Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH KỸ THUẬT ĐỊA VẬT LÝ ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGHỊCH ĐẢO ĐỊA CHẤN TRONG VIỆC PHÂN ĐỊNH THẠCH HỌC TẠI MỎ ĐÔNG ĐÔ, LÔ 0297, BỒN TRŨNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.44 MB, 120 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tác giả xin bày tỏ lòng tri ân chân thành và sâu sắc
nhất đến với cán bộ hướng dẫn PGS.TS. Phan Thiên Hương, Cô đã tận tình chỉ bảo, hướng
dẫn, dìu dắt tác giả trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Quý Thầy Cô Khoa Kỹ Thuật Địa Vật
Lý - Trường Đại học Mỏ địa chất Hà nội đã tận tâm, truyền đạt kiến thức – kinh nghiệm quý
báu trong quá trình học tập.

Tác giả xin chân thành cảm ơn đến Ban Lãnh Đạo Công Ty Điều Hành Chung Lam
Sơn cũng như các cán bộ thuộc phòng Địa Chất và Công Nghệ Mỏ đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.

Lê Hồng Lam

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 20 tháng 09 năm 2015
Tác giả

Lê Hồng Lam

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 2




MỤC LỤC

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 3


DANH MỤC HÌNH VẼ

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 4


DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT






2D: Hai chiều
3D : Ba chiều
PSTM : Xử lý miền thời gian trước cộng
KPSDM : Xử lý miền chiều sâu trước cộng
CBM: Xử lý địa chấn với phương pháp dịch chuyển bằng phương pháp






chùm tia
RAI : Thuộc tính trở kháng âm học tương đối
RMS : Trung bình bình phương tối thiểu
Cube : Khối địa chấn

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 5












MI : Tầng Miocene
TVD : Chiều sâu thẳng đứng
MD : Chiều sâu thực
TWT : Thời gian truyền sóng xuống mặt ranh giới quay trở lại máy thu
XL : Tuyến ngang

IL : Tuyến dọc
Ms : mini giây
GOR : Tỉ số khí/dầu
ĐVLGK : Địa vật lý giếng khoan

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 6


• MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài:
• Cho

đến nay, mỏ Đông Đô - Lô 02/97 - Bồn trũng Cửu Long đã được

khoan thăm dò (03 giếng), công tác địa chất, địa chấn, địa vật lý giếng
khoan, phân tích mẫu lõi, mẫu chất lưu (PVT), kết quả thử vỉa đã được
phân tích chi tiết cho việc đánh giá trữ lượng tại chỗ và phương án khoan
phát triển. Kết quả thăm dò - thẩm lượng cho thấy tại đây có tầng cát kết
Miocene là dạng bẫy cấu trúc với thân cát phân lớp mỏng được hình thành
trong môi trường sông uốn khúc (meandering channel). Để chính xác hóa
mô hình địa chất, mô hình thủy động lực cho việc dự báo khai thác cũng
như việc lựa chọn vị trí giếng khoan phát triển thì việc làm sáng tỏ sự
phân bố thạch học có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước những yêu cầu
thực tiễn, học viên đã đăng ký thực hiện đề tài "ÁP DỤNG PHƯƠNG
PHÁP NGHỊCH ĐẢO ĐỊA CHẤN TRONG VIỆC PHÂN ĐỊNH
THẠCH HỌC TẠI MỎ ĐÔNG ĐÔ, LÔ 02/97, BỒN TRŨNG CỬU

LONG" làm luận văn thạc sĩ ngành Kỹ Thuật Địa Vật lý.
2.

Mục tiêu nghiên cứu


Xác định thành phần thạch học và sự phân bố của nó theo tài liệu địa




chấn bằng phương pháp nghịch đảo địa chấn cho mỏ Đông Đô.
Xác định ranh giới của thân cát chứa dầu.
Đánh giá, khoanh vùng, lựa chọn vị trí cho việc thiết kế vị trí giếng
khoan khai thác.

3.

