
giai cấp quý tộc thị tộc Chu, được phủ lên một lớp sơn tôn giáo về “Ý trời”, “Mệnh
trời”.
Thời kỳ này, dưới sự tác động của đời sống xã hội, những tri thức khoa học,
nhất là thiên văn học, y học, nông học phát triển hơn trước và đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Với sự biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội, thế giới
quan thần bí và tín ngưỡng tôn giáo cũ giữ vai trò thống trị đời sống tinh thần xã hội
đã bắt đầu lung lay. Nội bộ giai cấp quý tộc nổ ra cuộc đấu tranh giữa tư tưởng cũ với

những tư tưởng mới có xu hướng tiến bộ. Trong giới tư tưởng cổ đại bắt đầu hình
thành phong trào mở đường cho việc chống lại chủ nghĩa duy tâm và những quan điểm
tín ngưỡng tôn giáo cũ. Trong thời kỳ đó, trong hàng ngũ giai cấp thống trị cũng đã
xuất hiện một số nhà tư tưởng quý tộc và học giả chính thống có những quan điểm tiến
bộ. Xuất phát từ thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa học, họ đã kịch liệt phê
phán các thứ mê tín tôn giáo duy tâm chủ nghĩa chuyên sùng bái quỷ thần. Họ cũng đã
bác bỏ thuật chiêm tinh, bói toán thịnh hành đương thời. Từ đó, họ tin rằng trong cuộc
sống, con người ta có thể làm chủ được vận mệnh của mình, làm chủ linh hồn mình,
không cần có sự phù hộ của quỷ thần nào cả.
Như vậy, dưới triều đại Thương Chu, giai đoạn hình thành của triết học Trung
Quốc, thế giới quan thần thoại, mê tín tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí là thế giới
quan chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội đương thời. Sự mê tín
tôn giáo ấy luôn là chỗ dựa tinh thần để giai cấp quý tộc thống trị lợi dụng hòng củng
cố nền thống trị của chúng đối với quần chúng nhân dân lao động. Do vậy, những tư
8


tưởng triết học thời kỳ này đã gắn rất chặt giữa vương quyền và thần quyền. Hờn nữa,
ngay từ đầu nó luôn đặt vấn đề lý giải lĩnh vực đời sống chính trị xã hội với việc giải
thích lĩnh vực luân lý đạo đức như một sự liên hệ hữu cơ.
Nhưng từ sự biến đổi của đời sống hiện thực, từ kinh nghiệm thực tiễn sản xuất,
đấu tranh làm chủ tự nhiên đã xuất hiện những quan điểm có tính tính chất duy vật, vô
thần, chất phác chống lại những tư tưởng duy tâm thần bí thời đó. Các nhà tư tưởng và
nhân dân lao động Trung Quốc thời cổ đã nhìn thấy sự hư ảo của các quan niệm tín
ngưỡng tôn giáo. Từ chỗ phê phán với cái gọi là Thượng đế tối cao, vạch trần bộ mặt
tàn ác của bọn quý tộc, tăng lữ thời Thương- Chu, lần đầu tiên họ đã khẳng định ý
nghĩa to lớn hoạt động thực tiễn của con người đối với đời sống xã hội và lịch sử. Đó
là bước tiến vĩ đại của người Trung Hoa cổ đại trong quá trình lý giải về thế giới xung
quanh và sự tự nhận thức về mình. Tuy còn hết sức ngây thơ, nhưng chủ nghĩa duy vật
vô thần hình thành trong thời kỳ này thực sự là tư tưởng mở đường cho sự phát triển

của triết học Trung Quốc trong thời Xuân Thu_Chiến Quốc.
-Thời Xuân Thu – Chiến Quốc
Sự phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc cổ đại cũng là lúc xã hội Trung
Quốc vước vào thời Xuân Thu- Chiến Quốc, thời kỳ tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ
và chế chế phong kiến sơ kỳ đang lên.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn tại và phát triển từ triều đại nhà
Hạ, qua nhà Thương đến cuối vào thời Tây Chu thì bước vào giai đoạn khủng hoảng
và ngày càng đi tới suy tàn. Xã hội Trung Quốc trải qua một thời kỳ giao thời, từ chế
độ tông tộc chuyển sang chế độ gia trưởng, giá trị tư tưởng, đạo đức của xã hội cũ bị
băng hoại, những giá trị tư tưởng, đạo đức mới đang manh nha và trên con đường xác
lập. Sự biến đổi toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa thời kỳ này đã tạo tiền
đề cho sự giải phóng tư tưởng của con người thoát khỏi sự chi phối của thế giới quan
thần thoại tôn giáo, thần bí truyền thống, ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển
của tư tưởng triết học.
Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng sang
thời đại đồ sắt. Việc dùng bò kéo cày trở thành phổ biến. Phát minh mới về kỹ thuật
khai thác và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến công cụ
và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến
9


cùng với việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công trong sản
xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy một loạt
các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển như luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề
mộc, nghề làm đồ gốm, v.v… Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương
nghiệp cũng đã phát triển hơn trước. Tiền tệ xuất hiện. Trong xã hội đã hình thành một
tầng lớp thương nhân giàu có và ngày càng có thế lực. Thương nhân đã có nhiều người
kết giao với chư hầu và công khanh đại phu, gây nhiều ảnh hưởng đối với chính trị
đương thời. Sự xuất hiện của thương nghiệp đã tạo ra cơ cấu xã hội thêm một giai tầng
mới và tầng lớp này dần dần xuất hiện một loại quý tộc mới với thế lực ngày càng

mạnh, tìm cách leo lên tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị, thời Xuân Thu chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn
trọng. Thiên tử nhà Chu hầu như không còn quyền uy gì với các nước chư hầu. Các
nước chư hầu mượn tiếng khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà Chu đề ra khẩu hiệu
“tôn vương bài di”, đua nhau động binh mở rộng thế lực và đất đai, thôn tính các nước
nhỏ, tranh giành địa vị bá chủ thiên hạ. Trong đó có những nước hùng mạnh nhất thời
bấy giờ thay nhau làm bá thiên hạ là Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt, Tần. Những quốc
gia này hùng mạnh và làm minh chủ các nước khác là do các vua trị vì dùng cách cai
trị theo “bá đạo” dựa trên sức mạnh bạo lực hoàn toàn đối lập với cách cai trị của
“vương đạo” lấy nhân nghĩa, “lấy đức phục người và chủ giáo hóa người” (Mạnh Tử,
Tận tâm thượng).
Thời Xuân Thu các lãnh chúa tăng cường bóc lột nhân dân lao động. Người dân
ngoài việc phải đi chiến trận thực hiện các cuộc chinh phạt của tập đoàn quý tộc, còn
phải chịu sưu thuế, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai thường xuyên xảy ra, cướp
bóc nổi lên khắp nơi làm cho đời sống nhân dân khốn khổ. Việc các nước gây chiến
tranh thôn tính lẫn nhau cũng như các lãnh chúa bóc lột tàn khốc dân chúng không chỉ
dẫn tới diệt vong hàng loạt các nước chư hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu,
phá hoại trật tự triều hội, triều cống, mâu thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng gay
gắt và rối loạn trong xã hội ngày càng tăng. Tình trạng lễ nghĩa, cương thường đảo lộn,
đạo đức suy đồi ở thời kỳ Xuân Thu biểu hiện qua các tệ nạn xã hội như “tiếm ngôi
việt vị”, chế độ triều cống cũng bị các nước chư hầu tự ý phá bỏ.
Thời Chiến quốc đã có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Nghề luyện sắt đã
đạt đến trình độ khá cao. Đồ dùng bằng sắt, đặc biệt là các công cụ sản xuất như lưỡi
10


