Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tên nước việt nam qua các thời kì+ thống kê các triều đại và sơ lược lịch sử việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.05 KB, 28 trang )

THỐNG KÊ
LỊCH SỬ TÊN NƯỚC VIỆT
Theo dòng lịch sử, nước Việt Nam đã mang nhiều Quốc hiệu :
* Vào niên đại vua Kinh Dương, năm 2879 TCN., tên nước là
Xích Quỷ
* Đời Hồng Bàng : tên nước là Văn Lang (2879 - 258 TCN) :
* Trong thời kỳ đô hộ bởi Chế độ phong kiến phương Bắc
nước Việt Nam bị chia cắt nhiều và mang tên như là những quận
huyện của nhà nước cai trị đương thời :Năm 221 trước CN, Tần
Thủy Hoàng, vua Trung Hoa, xâm chiếm lãnh thổ Việt. Nhà
Tần lược định phía Nam và gọi là Tượng quận (246 -206 TCN).Âu
Lạc (257 - 207 TCN) :Ðời nhà Thục An Dương Vương Âu Việt đã
đuổi được Trung hoa và lấy tên Âu Lạc (năm 208 trước CN).
* Đời Nhà Hán lật đổ nhà Triệu và chia Tượng quận ra thành 3
quận nhỏ :Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (202 TCN - 220).
* Cuối nhà Đông Hán trị vì ở Trung Quốc, vua Hiến Đế đổi quận
Giao Chỉ thành Giao Châu.
Nhưng sau đó bị Trung Hoa xâm lấn trong suốt 700 năm.
*Mùa Xuân 542, Lý BÍ xua đuổi được quân Tàu và tự xưng vua
nước Vạn Xuân
*Sau đến nhà Đường:Nước Việt Nam lại mang tên mới là An
Nam đô hộ phủ (618 - 907)
*Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh đánh thắng Thập nhị Tướng Quân và
thống nhất lãnh thổ, ông xưng Vương và đặt tên nước là Ðại Cồ
Việt. Tên này giữ nguyên dưới triều đại nhà Ðinh (869-979), Lê
(980-1009) và cho đến đầu triều đại nhà Lý (1010-1053).


* Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đổi tên nước là Ðại Việt. Tên
này được giữ cho đến đời nhà Trần.
* Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần và đổi quốc hiệu


là Ðại Ngu (nghĩa là hòa bình). Tên này được dùng cho đến khi
quân Minh xâm chiếm nước Ðại Ngu và thắng họ Hồ năm 1407.
*Sau 10 năm kháng cự với quân Minh đang xâm chiếm nước
ta (1418-1427), Lê Lợi đại thắng quân Minh. Năm 1428 ông lên
ngôi và lấy trở lại tên cũ là Ðại Việt. Tên này tồn tại trong suốt triều
đại nhà Lê (1428-1787) và nhà Tây Sơn (1788-1810).
* Dưới triều vua Lý Anh Tông, nhà Tống công nhận nước ta là
một quốc gia độc lập, lấy tên là An Nam quốc
*Thời vua Gia Long thống nhất cả hai miền Nam Bắc, lấy quốc
hiệu là Việt Nam từ chữ An Nam và Việt Thường
*Trong triều đại Minh Mạng (1820-1840) tên nước lại được đổi
là Ðại Nam nhưng cái tên Việt Nam vẫn tồn tại rộng rãi khắp nơi
trong văn chương, kinh tế và xã hội.