Phương pháp nghiên cứu





Thu thập tài liệu địa chất, địa vật lý khu vực.
Nghiên cứu quá trình xử lý , minh giải tài liệu
Phương pháp nghịch đảo địa chấn.
Tổng hợp kết quả nghiên cứu



4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 7




Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các tầng chứa dầu

trong trầm tích Miocene trung và Miocene dưới mỏ Đông Đô, lô 02/97, bồn trũng
Cửu Long.
5. Nội dung nghiên cứu:


Phương pháp tổng hợp, thu thâp tài liệu địa chất, địa vật lý khu vực



nghiên cứu
Phương pháp phân tích, đánh giá các phương pháp phân tích ngược
địa chấn như là phân tích ngược kiểu dải tần số hữu hạn (bandlimited
inversion), phân tích ngược kiểu khối hay kiểu dựa vào mô hình
(blocky inversion), phân tích ngược địa thống kế (geostatistical
inversion), phân tích ngược có điều kiện biên (constrained inversion)



phương pháp phân tích ngược địa thống kê (geostatistical inversion),

Phương pháp tổ hợp với tài liệu địa vật lý giếng khoan đưa ra các mô
hình xác suất về phân bố thạch học, độ rỗng, độ bão hòa khác nhau

-

(P10, P50, P90). Các bước giải ngược địa thống kê bao gồm:
Hiệu chỉnh tài liệu giếng khoan
Kết tài liệu giếng khoan và địa chấn
Ngược địa chấn đồng thời (SI)
Giải ngược địa thống kê
Đánh giá và xếp hạng

6. Những điểm mới của luận văn:


Kết quả của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ sự cần thiết của

việc phân tích ngược địa chấn trong việc xác định thành phần thạch học, xác suất
phân bố vỉa chứa trong toàn bộ mỏ (P10, P50, P90), nhằm phục vụ cho công tác mô
hình, lựa chọn giếng khoan khai thác.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:

-

Ý nghĩa thực tiễn:
Phục vụ cho công tác đánh giá trữ lượng tại chỗ, tài liệu cho mô hình
địa chất, mô hình thủy động lực hoạch định kế hoạch khoan khai thác
tại khu vực mỏ Đông Đô.

HVTH: Lê Hồng Lam


Trang 8


-

Xây dựng quy trình áp dụng phân tích ngược và biến đổi một số thuộc
tính địa chấn sau cộng góp phần bổ sung vào tổ hợp các phương pháp



xác định đặc điểm tầng chứa dầu khí ở Việt Nam.
Ý nghĩa khoa học:
Là một tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu liên quan
đến việc phân tích ngược tài liệu địa chấn cho việc phân định thành
phần thạch học. Từ kết quả nghiên cứu mở ra khả năng áp dụng
phương pháp này đối với các mỏ khác có điều kiện địa chất tương tự.

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 9


• CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
o 1.1

VỊ TRÍ KIẾN TẠO VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA

CHẤT CỦA BỒN




1.1.1

TRŨNG CỬU LONG

Vị trí kiến tạo

Bồn trũng Cửu Long nằm chủ yếu trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam,

có vị trí địa lý nằm trong khoảng 9 - 110 vĩ bắc, 106o30’ - 109o kinh đông. Với diện tích
khoảng 56.000 km2, hình dạng bầu dục, vồng ra phía biển, kéo dài theo hương ĐB-TN
dọc theo bờ biển từ Vũng Tàu đến Bình Thuận [1].

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 10






Hình 1.1 Vị trí kiến tạo của bể Cửu Long và vùng kế cận trong bình đồ kiến tạo hiện nay của
ĐN châu Á.[1]



Trong bình đồ kiến tạo hiện tại (Hình 1.1) bể Cửu Long nằm ở phần


Đông Nam nội mảng thạch quyển có vỏ lục địa Âu- Á. Đây là một võng sụt kiểu tách
dãn trong Kainozoi sớm phát triển trên miền vỏ lục địa có tuổi trước Kainozoi bị thoái
hoá mạnh trong Kainozoi sớm và bị phủ kín bởi lớp phủ thềm kiểu rìa lục địa thụ động
Kainozoi muộn (N12-Q). Vào Mesozoi muộn (J3-K) vùng này nằm ở phần trung tâm của

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 11


cung magma kéo dài theo hướng ĐB-TN từ Đà Lạt đến đảo Hải Nam. Móng của bể Cửu
Long chủ yếu được tạo nên bởi các đá xâm nhập granitoid và phun trào thuộc cung
magma này [1].



1.1.2

Các thành tạo địa chất

Cấu tạo nên bồn trũng Cửu Long gồm có thành tạo địa chất tạo móng có

tuổi trước Kainozoi và các thành tạo lớp phủ hình thành trong Kainozoi. Cột địa tầng
tổng hợp của bồn trũng thể hiện trên hình 1.2 [1].