cày, rìu, cuốc, dao được sử dụng phổ biến. Các nước đều hình thành trung tâm luyện
sắt lớn như Hàm Đan nước Triệu, Đường Khê nước Hàn, Lâm Truy nước Tề… Vì vậy
mà kỹ thuật thủy lợi và canh tác, khai khẩn đất đai ngày càng phát triển. các công trình
thủy lợi được xây dựng khắp nơi từ sông Hoàng Hà đến Trường Giang, từ biển Đông

đến vùng Tứ Xuyên. Kéo theo đó là sự phát triển của nghề thủ công như làm đồ gốm,
nuôi dâu tằm, dệt lụa, nghề chạm trổ vàng bạc… Tiền tệ bằng kim loại ra đời. Thương
nghiệp và các trung tâm trao đổi hàng hóa hưng thịnh ở các nước Hàn- Tề- Tần- Sở.
Thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ
thành thị thị tộc của quý tộc thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ
mới lên.
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và chiến tranh liên miên đã làm cho công
xã nông thôn tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ sở
hữu thống trị. Thay thế cho chế độ thu thuế dựa vào sản lượng thu hoạch trước kia, thì
bây giờ thu thuế tính theo số lượng ruộng đất. Việc mua bán tự do ruộng đất và sự phổ
biến của chế độ tư hữu đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít lãnh
chúa, địa vị giàu có. Đa số nông dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi cày thuê, cấy
mướn trở thành tá điền, cố nông. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện.
Trong lòng xã hội đã xuất hiện những yếu tố quan hệ sản xuất mới, đó là chế độ phong
kiến quận huyện. Mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt hơn, đã đẩy xã hội tới nguy cơ
nghiêm trọng. Điều đó chính giai cấp thống trị đã nhận thấy, nên chúng đã tiến hành
một số biện pháp cải cách nhằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đó là phong trào
“biến pháp” ở một loạt nước như nước ngụy, Triệu, Hàn, Tề, Tần… suốt thời Chiến
Quốc.
Như vậy, kết quả của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong kết
cấu giai tầng của xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện, mới cũ đan xen và mâu thuẫn
ngày càng gay gắt. Có thể tóm tắt mấy mâu thuẫn chính nỗi lên trong thời kỳ này là:
+ Mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tư hữu tài sản, có địa vị kinh tế trong xã
hội mà không được tham gia chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc cũ của nhà Chu
đang nắm chính quyền.
+ Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với giai cấp
quý tộc thị tộc Chu.
11



+ Trong bản thân giai cấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ phận tách ra, chuyển
hóa lên giai tầng mới; một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một mặt họ cũng không hài
lòng với trật tự cũ của nó. Họ muốn cải biến nó bằng con đường cải lương, cải cách.
+ Tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên tấn công
về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng có mâu thuẫn với tầng lớp đại quý tộc thị tộc
đang nắm chính quyền.
+ Mâu thuẫn nông dân công xã thuộc các thị tộc bị người Chu nô dịch với nhà
Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của họ.
Xã hội đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển, tầng lớp dân tự do xuất
hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị tự do phồn vinh và những thành quả đạt
được trên lĩnh vực khoa học tự nhiên là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển
có tính chất đột biến của tư tưởng thời kỳ này. Trong nước xuất hiện những trung tâm
(như Tắc Hạ của nước Tề), những tụ điểm (như nhà Mạnh Thường Quân) mà ở đó “kẻ
xử sĩ bàn ngang” hay “bàn việc nước”. Nhìn chung họ đều đứng trên lập trường của
giai cấp mình, tầng lớp mình mà phê phán (để cải tổ hay để lật đổ) trật tự xã hội cũ,
xây dựng (trong tư tưởng) xã hội tương lai và tranh luận, phê phán, đả kích lẫn nhau.
Lịch sử gọi thời kỳ này là “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “Bách gia tranh
minh” (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra các nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh có sức ảnh hưởng sâu
đậm trong lịch sử xã hội sau này.
Như vậy có thể nói, tư tưởng triết học Trung Quốc bắt nguồn từ thần thoại tôn
giáo thời cổ. Nhưng các môn phái triết học có tính hệ thống thì chỉ được hình thành
vào thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Một thời đại tư tưởng được giải phóng khỏi ảnh
hưởng của thần thoại tôn giáo truyền thống, tri thức được phổ cập. Từ hoàn cảnh lịch
sử thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc với những cuộc chiến tranh liên miên của các nước
chư hầu, sự rối loạn về chính trị, băng hoại về đạo đức làm nảy sinh những nhu cầu hết
sức cấp bách đối với xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Đó là khát vọng của đông đảo
của quần chúng nhân dân và các tầng lớp khác được sống trong một xã hội ổn định,
một đất nước thống nhất, hòa bình dưới sự dẫn dắt của minh quân. Đáp ứng yêu cầu đó
Khổng Tử- nhà tư tưởng triết học lỗi lạc của Trung Quốc, người sáng lập ra trường

phái Nho gia đã cố gắng tìm những biện pháp, đưa ra những tư tưởng nhằm giúp xã
12