THỐNG KÊ CÁC VUA




























Nếu không tính Hùng Vương là thời kỳ huyền sử còn nhiều
nghi vấn, có thể đưa ra các thống kê về vua Việt Nam và các triều
đại Việt Nam như sau (không tính các thời Bắc thuộc)[1]:
Hoàng đế đầu tiên: Lý Nam Đế (544 - 548) với niên hiệu đầu
tiên là Thiên Đức
Hoàng đế cuối cùng: Bảo Đại (1925 - 1945)
Ở ngôi lâu nhất: Triệu Vũ Vương Triệu Đà: 70 năm (207-137
TCN), Lý Nhân Tông Càn Đức: 56 năm (1072 - 1127), thứ đến Hậu
Lê Hiển tông Duy Diêu: 47 năm (1740 - 1786).
Ở ngôi ngắn nhất: Tiền Lê Trung Tông Long Việt: 3 ngày
(1006), Dục Đức: 3 ngày (1883)
Lên ngôi trẻ nhất: Lê Nhân Tông lúc 1 tuổi (1442); Mạc Mậu
Hợp lúc 2 tuổi (1562); Lý Cao Tông lúc 3 tuổi; Lý Anh Tông cũng 3
tuổi; Lý Chiêu Hoàng lúc 6 tuổi (1224).
Lên ngôi già nhất: Trần Nghệ Tông Phủ, khi 50 tuổi (1370);
Triệu Đà khi 50 tuổi (207 TCN)
Trường thọ nhất: Bảo Đại 85 tuổi (1913-1997), vua Trần
Nghệ Tông 74 tuổi (1321 - 1394). Nếu tính Triệu Đà thì Triệu Đà là

vua thọ nhất: 120 tuổi (257-137 TCN) (theo Đại Việt Sử ký Toàn
thư). Ngoài ra, nếu tính cả các chúa thì chúa Nguyễn Hoàng thọ
hơn Bảo Đại: 89 tuổi (1525 - 1613)
Yểu thọ nhất: Hậu Lê Gia Tông Duy Khoái 15 tuổi (1661 1675)
Nữ vương đầu tiên: Trưng Vương (Trưng Trắc) (vì chỉ xưng
vương) (40-43)
Nữ hoàng duy nhất: Lý Chiêu Hoàng Phật Kim (1224 - 1225),
vợ vua Trần Thái tông Cảnh (1226 - 1258).
Vua duy nhất ở ngôi 2 lần: Hậu Lê Thần Tông (1619-1643 và
1649-1662)
THỐNG KÊ VỀ CÁC TRIỀU ĐẠI
Triều đại tồn tại lâu nhất: nhà Hậu Lê 356 năm (1428 - 1527
và 1533 - 1788).
Triều đại tồn tại ngắn nhất: nhà Hồ 8 năm (1400 - 1407).









Triều đại truyền nhiều đời vua nhất: nhà Hậu Lê: 27 vua (từ
Thái Tổ đến Chiêu Thống), nhà Trần (kể cả Hậu Trần) 14 vua.
Triều đại truyền ít đời nhất: nhà Thục 1 vua.
Triều đại truyền qua nhiều thế hệ nhất: nhà Hậu Lê 14 đời
(từ Thái Tổ Lê Lợi đến Trung Tông Duy Huyên, rồi từ Anh Tông
Duy Bang đến Chiêu Thống Duy Kỳ), sau đó là nhà Lý: 9 đời (từ
Thái Tổ Công Uẩn đến Chiêu Hoàng Phật Kim).

Triều đại xảy ra phế lập, sát hại các vua nhiều nhất: Nhà Lê
sơ 6/11 vua.

THỐNG KÊ CÁC VUA
HỒNG BÀNG & VĂN LANG: (Khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 3 trước
CN)
1. Kinh Dương Vương (~3054-~2839 TCN)
2. Lạc Long Quân
3. Hùng Vương (18 đời)
ÂU LẠC & NAM VIỆT: (Thế kỷ 3 trước CN)
1. An Dương Vương (257-207 TCN)
THUỘC TÂY HÁN : (Thế kỷ 2 trước CN đến năm 25)
1. Triệu Vũ Vương Triệu Đà 207-137 TCN
2. Triệu Văn Vương Triệu Hồ 137-125 TCN
3. Triệu Minh Vương Triệu Anh Tề 125-113 TCN
4. Triệu Ai Vương Triệu Hưng 113-112 TCN
5. Triệu Thuật Dương Vương Triệu Kiến Đức 112-111 TCN
Các vua nhà Triệu là người Hán, không phải người Việt.
THUỘC ĐÔNG HÁN: (25 - 226)
1. Hai Bà Trưng: Trưng Trắc - Trưng Nhị (40 - 43)
THUỘC ĐÔNG NGÔ: (220 - 265)
1. Bà Triệu: Triệu Thị Trinh (246 - 248)
THUỘC LƯỠNG TẤN : (265 - 420)
THUỘC NAM BẮC TRIỀU : (420 - 589)
NHÀ LÝ & NHÀ TRIỆU : (541-602)
1. Lý Nam Đế Lý Bí còn gọi là Lý Bôn 541-548