Tham gia tạo móng của bồn trũng chủ yếu là các đá Granitoid có tuổi

Mesozoi muộn (J3 - K), gồm hai tổ hợp thạch kiến tạo (THTKT) sau:



THTKT cung magma rìa lục địa tích cực Đà Lạt tuổi Jura muộn-Creta.
Thuộc THTKT này là các đá xâm nhập-phun trào kiểu I thuộc loạt vôi-kiềm



(phức hệ Định Quán - Đèo Cả, hệ tầng Đèo Bảo Lộc - Nha Trang).
THTKT tách dãn Đơn Dương tuổi Creta muộn trên cung núi lửa-Pluton Jura
muộn-Creta. Thuộc THTKT này là các đá xâm nhập và phun trào felsic
(granit sáng màu phức hệ Ankroet, phun trào felsic hệ tầng Đơn Dương)




Phần trên là lớp phủ của bồn trũng gồm 2 THTKT:

THTKT bồn tách dãn Cửu Long tuổi Eocen muộn (?) - Miocen sớm được tạo
nên bởi trầm tích lục nguyên và phun trào bazan. Thuộc các hệ tầng Cà Cối,
Trà Cú, Trà Tân và hệ tầng Bạch Hổ, tương ứng với các tập địa chấn F, E, D,



C và BI.
THTKT thềm rìa lục địa thụ động nội mảng Biển Đông Việt Nam tuổi
Miocen trung - Đệ Tứ được cấu tạo nên chủ yếu bởi các trầm tích bở rời có
nguồn gốc thềm lục địa và biển nông. Thuộc các hệ tầng Côn Sơn, Đồng Nai,



Biển Đông, tương ứng với các tập địa chấn BII, BIII và A.

Tuy nhiên không loại trừ trường hợp còn có các tổ hợp thạch kiến tạo khác
mà bản thân chúng đã được xác định có tồn tại ở lục địa kế cận như: THTKT
chùm Dike tách giãn Cù Mông - Phan Rang tuổi Paleocen, THTKT Plum
nâng vòm khối tảng nội mảng lục địa tuổi Miocen muộn – Đệ Tứ, và một số
THTKT khác.

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 12





Hình 1.2:Cột địa tầng tổng hợp bồn trũng Cửu Long [1]





1.1.3

Lịch sử phát triển địa chất

Lịch sử tiến hoá kiến tạo liên quan đến hình thành và phát triển của bồn

trũng Cửu Long có thể chia làm bốn giai đoạn [1] như sau:


Giai đoạn Jura muộn- Creta (J3 - K)


HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 13




Vào đầu giai đoạn này vùng nghiên cứu nằm trên cung magma của rìa

lục địa tích cực kiểu Andes, do mảng Thái Bình Dương hút chìm xuống dưới phía Đông
nam của lục địa Âu - Á. Các hoạt động magma xâm nhập và phun trào xảy ra mạnh mẽ.
Các phức hệ Định Quán - Đèo Cả, hệ tầng Đèo Bảo Lộc - Nha Trang là minh chứng
cho thời kỳ này (hình 1.3).


Hoạt động hút chìm vẫn tiếp tục diễn ra đến cuối Creta muộn, nhưng vào

thời kỳ này góc hút chìm gần như thẳng đứng đã dẫn tới sự tách dãn trên cung núi lửa
Pluton, và di chỉ để lại của thời kỳ này là phức hệ Ankoet, hệ tầng Đơn Dương (hình
1.4)




Hình 1.3: Rìa lục địa tích cực thời kỳ J3-K [1]

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 14










Hình 1.4: Rìa lục địa tích cực thời kỳ Creta muộn [1]

Giai đoạn Paleocen – Eocen sớm
Vào giai đoạn này cả Đông Nam Á bị bao quanh bởi đới hút chìm, phía

tây và tây nam mảng Ấn-úc húc vào Âu-Á, phía đông và đông nam mảng Thái Bình
Dương hút chìm dưới Âu - Á, vùng nghiên cứu nằm trong vùng có chế độ nâng lên
mạnh mẽ. Trong giai đoạn này đã xảy ra quá trình phong hoá, bóc mòn trên cả khu vực
Đông Dương. Kết quả của phong hoá bóc mòn là lộ ra đá xâm nhập trước Kanozoi.


Điều này giải thích vì sao trong cột địa tầng của bồn trũng Cửu Long

vắng mặt trầm tích tuổi Paleocen - Eocen sớm thay vào đó là trầm tích Eocen muộn và
trầm tích Oligocen sớm phủ bất chỉnh hợp lên móng trước Kanozoi. Đây là một bất
chỉnh hợp mang tính chất khu vực rộng lớn đánh dấu một giai đoạn gián đoạn trầm tích
trong một thời gian kéo dài (gần 30 triệu năm).