hội thoát khỏi cảnh loạn lạc ấy Khổng Tử chủ trương đường lối “đức trị” tức lấy đạo
đức làm chính trị. Tư tưởng “đức trị” đó sau này được nhiều nhà tư tưởng triết học kế
thừa và phát triển nhưng trong đó có hai nhà tư tưởng triết học và là học trò xuất sắc
của Khổng Tử xứng đáng là bậc đại Nho đó là Mạnh Tử và Tuân Tử.
1.1.2 Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử.
- Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử .
Khổng Tử (551- 479 tr.CN) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người ấp Trâu, làng
Xương Bình, Nước Lỗ (nay thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông). Khổng Tử là
người sáng lập ra trường phái Nho gia vào cuối thời Xuân Thu. Cha Khổng Tử là
Khúc Lương Ngột, mẹ là Nhan Trưng Tại còn gọi là Nhan Thị. Cha Khổng Tử mất lúc
ông tròn ba tuổi, sống cảnh bần hàn nhưng mẹ ông vẫn quyết chí nuôi ông ăn học.
Ngay từ nhỏ Khổng Tử có hai tính cách khá đặc biệt: Một là rất trọng lễ nghĩa, thể
hiện qua việc ông rất thích chơi trò tế lễ. Hai là hiếu học, siêng năng bằng việc Khổng
Tử suốt đời tự học, đi đâu cũng học, thấy gì không hiểu cũng hỏi, đi cùng với ai cũng
có thể học người đó. Lớn lên, ngoài giờ học ông phụ giúp mẹ và dành thời gian học
bắn cung và âm nhạc.
Năm 19 tuổi Khổng Tử lấy vợ, sinh được một người con trai đặt tên là Lý tự là
Bá Ngư. Sau còn sinh thêm một đứa con gái và gã cho Công Dã Tràng một môn sinh
của ông. Ông làm Ủy lại coi việc cân đong thóc ở kho và làm Tư chức lại coi việc bò,
dê để dùng vào việc cúng tế. Năm 22 tuổi Khổng Tử bắt đầu dạy học, sau đó học nhạc
và học đạo. Năm 33 tuổi Khổng Tử đến nước Chu để khảo sát tế lễ ở Miếu đường. Từ
Chu trở về danh tiếng ông càng tăng. Năm 502 tr.CN Khổng Tử 50 tuổi, Lỗ Đình
Công dùng ông làm Trung Đô tề được một năm Trung Đô rất có trật tự, kỷ luật từ trên
xuống dưới thành một thị trấn kiểu mẫu. Năm 501 tr.CN ông được cất chức Tư Không.
Năm 500 tr.CN làm Đại Tư Khấu, rồi nhiếp chính coi việc in, ấn định luật lệ, phép tắc
trong nước. Năm 497 tr.CN, Khổng Tử làm á tướng quốc thứ nhì. Trong thời gian ở

Lỗ, Khổng Tử đã thẳng tay trừng trị loạn quan, nịnh thần trong triều, đem lại cho nước
Lỗ cảnh “ban đêm ngủ không phải đóng cửa, ban ngày ra đường không nhặt của rơi,
luân thường đạo lý được coi trọng”. Song, vua Lỗ ham mê tửu sắc, đàn hát ca múa xa
hoa, bỏ bê việc triều đình nên Khổng Tử bỏ về nước Vệ.

13


Qua Vệ vua Vệ Linh Công muốn dùng ông nhưng triều đình gièm pha, sau đó
ông cùng các môn sinh đi du thuyết khắp nơi hết nước này đến nước khác. Năm 484
tr.CN Khổng Tử đã 69 tuổi, Quý Khang Tử mời ông về Lỗ. Ông về Lỗ nhưng không
tham chính mà sang dịch sách Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của người đời trước để lại,
viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Năm 479, ông mất ở Lỗ thọ 73
tuổi. Tương truyền rằng, học trò của ông có đến ba ngàn người và khi ông mất đã có
người để tang đến sáu năm, hàng trăm người làm nhà lập cứ bên phần mộ ông, tạo
thành làng Khổng.
Khổng Tử là người có tính cách nghiêm trang, đôn hậu, luôn bình tĩnh và cư xử
luôn hợp thời, tính tình của ông rất điềm đạm. Các bài giảng của ông chủ yếu là các
mẫu truyện ngắn được ghi trong cuốn Luận Ngữ, ông được cho là người biên soạn của
Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu.
- Cuộc đời và sự nghiệp của Mạnh Tử.
Mạnh Tử (372-289 tr.CN) tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, người gốc nước Trâu,
thuộc miền nam tỉnh Sơn Đông ngày này, là người theo phái Nho gia, ông thuộc dòng
công tộc Mạnh Tôn, cha là Khích Công, mẹ là Cừu Thị. Khi ông lên ba tuổi thì cha
chết, được mẹ nuôi dưỡng, giáo dục lễ nghĩa rất chặt chẽ. Trong sử Liệt nữ có chép
rằng, nhà ông trước ở gần nghĩa địa, lúc ấy Mạnh Kha còn nhỏ hàng ngày vào nghĩa
địa chơi, thấy người ta chôn cất người chết, rồi khóc lóc, ông rủ chúng bạn chơi trò
tống táng. Mẹ ông nói rằng “chỗ này chẳng tiện cho con ta ở”. Bà bèn dời nhà về gần
chợ. Con bà lại bày lối chơi rao hàng, bưng bánh, bán thịt. Bà lại tự nhủ: “chỗ này
chẳng tiện cho con ta ở”. Bà dọn nhà lại gần trường học, con bà mới bày trò chơi học

theo lễ nhạc. Bà nghĩ: “chỗ này đáng để con ta ở vậy”. Sách sử ký của Tư Mã Thiên
chép rằng lớn lên Mạnh Kha theo học đệ tử của Tử Tư, hiểu rõ đạo lý của Khổng Tử,
lại có tài biện thuyết, nên đã trở thành một trong ba bậc đại Nho thời Xuân Thu- Chiến
Quốc.
Để bảo vệ và phát huy tư tưởng của Khổng Tử, mong muốn dùng thuyết của
mình cứu đời, Mạnh Tử đã đi khắp các nước chư hầu để truyền bá tư tưởng và chủ
trương của mình. Ông sang gặp Tề Tuyên vương, Tề Tuyên vương không trọng dụng.
Ông qua nước Lương, Lương Huệ vương cũng do dự, cho những lời Mạnh Tử nói là
viễn vông, không phù hợp với thực tế. Lúc bấy giờ Tần dùng Thương Quân mà nước
14