Giai đoạn Eocen muộn – Miocen sớm

Trong giai đoạn này vùng nghiên cứu chịu ảnh hưởng của các hoạt động

kiến tạo khu vực mạnh mẽ:

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 15




Mảng Ân-Úc và mảng Thái Bình Dương vẫn tiếp tục hút chìm vào Âu -




Á.
Sự hút chìm tiêu biến Biển Đông cũ và tách giãn tạo vỏ đại dương mới.
Hai đứt gãy Sông hồng và Ba Tháp hoạt động mạnh mẽ, đẩy mảng ShanIndonisia về phía Đông Nam.



Bản đồ kiến tạo khu vực vào giai đoạn này được thể hiện trên hình 1.5






Hình 1.5: Kiến tạo khu vực trong Kainozoi sớm (Robert Hall, 1996)


Những hoạt động kiến tạo khu vực này đã tác động rất lớn đến quá trình

hình thành và phát triển của Bồn trũng Cửu Long. Đó là một quá trình dài vừa tách dãn
sụt lún đồng trầm tích, đồng thời xen kẽ các pha ngưng nghỉ đổi trục tách dãn, nghịch
đảo kiến tạo nâng lên bóc mòn hay bị nén ép hình thành các dạng kiến trúc khác nhau.
Quá trình đó trình tự như sau:


Đầu Eocen muộn: bắt đầu quá trình tách giãn, trục của trường tách giãn

là TB-ĐN, tạo nên các địa hào, bán địa hào xen kẽ với các địa luỹ, bán địa luỹ kéo dài
theo phương ĐB – TN, các địa hào và địa luỹ này được lấp đầy bởi các trầm tích tuổi
Eocen muộn, không liên tục, thuộc hệ tầng Cà Cối đặc trưng với trầm tích hạt thô: cuội
sạn kết, cát kết, trầm tích có màu đỏ đến tím lục, độ chọn kém phản ánh môi trường
trầm tích lục địa. Các thành tạo trầm tích này tương ứng với tập địa chấn F.


Chuyển sang giai đoạn Oligocen sớm hoạt động tách giãn vẫn tiếp tục

diễn ra, đi cùng với tách dãn là sự sụt lún không đều, làm xuất hiện các bán địa hào, và

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 16


bán địa luỹ, hay còn gọi là cấu trúc các listric (hình 1.6). Các bán địa hào và bán địa luỹ
này vẫn tiếp tục chịu tác động bởi nhiều hoạt động kiến tạo làm cho chúng sụt lún sâu
hơn cùng quá trình trầm tích. Môi trường trầm tích chuyển đổi liên tục từ lục địa sang

môi trường đầm hồ và vũng vịnh ven biển, thuộc hệ tầng Trà Cú, Trà Tân tương ứng với
các tập địa chấn E, D và C.






Hình 1.6: Các listric hình thành do căng dãn và sụp lún không đều [1]

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà địa chất thì quá trình sụp lún và

trầm tích từ Eocen muộn đến cuối Oligocen là không liên tục, tuy hoạt động tách dãn
chiếm ưu thế nhưng đan xen vào đó là các thời kỳ ngưng nghỉ, nâng lên bóc mòn, đó là
sự thay đổi suất từ ĐB-TN sang Á kinh tuyến rồi sau ngưng nghỉ lại đổi phương trường
ứng suất sang ĐB-TN gây ra căng giãn và nén ép, các bề mặt không chỉnh hợp giữa D
và E, giữa C và D là minh chứng cho điều này.

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 17




Vào cuối Oligocen: Trường lực căng dãn yếu dần, lực đẩy về phía ĐN

chiếm ưu thế, vùng nghiên cứu chuyển từ chế độ tách dãn, sụp lún trầm tích sang chế độ
nén ép nâng lên bóc mòn tạo nên bất chỉnh hợp sau C. Đồng thời xuất hiện các đứt gãy
nghịch và trượt bằng. Những đứt gãy này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành

các đới khe nứt, dập vỡ lớn trong móng. Ngoài ra trong giai đoạn chịu trường lực ép này
đã tạo nên các nếp uốn cho các tập E, D và C.


Đây cũng chính là thời điểm kết thúc quá trình đồng tạo rift. Tuy nhiên

hoạt động kiến tạo căng dãn hay nén ép vẫn còn tiếp tục nhưng với cường độ yếu hơn.