giàu binh mạnh; Sở, Ngụy dùng Ngô Khởi mà đánh thắng địch. Tề Uy vương, Tề
Tuyên vương dùng bọn Tôn Tử, Điền Kỵ mà chư hầu hướng về chầu Tế rất đông. Các
nước đang lo hợp tung, liên hoành để đối phó nhau. Vì thế, khi ông đi đến đâu cũng
không đạt như ý muốn của mình ông lui về dạy học và viết sách. Sắp xếp lại thứ tự
trong kinh Thi, thuật cái ý của Trọng Ni, ghi chép lại những lời bàn luận của ông với
các vua chư hầu và những lời phê bình của ông với các học thuyết khác, làm ra bảy
thiên sách có tên là Mạnh Tử. Sau này, đến đời Tống, Chu Hy đã xếp cuốn Mạnh Tử là
một trong những sách kinh điển của Nho gia, gọi là Tứ Thư.
Bảy Thiên sách trong bộ Mạnh Tử gồm có: Lương Huệ vương thượng và hạ,
Công Tôn Sửu thượng và hạ, Đằng Văn Công thượng và Hạ, Ly Lâu thượng và hạ,
Vạn Chương thượng và hạ, Cáo Tử thượng và hạ, Tận Tâm thượng và hạ.
Mạnh Tử là một người giữ đúng quy tắc, không chịu thỏa hiệp khiến môn sinh
là Công Tôn Sửu trách nhẹ ông. Trong tác phẩm Mạnh Tử, Nguyễn Hiến Lê đã trích
lời đối thoại của Mạnh với môn sinh như sau: “Đạo của thầy thật cao, thật đẹp, nhưng
ai theo đạo của thầy tựa như lên trời, đi mãi chẳng tới. Sao thầy chẳng làm cho đạo
vừa sức người, để giúp thiên hạ có thể chăm chỉ học tập hằng ngày được? Ông đáp:
“Người thợ khéo không vì người thợ vụng mà bỏ lằn mực được. Tay thiện xạ không vì
một kẻ bắn dở mà thay đổi cách giương cung. Người quân Tử (…) giữ trung đạo, ai có

sức thì theo” [17, tr 191].
Mạnh Tử là người áo vải duy nhất mạnh bạo dám đứng trước mặt vua chúa
mắng trước mặt họ, làm cho họ xấu hổ chẳng dám đáp lại nói chi là trừng trị. Ông mạt
sát các học phái khác rất hà khắc không giống như Tuân Tử. Đối với Khổng Tử thì ta
thấy ông rất điềm đạm, hòa nhã, Khổng Tử là một đại triết gia, một triết nhân kiêm
một nghệ sĩ đa cảm và nhiều khi dí dỏm có thể là bạn thân của Lão Tử nếu sống cùng
thời. Còn Mạnh là một triết gia, một chính trị gia, nhất là một chiến sĩ không thể ngồi
chung với Trang Tử. Mà chính Mạnh Tử cũng rất ngưỡng mộ Khổng Tử. Luôn lấy
Khổng Tử làm tiêu chuẩn bảo Khổng Tử là “thánh chi thời giả dã”, là “tập đại thành”
nghĩa là có đủ đức của các bậc thánh vương khác mà xử sự luôn hợp thời.
- Cuộc đời và sự nghiệp của Tuân Tử.
Tuân Tử tên Huống, tự là Khanh, còn gọi là Tuân Khanh, người nước Triệu.
Niên đại của ông đến nay vẫn chưa được xác định một cách thống nhất. Theo từ điển
15


triết học Trung Quốc do Doãn Chính biên soạn thì Tuân Tử (315-230 tr.CN). Tuân Tử
là một trong những Nho gia lớn ở cuối thời Chiến quốc. Đó là thời kỳ xã hội Trung
Hoa “như nước đổ cuồn cuộn”, các học phái triết học rất thịnh hành.
Vào khoảng 40 tuổi Tuân Tử đã có một chủ trương rõ rệt đó là dùng đạo Nho
để trị nước và muốn đi chu du các nước để thuyết phục các vua chư hầu. Nước đầu
tiên ông đến là Tần ông muốn thuyết phục vua Tần thi hành đạo Nho mà dựng nghiệp
vương. Vua Tần không dùng ông nên ít lâu sau, ông về Triệu rồi qua Tề. Năm 255
tr.CN Tuân qua Sở, được tướng quốc Sở là Xuân Thân Quân đề cử làm chức lệnh (coi
một ấp) ở Lan Lăng, một miền ở tỉnh Sơn Đông ngày nay, tức biên giới Đông Bắc Sở
thời đó, rất xa kinh đô Sở mà Sở vừa chiếm được.
Không bao lâu ông bị gièm pha năm 250 tr.CN ông trở về Triệu và có lần bàn
về việc binh với Lâm Vũ Quân, trước mặt vua Hiếu Thành vương nước Triệu. Việc
này được ghi chép ở đầu thiên Nghị Binh. Tuân chủ trương phép dùng binh phải đoàn
kết dân tâm, thống nhất dân trí, trái hẳn với Lâm Vũ Quân chỉ trọng sự mưu mô, biến

trá. Kết cuộc ông cũng không được trọng dụng.
Năm 246 tr.CN Vua Tần lấy niên hiệu là Thủy Hoàng đế, vào khoảng đó, Xuân
Thân Quân ân hận vì đã nghi oan ông, nên đã viết thư xin lỗi ông và mời về Sở lãnh
chức cũ. Ông giữ chức lệnh ở Lan Lăng tới khi Xuân Thân Quân bị giết năm 238
tr.CN. Tuổi đã cao ông không đi đâu nữa ở lại Lan Lăng đến khi mất. Ông có hai môn
sinh xuất sắc đó là Hàn Phi và Lý Tư.
Tính tình ông đềm đạm như Khổng Tử, tuy suy tôn Khổng Tử nhưng không tới
mức bảo “từ khi có nhân loại đến nay, chưa ai bằng Khổng Tử” (lời của Mạnh Tử), tuy
chê mười hai triết gia (Phi thập nhị tử), nhưng không gay gắt như Mạnh Tử khi mạt sát
Dương và Mặc. Ông cũng cho biện thuyết để làm rõ đạo là bổn phận của ông, nhưng
không hiếu thắng như Mạnh Tử khi cải nhau về “tính” với Cáo Tử, ông cứ bình tĩnh
đưa ra lẽ phải trái, chứng cứ rành mạch, người ta nghe thì càng hay, không nghe ông
cũng không tức, và gặp kẻ hiếu thắng thì thôi, ông không nói nữa. Khi chê chính sách
của Tần hoặc cách dùng binh của Triệu giọng ông không gay gắt.
Ông học rộng, tự tín, có nhiều ý độc đáo, suy luận sắc bén và có tinh thần nghệ
sĩ ít nhiều, nên nổi danh về từ phú. Văn ông giản luyện, cân đối, không lôi cuốn như
văn của Mạnh. Mạnh là một chính trị gia hơn là một triết gia. Tuân trái lại, một triết
16


gia, một tư tưởng gia hơn là một chính trị gia. Địa vị của ông trong Khổng môn không
kém gì Mạnh Tử.
Theo Tư Mã Thiên thì ông có viết bộ Tuân Tử gồm có 32 thiên nhưng chỉ có 7
thiên: Thiên luận, Chính luận, Giải tế, Chính danh, Tính ác, Phú quốc, Phú là chắc
chắn do Tuân Tử viết. Các thiên còn lại là do các môn sinh hoặc người đời sau viết.
1.2 Những quan điểm triết học ảnh hưởng đến tư tưởng đức trị của Mạnh Tử,
Tuân Tử.
Ở Trung Hoa thì thời Chiến Quốc cho tới cuộc cách mạng Tân Hợi, nghĩa là
trong khoảng 2.500 năm, hầu hết các văn nhân, thi sĩ đều bàn về chính trị. Người ta
cảm tưởng rằng không có dân tộc nào cho chính trị là quan trọng như dân tộc Trung