Đầu Miocen sớm: Bể Cửu Long vẫn tiếp tục sụt lún, hoạt động kiến tạo

vẫn còn nhưng yếu hơn giai đoạn trước, trầm tích lấp đầy bể mở rộng hơn, chủ yếu là
các trầm tích hạt nhỏ, mịn có xen kẹp các lớp bột sét màu lục, phản ánh môi trường
trầm tích là vùng vịnh cửa sông và tam giác châu. Đến giữa Miocen sớm hoạt động tách
dãn tái hoạt động, để lại dấu ấn là lớp phun trào basalt nằm giữa BI.


Vào cuối Miocen sớm: hoạt động tách giãn ngưng nghỉ hoàn toàn, bồn

trũng vẫn tiếp tục sụt lún từ từ, biển tiến vào theo diện rộng. Trầm tích biển nông phân
bố rộng khắp trên toàn bồn trũng, trầm tích có tính chất sét (xen kẽ ít bột), đây là loại
sét giàu hoá thạch Rotalia, hay còn gọi là sét Rotalia dày 50 ÷ 200mét, thuộc hệ tầng
Bạch Hổ, là một tầng chắn khu vực tuyệt vời cho toàn bồn trũng.



Giai đoạn Mixen giữa - Đệ tứ ( N12 – Q)
Vào giai đoạn này, bể Cửu Long nằm trên vùng có chế độ rìa lục địa thụ

động, các hoạt động kiến tạo rất yếu và ít ảnh hưởng tới cấu trúc bồn trũng. Quá trình

sụt lún đồng trầm tích vẫn tiếp tục diễn ra.


Được hình thành trong chế độ kiến tạo bình ổn, các trầm tích có thế nằm

ngang là chủ yếu, đôi nơi gặp thế nằm nghiêng, gá đáy lên bề mặt của trầm tích trước
đó.


Phủ bất chỉnh hợp lên hệ tầng Bạch Hổ là hệ tầng Côn Sơn (Miocen

trung), tương ứng với tập địa chấn BII, thành phần thạch học chủ yếu là cát, sét,
cacbonat và một ít lớp than xen kẽ. Bề dày hệ tầng thay đổi từ 250 ÷ 900 mét. Trầm tích

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 18


hệ tầng này hầu như nằm ngang, hoặc có gợn sóng theo cấu trúc bề mặt nóc của hệ tầng
Bạch Hổ.


Cùng một chế độ kiến tạo bình ổn, Hệ tầng Đồng Nai (Miocen thượng)

phủ bất chỉnh hợp lên hệ tầng Côn Sơn, chủ yếu là cát hạt trung xen kẽ với bột và các
lớp sét mỏng màu xám hay nhiều màu đôi khi gặp cacbonat. Môi trường trầm tích là
đồng bằng ven bờ ở phía tây bể và trầm tích biển nông ở phía Đông và Bắc của bể.
Tương ứng với tập địa chấn BIII.



Trên cùng là trầm tích hệ tầng Biển Đông (Pliocen-Đệ tứ), tương ứng với

tập địa chấn A. Trầm tích biển nông, nằm ngang, không uốn nếp, mức độ gắn kết yếu.


Một cách tổng quát, lịch sử tiến hoá kiến tạo của bồn trũng qua ba giai đoạn:


Giai đoạn trước tạo rift, tạo nên móng của bồn trũng, chủ yếu thành phần



xâm nhập và phun trào núi lửa.
Giai đoạn đồng tạo rift xảy ra vào Eocen – Oligocen hình thành các tập E,
D, C, BI môi trường trầm tích thay đổi từ đồng bằng ven biển đến biển



nông ven bờ.
Giai đoạn sau tạo rift, các trầm tích Miocen phủ lên trầm tích cổ hơn, các
trầm tích hình thành trong thời kỳ này chủ yếu là nằm ngang phủ kín lên
toàn bồn trũng, ít bị uốn nếp và ít bị các đứt gãy chia cắt, bề dày trầm tích
thường ổn định, độ gắn kết còn yếu hơn so với các trầm tích bên dưới.




1.1.4


Hệ thống dầu khí

Theo các tài liệu về nghiên cứu địa chất, địa vật lý cũng như kết quả của

quá trình tìm kiếm, thăm dò và khai thác cho tới nay thì bể Cửu Long là bể trầm tích có
tiềm năng dầu khí lớn nhất tại Việt Nam [1].


Tất cả các phát hiện dầu khí tại bể Cửu Long đều gắn với các cấu tạo

dương nằm trong phần lún chìm sâu của bể. Các cấu tạo này đều có liên quan đến sự
nhô cao của móng có tuổi trước Kainozoi, kề trên và xung quanh của các khối nhô cao
này thường nằm gá đáy là các trầm tích Eocen và trầm tích Oligocen.