Hoa, rằng đối với họ việc trị dân, trị nước phải là sứ mạng của kẻ sĩ, mà nếu không gặp
thời, bất đắc dĩ phải “độc thiện” thì ích nhất kẻ sĩ cũng phải truyền cái đạo của tiên
vương, tiên thánh cho đoàn hậu sinh. Tiến vi quan, thoái vi sư.
Cả một thời Xuân Thu _ Chiến Quốc mấy trăm năm người ta chỉ bàn về chính
trị, tất nhiên còn bàn về nhiều vấn đề khác nhưng chung quy lại chính trị vẫn là nổi trội
nhất và có nhiều tư tưởng, học phái nổi lên như Nho gia, Pháp gia, Mặc gia, Đạo gia…
Nhưng ở đây tác giả chỉ tìm hiểu tư tưởng triết học của Nho gia và tư tưởng triết học
Mặc gia là hai tư tưởng triết học có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng “đức trị” của
Mạnh Tử, Tuân Tử.
1.2.1 Tư tưởng triết học Khổng Tử ảnh hưởng đến tư tưởng đức trị của Mạnh
Tử, Tuân Tử.
Sự nghiệp giáo dục của Khổng Tử đã làm cho những tư tưởng triết học của ông
ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là học thuyết về nhân, lễ - hạt nhân trong toàn bộ hệ
thống tư tưởng triết học chính trị- đạo đức của Khổng Tử. Tư tưởng Triết học của
Khổng Tử tập trung ở ba nội dung: Quan điểm về trời, quỷ thần, con người; học thuyết
về đạo đức; tư tưởng chính trị và xã hội. Cả ba nội dung này đều có mối quan hệ thống
nhất với nhau. Đều tập trung lý giải bản chất đời sống con người thể hiện ước mong
của Khổng Tử ổn định trật tự đẳng cấp danh phận xây dựng một xã hội lý tưởng với
mẫu người lý tưởng lấy nhân nghĩa làm gốc.

17


Trước tiên là quan niệm của Khổng Tử về bản tính con người. Bàn về tính, bản
tính, bản chất của con người luôn là yêu cầu đặt ra cho bất kỳ học thuyết nào về con
người. Theo Khổng Tử, con người ta tính vốn gần nhau, do tập nhiễm xã hội mà tính
con người trở nên xa nhau. Song bản tính gần nhau ấy là gì? Khổng Tử không giải
thích. Chỉ sau này, khi phát triển học thuyết của Khổng Tử, Mạnh Tử mới cho rằng
bản tính ấy là thiện, Tuân Tử lại cho bản tính đó là ác.
Học thuyết về chính trị - xã hội là một trong những nội dung cốt lõi, quan trọng,

và tạo thành một thể thống nhất hữu cơ trong triết học Khổng Tử. Trung thành với
nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình, Khổng Tử phản đối nhà cầm quyền
dùng pháp chế mà chủ trương dùng “nhân trị”, để giáo hóa, thu phục nhân tâm. Trong
tác phẩm Khổng Tử và Luận Ngữ do Nguyễn Hiến Lê biên soạn trích dẫn lời Khổng
Tử: “Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dẫn dắt dân chúng,
chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng phạm pháp đó thôi, chớ chẳng
biết hổ ngươi. Vậy muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh;
muốn trị dân nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết thì chẳng những dân biết hổ ngươi, họ
lại còn cảm hóa mà trở nên tốt lành”[15, tr 279]. Trước hoàn cảnh rối ren loạn lạc như
trong thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc, cái cũ đã lỗi thời, cái mới đang manh nha, các
giá trị đạo đức đang băng hoại, danh thực, trật tự lễ nghi rối loạn, xã hội vô đạo, xa rời
đạo lý thì giáo dục đạo đức nhân nghĩa là rất cần thiết. Nhân nghĩa được ông xem là
bản tính của con người, cho nên ông chủ trương việc trị nước là dùng nhân trị, đức trị,
giáo hóa đạo đức và thực hiện chủ nghĩa “chính danh định phận”, thi hành theo “Lễ
nhà Chu”.
Trong đời mình, dù là luận thuyết việc trị nước cứu đời hay dạy học, đào tạo
nhiều lớp môn sinh tài đức, thì trước sau Khổng Tử cũng nói đến đức nhân. Khổng Tử
coi “nhân” là đức căn bản nhất của con người kể cả xử thế lẫn tu thân và bao gồm gần
đủ các đức khác. Nhân là nội dung trọng tâm và được thể hiện ở các mặt trong tư
tưởng quản lý xã hội của Khổng Tử. Khổng Tử chủ trương “vi chính dĩ đức” làm
chính trị bằng đức, yêu cầu người lãnh đạo lấy đức để xử lý vấn đề nội chính và ngoại
giao, phản đối các hoạt động bạo lực, làm chính trị không nhất thiết phải chém giết,
chỉ cần dùng nhân nhân nghĩa, yêu thương dân chúng lấy đức của mình mà thu phục
nhân tâm. Muốn dân hành động hợp đạo nghĩa, trước hết phải giáo dục dân chúng, vả
lại người ở bề trên phải làm gương cho người khác noi theo. Nếu không tuyên truyền,
18


không giáo dục, lại dùng hình phạt trái nghĩa để xử tội dân, như vậy là cố ý xác hại
dân chúng, ngược đãi nhân dân, tàn sát nhân dân. Trong tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê

đã trích dẫn câu trả lời của Khổng Tử với Quý Khương Tử về phép trị dân như sau:
“Ngài trị vì thiên hạ, sao phải dùng đến việc chém giết? Chỉ cần ngày muốn hướng đến
cái tốt, đức của bá tánh giống như cỏ, gió thổi trên cỏ thì cỏ rạp xuống?”.[15, tr 418]
Trong triết học Khổng Tử, nhân là phạm trù đạo lý căn bản nhất mang nhiều
nghĩa khác nhau. Khổng Tử gắn liền nhân với thiên mệnh và ông cho rằng, tất cả
những gì thuộc về tiên nghiệm đều là cái trời phú cho con người, nó là hạt nhân của hệ
thống tri thức và đạo đức của con người. Chữ nhân trong tiếng Hán bao gồm bộ
“nhân” đứng và chữ “nhu” hàm nghĩa chỉ bản chất, đức tính là nhân ái, nhân đức của
con người khác với chữ nhân, với ý nghĩa là con người, nhân hình. Có lúc Khổng Tử
giải thích nhân một cách trừu tượng, nhưng cũng có lúc ông nói về nhân rất cụ thể.
Tuy nhiên, dù hiểu theo nghĩa trừu tượng hay cụ thể, xét tới cùng, nhân cũng là đạo
làm người và do đó, nhân chính là cái đích của sự tu thân sửa mình của mỗi người
trong xã hội. Có thể nói, nhân chính là phạm trù xuất phát mang tính nền tảng của
Khổng Tử trong quan niệm về đạo trị nước và trong chính sách cai trị của nhà cầm
quyền, bởi ông chủ trương xây dựng một học thuyết chính trị lấy nhân làm tư tưởng
chủ đạo, dùng đức và chính danh để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, do đứng trên lập trường của giai cấp quý tộc thị tộc, Khổng Tử đã
gắn cho học thuyết nhân một nội dung giai cấp khá rõ nét. Luận điểm: “Người quân tử
có khi phạm điều bất nhân, chứ chưa từng thấy kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân”
của Khổng Tử cho thấy ông không thừa nhận đức nhân của quần chúng lao động.
Trong suy nghĩ của ông, các đức đều có sẵn mầm mống và đầu mối như nhau trong
tính trời, lòng người, nhưng chỉ kẻ quân tử biết mệnh trời nên mới có thể tự tu thân sửa
mình giữ tâm tính để có đạo cao, đức sáng. Trái lại, kẻ tiểu nhân vì không hiểu mệnh
trời nên không biết tồn tâm dưỡng tính, đưa đến hậu quả hư cả tâm, mất cả tính; do
vậy, họ không có đức. Điều có có nghĩa, đức nhân chính là đức của người quân tử và
triết lý tu thân sửa mình mà Khổng Tử đưa ra chỉ dành riêng cho giai cấp thống trị. Về
sau Mạnh Tử cũng dựa vào thuyết này và đứng trên lập trường của giai cấp quý tộc
bảo vệ giai cấp thống trị, đó chính là hạn chế của tư tưởng Khổng – Mạnh.
Quan niệm về danh, Khổng Tử cho rằng mỗi vật, mỗi người sinh ra đều có một
chức năng, công dụng nhất định, và ứng với mỗi chức năng, công dụng đó là một tên

19


gọi, một danh nhất định. Do vậy, mỗi danh có những yêu cầu và tiêu chuẩn riêng, vật
nào người nào thực hiện đúng yêu cầu đó của danh là chính danh, ngược lại là loạn
danh. Khổng Tử giải thích chính danh là làm cho mọi việc ngay thẳng. “Chính danh”
thì người nào có địa vị ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh trên phải ra
trên, dưới phải ra dưới. Tức là Vua phải làm cho hết đạo vua, bề tôi phải làm trọn bổn
phận bề tôi, cha phải làm tròn nghĩa vụ người cha, con phải thực hiện đúng đạo làm
con. Còn nếu danh không chính tất xã hội sẽ sinh ra loạn: “Danh không chính thì lời
nói không thuận, lời nói không thuận thì sự việc không thành; việc không thành tất lễ
nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh, tất hình phạt không đúng; hình phạt
không đúng, tất dân không có chỗ để nhờ cậy. Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì
phải đúng với phận với nghĩa; đã xưng đúng với phận và nghĩa thì phải tùy theo đó mà
làm.”[15, tr 141]. Vì thế khi Tử Lộ hỏi về việc chính trị, Khổng Tử Khổng Tử giải
thích chữ chính trong chính trị như sau “Chữ chính (cai trị) là nơi chữ chính (ngay
thẳng) mà ra, cai trị tức là chăm sóc cho dân trở nên ngay thẳng, chính đính” [15, tr
417].
Cho nên người cầm quyền biết sửa mình cho ngay thẳng theo đạo nhân, để làm
gương cho dân chúng noi theo thì việc trị nước an dân sẽ được thịnh trị. Trên cơ sở đó,
Khổng Tử chia xã hội thành những mối quan hệ cơ bản, trong đó mỗi quan hệ được
gọi là “luân”. Trong xã hội có những mối quan hệ chính như: vua tôi, cha con, chồng
vợ, anh em, bạn bè. Đây chính là sự khái quát sâu sắc của Khổng Tử. Ông đã chỉ ra
được quan hệ bản chất nhất trong nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Khổng Tử đặc biệt
chú trọng đến quan hệ vua tôi, cha con. Và từ hai mối quan hệ cơ bản này Khổng Tử
đã giải quyết nhiều vấn đề chính trị - xã hội mà thời đại ông đặt ra.
Đối với quan hệ vua tôi thật ra đây là mối quan hệ giữa nhà nước với dân, mở
rộng ra là quan hệ giữa kẻ cầm quyền và kẻ bị trị, trung thành với quan điểm nhân
nghĩa của mình, Khổng Tử chủ trương “thượng hiền”, tìm ra những người tài đức để
trị vì, mà không cần phân biệt đẳng cấp của người ấy. Khổng Tử đã có khuynh hướng

chống lại thế tộc, huyết thống, bác bỏ việc duy trì ngôi vua theo kiểu “cha truyền con
nối”, như vậy thì những người có tri thức, có nhân, có đức sẽ được làm Thiên tử, để
mang lại hạnh phúc trăm họ. Đây chính là mặt tích cực của Khổng Tử, phản ánh xu thế
tất yếu của lịch sử trong nhãn quan chính trị ông. Trong việc chính trị, Khổng Tử chủ
trương, vua phải biết trọng dụng người hiền đức, tài giỏi, và bỏ qua những lỗi lầm nhỏ.
20