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 19




Với những đặc trưng riêng về chế độ kiến tạo gắn liền với quá trình hình

thành và phát triển, bể Cửu Long có các đặc điểm về tầng sinh, tầng chứa và tầng chắn
như sau:


1.4.1




Đặc điểm và tiềm năng của tầng sinh

Tầng sinh dầu khí của bể Cửu Long chủ yếu là các tập sét nằm trong

phần lún chìm sâu của bể, thường là trong các địa hào và bán địa hào.


Tầng sét Oligocen thượng có bề dày từ 100 mét ở rìa và tới 1200 mét ở

phần trung tâm của bể. Tầng này rất phong phú vật chất hữu cơ thuộc loại rất tốt, TOC
dao động từ 3.5% đến 6.1%, đôi nơi tới 11 ÷ 12%, các giá trị S1, S2 cũng có giá trị rất
cao: 4 ÷ 21 kg HC/tấn đá.


Tầng sét Oligocen hạ và phần trên của Eocen có bề dày từ 0 ÷ 600 mét ở

phần trũng sâu của bể. Vật chất hữu cơ thuộc loại tốt đến rất tốt, TOC = 0.97 ÷ 2.5%
Wt, với các chỉ tiêu S1 = 0.4 ÷ 2.5 kg HC/tấn đá, S2 = 3.6 ÷ 8.0kgHC/tấn đá. Ở tầng
này lượng HC trong đá mẹ vẫn thấp hơn so với tầng sét Oligocen thượng.


Các lớp sét trong phần dưới của Eocen muộn (tập địa chấn F) đã đến

ngưỡng sinh dầu nhưng chất lượng kém và bề dày mỏng, khả năng sinh dầu kém. Tầng
sét Miocen hạ có hàm lượng cacbon hữu cơ thuộc loại trung bình, mức độ trưởng thành
thấp và chưa tới ngưỡng sinh dầu.





1.4.2

Đặc điểm tầng chứa

Đá móng Granitoid hang hốc, nứt nẻ là một trong những đối tượng có

khả năng chứa dầu rất tốt tại các mỏ dầu ở bồn trũng Cửu Long. Đá móng nứt nẻ gồm
granit, granit-gnies, granodiorit, diorit, mozodiorit, gabro v.v…đôi chỗ bị các mạch
diabas cắt qua và bị biến đổi ở nhiều mức độ khác nhau.


Nứt nẻ và hang hốc được hình thành do hai yếu tố: nguyên sinh – sự co

rút của đá magma khi nguội lạnh và quá trình kết tinh; thứ sinh- hoạt động kiến tạo và
quá trình phong hoá và biến đổi thuỷ nhiệt. Đối với đá móng thì độ rỗng thứ sinh đóng
vai trò chủ đạo, bao gồm độ rỗng nứt nẻ và độ rỗng hang hốc. Trong đó hoạt động thuỷ
nhiệt có thể làm tăng kích thước các hang hốc, nứt nẻ được hình thành từ trước, nhưng
cũng có khi lấp đầy hoàn toàn hoặc một phần các nứt nẻ bởi các khoáng vật thứ sinh.

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 20




Cát kết trong các tầng Oligocen dạ, Oligocen thượng và trong Miocen

cũng là những tầng chứa tốt, có nguồn gốc từ lục địa tới biển nông ven bờ. Cát kết tầng

Oligocen hạ nói chung có độ chọn lọc kém và độ hạt lớn hơn so với các tập cát trên đó.
Độ rỗng của tập cát trong tập Oligocen hạ là 12 ÷ 16%, độ thấm dao động từ 1÷250
milidarcy.Trong khi đó tập cát Oligocen thượng có độ rỗng từ 12 ÷ 21%, trung bình là
14%, độ thấm 2 ÷ 260 milidarcy. Còn cát kết Miocen hạ có độ rỗng là 13÷25% trung
bình 19%, độ thấm trung bình 190 milidarcy.




1.4.3

Đặc điểm tầng chắn

Dựa vào đặc điểm thạch học, cấu tạo, bề dày và diện phân bố của các tập

sét trong mặt cắt trầm tích bể Cửu Long ta có thể phân ra một tầng chắn khu vực và các
tầng chắn địa phương [1].