Xuất phát từ tư tưởng nhân của mình, Khổng Tử cho rằng trị nước bằng lễ nghĩa là
phương pháp tốt nhất, vì vậy bậc minh quân phải có đầy đủ đức hạnh. Không những
vậy, ông còn yêu cầu nhà cầm quyền phải làm gương cho thiên hạ noi theo mà sửa
mình “Phải làm trước những công việc của dân, phải khó nhọc vì dân”[15, tr 422]. Và
trên hết để thực hiện những điều đó, thì nhà cầm quyền phải rèn luyện học tập, trau dồi
tri thức và đức hạnh để đủ khả năng đảm nhận chức vụ đó.
Khi Tử Cống hỏi Khổng Tử về cách cai trị của nhà cầm quyền, thì ông cho
rằng: “Nhà cầm quyền phải có đủ ba điều kiện này: lương thực cho đủ nuôi dân, binh
lực cho đủ bảo vệ dân, giữ được lòng tin đối với mình”. Tử Cống hỏi tiếp “Trong ba
điều ấy bất đắc dĩ phải bỏ bớt thì phải bỏ ra điều nào trước?”. Đáp “Bỏ binh lực”, Tử
Cống hỏi tiếp “Còn hai điều còn lại, bất đắc dĩ phải bở bớt thì bỏ điều nào trước?”.
Đáp “Bỏ lương thực. Là vì từ xưa đến nay trong nước thiếu lương thực thì xảy ra nạn
chết đói, chớ dân không tin nhà cầm quyền thì chính sự phải sụp đổ”[15, tr 413]. Ở
đây thể hiện nhãn quan thiên tài của Khổng tử, ông đã thấy được mối quan hệ khăng
khít giữa chính trị và kinh tế, “thực” chính là kinh tế, “binh’ chính là quân sự và “dân
trí” chính là chế độ chính trị - xã hội, ba yếu tố này có mối quan hệ khăng khít, thống
nhất với nhau tạo thành một đất nước cường thịnh. Để đạt được điều này cần phải giáo
hóa người dân, để họ có học thức, biết lễ nghĩa mà thi hành điều nhân. Không những
thế Khổng Tử còn yêu cầu: “Bậc quốc trưởng cai trị một nước chư hầu có một ngàn cổ
xe đề phòng việc chiến tranh nên giũa năm điều này: 1. Làm việc gì dẫu lớn nhỏ cũng
phải thận trọng; 2. Nói ra phải cho chắc thật, đừng thất lời hứa; 3. Của cần dùng tiết độ
đừng dùng lãng phí; 4. Thương yêu tất cả mọi người trong nước; 5. Sai khiến dân phải

tùy thời tùy lúc, tránh những cơn cày bừa cấy gặt.[15, tr 271]
Nhưng làm thế nào để thực hiện được chủ nghĩa “chính danh” và con người đạt
được đức nhân nghĩa? Để giải đáp điều đó Khổng Tử đã đưa ra phạm trù Lễ trong hệ
thống triết học chính trị đạo đức của ông. Trong chính trị cũng như tu thân, lễ là một
phạm trù chính trị đạo đức được Khổng Tử hết sức chú trọng. Lễ vốn xuất phát từ nghi
thức tế lễ, kính trời, quỷ thần, cầu phúc, thờ cúng tổ tiên. Khi phát triển hoàn thiện lễ
được coi là toàn bộ quy tắc, lễ nghi, điển chương, chế độ quy định trật tự quan hệ ứng
xử từ gia tộc đến xã hội: gồm việc cát, hung, quân, tân, gia. Đến thời Thương- Chu lễ
trở thành nguyên tắc quy phạm đạo đức và trật tự thể chế xã hội, nhằm duy trì và điều
hòa đẳng cấp danh phận xã hội. Khổng Tử viết: “Trong việc giữ lễ, có niềm hòa khí
21


quý trọng. Đạo của những vị vua xưa rất tốt ở chỗ đó; từ những việc lớn cho tới những
việc nhỏ, các ngài dùng niềm hòa khí mà phổ cập vào lễ. Nhưng có việc này chẳng nên
làm: Biết rằng hòa là quý trong mọi việc cứ dùng hòa chứ dùng lễ mà kiềm chế. Đó là
việc không nên làm”.[15, tr 274] Theo Khổng Tử, lễ gốc ở kính, người bất nhân chẳng
có niềm cung kính thì không thể thi hành lễ tiết nghiêm trang.
Theo Khổng Tử lễ là phương tiện để thực hiện chủ nghĩa “chính danh định
phận”, lễ quan hệ mật thiết với nhân. Nếu nhân là chất, là nội dung thì lễ là văn, là
hình thức biểu hiện của nhân nhân là cái nền trắng cốt sau đó người ta mới vẽ nên
những bức tranh đẹp, hơn nữa, tuân theo lễ, ông còn yêu cầu mọi người “cái gì chẳng
hợp lễ thì mắt đừng nhìn, cái gì chẳng lễ thì tai đừng nghe, cái gì chẳng hợp lễ thì
miệng đừng nói, cái gì chẳng hợp lễ thì thân đừng làm”[15, tr 409]. Có thể nói, lễ theo
Khổng Tử là chuẩn mực của mọi mối quan hệ đạo đức luân lý xã hội, tuy nhiên thì ông
không bắt mọi người phải trung thành quá lễ . Ông nói: “Cung kính quá lễ thì thành ra
lao nhọc thân mình, cẩn thận quá lễ thành ra nhát gan, dũng cảm quá lễ thành ra loạn
nghịch, ngay thẳng quá lễ thì thành ra gắt gỏng, cấp bách”.[15, tr 362]
Tuy nhiên, lễ mà Khổng Tử nói ở trên là lễ của nhà Chu, nghĩa là các thể chế
quy phạm đạo đức thời Tây Chu. Đứng trên lập trường của giai cấp mình Khổng Tử

không muốn lễ nhà Chu bị suy tàn nên ông đưa ra những biện pháp nhằm cứu vãn tình
trạng “lễ nhạc hư hỏng”, ông tuyên truyền tư tưởng “lấy hòa làm quý”, “nghèo mà
vui”… để thủ tiêu đấu tranh giai cấp, ông cũng đòi hỏi kẻ trên phải tôn trọng kẻ dưới,
kẻ dưới phải kính trọng kẻ trên và phải thành kính trong khi thực hiện lễ. Việc Khổng
Tử đề cao lễ của nhà Chu chứng tỏ ông là người theo chủ nghĩa cải lương phục cổ,
muốn duy trì chế độ đẳng cấp, danh phận.
Như vậy, lễ ở Khổng Tử vừa mang tính đạo đức, vừa mang tính chính trị để
giáo hóa con người thực hiện đức nhân. Vì chủ trương nhân trị, phản đối pháp trị, cho
nên lễ của Khổng Tử là bổ sung chỗ thiếu sót của đức trị. Mục đích cơ bản nhất của lễ
là nhằm duy trì trật tự đẳng cấp xã hội. Cùng với lễ Khổng Tử cho rằng nhạc, thi, thơ
cũng là phương tiện để giáo hóa con người, ổn định xã hội. Nhạc đoan chính nghiêm
trang, hòa nhã cốt để tu dưỡng tính tình, vì thế mà nhạc giáo hóa lòng người, hướng
tâm con người đi đến “chân, thiện, mỹ” – Do con người ứng cảm với cảnh vật mà sinh
ra âm nhạc, cho nên “Người ta hưng khởi lòng thành là nhờ đọc Kinh thi, lập lấy ý chí
là nhờ đọc Kinh lễ, thành tựu được là nhờ Kinh nhạc”[15, tr 364]. Tuy nhiên do Khổng
22