Tầng chắn khu vực chính là tập sét Rotalia Bạch Hổ, thuộc hệ tầng Bạch

hổ (tập địa chấn BI). Đây là một tầng sét phát triển rộng trên cả bồn trũng Cửu Long,
chiều dày khá ổn định từ 180 ÷ 200 mét. Đá có cấu tạo khối, hàm lượng sét cao
(90÷95%), và đặc biệt là rất ít bị các đứt gãy xuyên cắt làm dịch chuyển. Đây là một
tầng chắn rất tốt cho cả dầu và khí.


Ngoài ra tại những khu vực nhất định trong bồn trũng có các tầng sét

nằm đan xen với các tầng cát, là những tầng chắn rất tốt cho sự tích tụ dầu khí trong các

tầng cát nằm dưới nó. Các tầng sét thuộc hệ tầng Trà Tân (Oligocen thượng), với lớp sét
dày có nguồn gốc từ đầm hồ, tiền delta có khả năng chắn tốt là tầng chắn quan trọng cho
sự tích tụ dầu khí.

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 21


o 1.2

VỊ TRÍ VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHÂT MỎ ĐÔNG ĐÔ




1.2.1

Vị trí mỏ Đông Đô

Mỏ Đông Đô nằm ở phía Tây Bắc lô 02/97 thuộc bồn trũng Cửu Long,

thềm lục địa phía Nam Việt Nam, cách thành phố Vũng Tàu khoảng 160 km về phía
Đông, cách mỏ Ruby (Lô 01 và 02) 26 km về phía Nam, cách mỏ Sư Tử Trắng (Lô
15.1) 20 km về phía Đông, và cách mỏ Rạng Đông (Lô 15.2) 35 km về phía Đông Bắc
[1].







Hình 1.7: Vị trí mỏ Đông Đô [1]

Trong mỏ Đông Đô, dầu và khí được chứa trong trầm tích cát kết Miocen

thượng (thành hệ Đồng Nai, Vỉa BIII Sand), Miocen trung (thành hệ Côn Sơn trên-dưới,
Vỉa BII.2.20, BII.2.30 và BII.1.10), Miocen hạ (thành hệ Bạch Hổ trên-dưới, Vỉa
BI.2.20, BI.2.30, BI.1.20), Oligocen hạ và móng trước Đệ Tam.


Trên bản đồ cấu trúc bồn trũng Cửu Long, cấu tạo Đông Đô là 1 phần

của đới nâng Amethyst bao gồm Đông Đô - Thăng Long - Kinh Ngư Vàng - Hồ Tây,
đới nâng này nằm ở rìa Đông Nam của bồn trũng Cửu Long

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 22





1.2.2

Các thành tạo địa chất

Nhìn chung địa tầng và môi trường lắng đọng trầm tích của mỏ Đông Đô


phù hợp với địa tầng của bể Cửu Long và lô 01/97 và 02/97 [1].


Địa tầng của mỏ Đông Đô bao gồm móng trước Kainozoi, Oligocen hạ

(Thành hệ Trà Tân dưới, Tập E), Oligocen thượng (Thành hệ Trà Tân trên-giữa, Tập C
và D), Miocen hạ (Thành hệ Bạch Hổ thượng- hạ, Tập BI.2 và BI.1), Miocen trung
(Thành hệ Côn Sơn thượng-hạ, Tập BII.2 và BII.1), Miocen thượng (Thành hệ Đồng
Nai, Tập BIII) và Pliocen đến hiện tại (Thành hệ Biển Đông, Tập A) (hình 1.8)






Hình 1.8: Các thành tạo địa chất mỏ Đông Đô[1]

Móng trước Đệ Tam

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 23




Granit, Granodiorit với monzonit điôrít thạch anh, đôi chỗ là đá biến

chất, đá núi lửa (mạch bazal và anđêzít) và được chia làm 2 đới: trên và dưới.



Đới trên bao gồm Granite, Granodiorit bị phong hoá ở mức trung bình-

cao, có nhiều mầu sắc khác nhau, loang lổ, dạng hạt, có chứa tinh thể canxít, lưu huỳnh,
epidot, hocblen, khoáng vật giầu magiê, sắt và nhiều khe nứt nhỏ.


Đới dưới bao gồm Granite, Granodiorit nứt nẻ và được lấp đầy bởi canxít

và zêôlít, đôi chỗ là mạch granodiorit? và đá fenzit (granôphyre?). Granit, Granodiorit
bao gồm chủ yếu là thạch anh, phenxpat kali, plagiocla và thứ yếu là mica, và các
khoáng vật thứ sinh là sét, clorit, zêôlít và canxít. Đá bị nứt nẻ nhiều và cho dòng dầu
tốt.