Tử chủ trương đức trị nếu dùng lễ trị thì không khác pháp trị bao nhiêu, nên phải có
“nhân” thì lễ, nhạc mới thành “đức trị” nếu không chỉ là hình thức hư văn, sáo rỗng
“Người chẳng có lòng nhân làm sao mà thi hành lễ tiết? Người ta chẳng có lòng nhân
làm sao mà dùng âm nhạc – Nhơn nhi bất nhân, như lễ hà? Nhơn nhi bất nhân như
nhạc hà?”. [15, tr 293] Như vậy, chỉ có người nhân mới phát huy hết cái hay, cái đẹp,
cái công dụng của lễ nhạc mà giáo hóa dân chúng.
Trong tư tưởng về chính trị dựa trên học thuyết nhân trị và chủ nghĩa chính
danh, Khổng Tử phân biệt xã hội ra làm hai lớp người: Quân tử và tiểu nhân. Chữ
quân tử nhằm chỉ những người có địa vị tôn quý trong xã hội, còn chữ tiểu nhân là chỉ
những người lao động có địa vị tấp trong xã hội. Quân Tử là mẫu người lý tưởng mà
đức Khổng Tử luôn khao khát xây dựng nên. Đó là người toàn đức, thấu hiểu đạo lý,
làm cho cái đức ngày càng sáng ra để giáo hóa chúng dân, là nguồn lực, rường cột để

xây dựng một xã hội lý tưởng mà Khổng Tử suốt đời theo đuổi. Với Khổng Tử, quân
tử và tiểu nhân cũng đối lập với nhau, song quân tử không chỉ thuần túy chỉ địa vị xã
hội mà chủ yếu chỉ phẩm chất đạo đức mà người đó đã đạt được. Ông dạy rằng “Ngay
như ở đời vua Cảnh Công nước Tề có một ngàn cỗ xe tứ mã nhưng đến ngày chết
chẳng thấy dân khen; Bá Di, Thúc Tề đói gục trên núi Thú Dương mà đến nay vẫn còn
người ca ngợi”[15, tr 481]. Nghĩa là, theo ông chức tước giàu sang chưa chắc đứng
được ở hàng quân tử, giầy rơm, áo vải chưa chắc đứng ở hạng tiểu nhân. Kể cả những
người đi học cũng vậy. Người học sách thánh hiền để sửa mình cho đúng đạo không
thể giống kẻ mượn đạo để cầu lợi, cầu danh.
Cũng như khi nói về nhân, đề cập đến người quân tử ở mỗi lúc, với mỗi người,
Khổng Tử đưa ra những tiêu chuẩn khác nhau. Song chung quy lại, “quân tử phải đạt
được chín điều: 1/ Khi nhìn thì phải để ý nhìn cho minh bạch; 2/ Khi tai nghe phải lắng
nghe cho rõ ràng; 3/ Sắc mặt phải giữ cho ôn hòa; 4/ tướng mạo thì phải giữ cho khiêm
cung; 6/ Làm việc phải trọng sự kính cẩn; 7/ Có điều nghi hoặc thì phải hỏi han; 8/ Khi
giận thì nghĩ đến hoạn nạn có thể xảy ra; 9/ Khi thấy lợi liền phải nghĩ tới điều nghĩa”
[15, tr 480]. Bằng chín điều Khổng Tử đã đặt ra những yêu cầu từ hình dạng đến thâm
tâm, từ cách ứng xử của mình tới cách ứng xử với người của người quân tử. Những
yêu cầu này, theo Khổng Tử phải có sự trung hòa mà ông gọi đó là đạo “trung dung”,
“trung thứ”.

23


Như vậy, người quân tử trước tiên phải biết tu thân. Không tự tu được thân
không thể giúp được đời, không thể làm tròn bổn phận mình với thiên hạ. Khổng Tử
nói: “Những vị vua, những vị thánh thuở xưa muốn cho cái đức của mình tỏa sáng,
trước hết phải lo sửa trị nước mình. Muốn sửa, trị nước mình trước hết phải sửa nhà
mình. Muốn sửa, trị nhà mình trước hết phải tu tập lấy mình bằng cách thấu suốt đạo
trời để giữ cho lòng ngay thẳng”. [15, tr 156] Cho nên, ông nói “học để tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ là đường đi của người quân tử. Tiểu nhân cũng phải học, nhưng

cái học của tiểu nhân là để họ phục dịch và tuân lệnh kẻ cầm quyền”[15, tr 486] Câu
đầu tiên của Khổng Tử cho ta thấy được vai trò cũng như trách nhiệm của người quân
tử nhưng vế sau lại là sự phân biệt giai cấp, sự học của kẻ tiểu nhân chỉ để phụng sự
cho người quân tử chứ không thuộc về lớp người quân tử được.
Có thể khẳng định đường lối đức trị của Khổng Tử là lấy đạo nhân làm gốc, lấy
lễ làm cơ bản cho sự giáo hóa, lấy việc thực hiện chính sách thân dân làm cơ sở, lấy tư
cách phẩm chất mẫu mực của người quân tử để thực hiện “Đức trị”, “Lễ trị”, “Nhân
trị” nhằm tạo lập một xã hội phong kiến theo điền chế có trật tự, tôn ti.
1.2.2 Tư tưởng triết học Mặc Tử và Biệt Mặc ảnh hưởng đến tư tưởng đức
trị của Mạnh Tử, Tuân Tử.
Mặc Tử họ Mặc, tên Địch người nước Lỗ. Trong Hán thư, Nghệ văn chí lại cho
rằng Mặc Địch người nước Tống thuộc miền Đông tỉnh Hà Nam và miền Tây tỉnh Sơn
Đông bây giờ, từng làm quan đại phu nước Tống. Ông sinh khoảng năm 479 tr.CN và
mất vào năm 381 tr.CN. Học thuyết của Mặc gia khác với Đạo gia và đối lập với Nho
giáo cả nội dung tư tưởng, lẫn chủ trương và nền tảng xã hội. Ông sống khắc khổ, có
tài tranh luận, suốt đời hâm hở cứu vớt thiên hạ, đi chu du các nước để giảng đạo
“Kiêm ái” với một tinh thần, nghị lực và niềm tin hiếm có. Càng thấy thiên hạ ít người
theo mình, ông lại càng gắng sức làm. Ông suốt đời hăm hở, kiên nhẫn, hy sinh làm
việc nghĩa, hòng cứu thiên hạ khỏi cảnh loạn ly, cực khổ, dù gặp nguy hiểm ông vẫn
không nản chí. Sử sách ghi chép rằng, vì lo làm việc nghĩa mà ông “mòn trán lỏng
gót”, “bắp chân bắp vế không còn sợi lông”. Bếp nhà ông lúc nào cũng lạnh vắng. Một
câu chuyện để minh chứng cho sự tận tâm làm việc nghĩa của ông là: Khi Công Thâu
Ban chế giúp nước sở thành công cái thang, sắp đem đi đánh nước Tống. Mặc Tử nghe
tin, Khởi hành từ Tề, đi luôn mười ngày đến đất Dĩnh (kinh đô nước Sở) vào ra mắt

24


×