Oligocen hạ- Thành hệ Trà Tân hạ (Tập E)



Thành hệ Trà Tân hạ nằm kề lên móng nâng cao của mỏ Đông Đô và

không gặp tại các giếng khoan của mỏ. Ở mỏ Thăng Long tập E bao gồm chủ yếu là cát
kết phân lớp xen với sét kết/phiến sét chứa vật chất than, mầu xám đen, xám nâu, nâu
đen, xám tối và bột kết.


Oligocen thượng - Thành hệ Trà Tân trung (Tập D)




Sét kết/sét phiến chứa vật chất than dày mầu xám ôliu, xám đen, xám

nâu, xám tối phân lớp xen với cát kết và bột kết mỏng. Tập D là tập đá sinh dầu chính
và là tập đá chắn tốt của bể Cửu Long. Môi trường lắng đọng trầm tích là vịnh có ảnh
hưởng của nước biển và hồ nước ngọt.


Oligocen thượng - Thành hệ Trà Tân thượng (Tập C)



Tập C không gặp tại các giếng khoan trong mỏ Thăng Long - Đông Đô

do bị bào mòn. Tài liệu trong vùng chỉ ra rằng tập C bao gồm cát kết phân lớp xen với
sét kết và bột kết. Môi trường lắng đọng trầm tích là hồ có ảnh hưởng của nước biển và
hồ ven bờ.



Miocen hạ - Thành hệ Bạch Hổ hạ (Tập BI.1)
Cát kết phân lớp xen với sét kết mầu xám xanh sáng-trung, xám ôliu,

xám trung, xám xanh tối, xám nâu, nâu tối, nâu vàng và bột kết. Môi trường lắng đọng
trầm tích là sông ngòi.

HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 24






Miocen hạ- Thành hệ Bạch Hổ thượng (Tập BI.2)
Sét kết mầu xám xanh, xanh nhạt, xanh vàng, xám tối, phân lớp xen với

cát kết và bột kết mỏng. Phần trên cùng của thành hệ này là tập sét phiến dày có khả
năng chắn khu vực tốt và gọi là “Sét Bạch Hổ”. Môi trường lắng đọng trầm tích là sông
ngòi.



Miocen trung- Thành hệ Côn Sơn hạ (Tập BII.1)
Cát kết phân lớp xen với sét kết mầu xám ô liu, xám trung, xám xanh lá

cây, xám xanh sáng, xám nâu tối, nâu tối, nâu vàng, và những lớp bột kết mỏng. Môi
trường lắng đọng trầm tích là sông, hồ nước cạn (exposed lacustrine) đến vịnh ven biển.



Miocen trung - Thành hệ Côn Sơn thượng (Tập BII.2)
Cát kết phân lớp xen với sét kết mầu xám ôlui, xám trung, xám xanh lá

cây, xám xanh sáng, xám nâu, nâu đỏ, nâu vàng, tím da cam, và bột kết mỏng. Môi
trường lắng đọng trầm tích là hồ nước cạn (exposed lacustrine) đến thềm lục địa ven
biển.



Miocen thượng - Thành hệ Đồng Nai (Tập BIII)

Cát kết phân lớp xen với sét kết mầu xám sáng, xám trung, xám tối, đôi

chỗ xám xanh lá cây, xám xanh sáng, bột kết mỏng, và những lớp mỏng đôlômít/đá vôi
và mạch than. Môi trường lắng đọng trầm tích là đồng bằng ven đến biển nông.



Pliocen-hiện tại - Thành hệ Biển Đông (Tập A)
Cát/cát kết phân lớp xen với sét/sét kết mỏng, mầu xám sáng, xám ôliu,

bột kết mỏng, những lớp mỏng đôlômít/đá vôi và mạch than được lắng đọng trong môi
trường biển nông và thềm lục địa ven biển.



1.2.3

Đặc điểm cấu trúc và bẫy chứa [1]

Mỏ Đông Đô nằm ở phía Tây Bắc lô 02/97 thuộc phần Đông Bắc bồn

trũng Cửu Long. Bồn trũng Cửu Long nằm dọc theo bờ biển phía Đông Nam của Việt
Nam và thuộc loại bể tách giãn vào thời gian sớm của Đệ Tam với diện tích khoảng
150.000 km2 bao gồm trầm tích trong giai đoạn tách giãn lún chìm tuổi Oligocen Miocen sớm và trầm tích thềm lục địa tuổi Miocen sớm - Pleixtoxen của vùng mép bờ
thụ động tựa kề lên móng tuổi Mezozoi muộn.
HVTH: Lê Hồng Lam

Trang 25



×