2. Triệu Việt Vương Triệu Quang Phục 549-571
3. Hậu Lý Nam Đế Lý Phật Tử 571-602

THUỘC TÙY : (602 - 617)
THUỘC ĐƯỜNG : (618 - 907)
1. Mai Hắc Đế : Mai Thúc Loan 722
1. Phùng Hưng : Phùng An 791
THUỘC NGŨ ĐẠI : (907 - 938)
NHÀ KHÚC (Tĩnh Hải Tiết độ sứ): (905 - 939)
1. Khúc Thừa Dụ 906-907
2. Khúc Thừa Hạo 907-917
3. Khúc Thừa Mỹ 917-923/930
4. Dương Đình Nghệ 931-937
5. Kiều Công Tiễn 937-938
NHÀ NGÔ : (939 - 967)
1. Tiền Ngô Vương Ngô Quyền 939-944
2. Dương Bình Vương Dương Tam Kha 944-950
3. Hậu Ngô Vương Ngô Xương Ngập 950-965
Hậu Ngô Vương Ngô Xương Văn 950-965
Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô và làm vua trong 6 năm.
Thời Hậu Ngô Vương gồm hai vị vua Nam Tấn Vương Ngô Xương
Văn và Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập cùng trị vì.
LOẠN 12 SỨ QUÂN
NHÀ ĐINH : (968 - 980)
1. Đinh Tiên Hoàng Đinh Bộ Lĩnh 968-979
2. Đinh Phế Đế Đinh Toàn 979-980
NHÀ TIỀN LÊ : (980 - 1010)
1. Lê Đại Hành Lê Hoàn 980-1005
2. Lê Trung Tông Lê Long Việt 1005 (3 ngày)
3. Lê Ngoạ Triều Lê Long Đĩnh 1005-1009
NHÀ LÝ : (1010 - 1225)
1. Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn 1010 - 1028
2. Lý Thái Tông Lý Phật Mã 1028 - 1054

3. Lý Thánh Tông Lý Nhật Tôn 1054 - 1072
4. Lý Nhân Tông Lý Càn Đức 1072 - 1127


5. Lý Thần Tông Lý Dương Hoán 1128 - 1138
6. Lý Anh Tông Lý Thiên Tộ 1138 - 1175
7. Lý Cao Tông Lý Long Trát 1176 - 1210
8. Lý Huệ Tông Lý Sảm 1211 - 1224
9. Lý Chiêu Hoàng Lý Phật Kim 1224 đến 1225
Lý Chiêu Hoàng là Nữ vương duy nhất trong lịch sử phong kiến
Việt Nam.
NHÀ TRẦN : (1225 - 1400)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
1.
2.
1.
2.


Trần Thái Tông Trần Cảnh 1225-1258
Trần Thánh Tông Trần Hoảng 1258-1278
Trần Nhân Tông Trầm Khâm 1279-1293
Trần Anh Tông Trần Thuyên 1293-1314
Trần Minh Tông Trần Mạnh 1314-1329
Trần Hiến Tông Trần Vượng 1329-1341
Trần Dụ Tông Trần Hạo 1341-1369
Hôn Đức Công Dương Nhật Lễ 1369-1370
Trần Nghệ Tông Trần Phủ 1370-1372
Trần Duệ Tông Trần Kính 1372-1377
Trần Phế Đế Trần Hiện 1377-1388
Trần Thuận Tông Trần Ngung 1388-1398
Trần Thiếu Đế Trần Án 1398-1400
NHÀ HỒ : (1400 - 1407)
Hồ Quý Ly Hồ Quý Ly 1400
Hồ Hán Thương Hồ Hán Thương 1401-1407
NHÀ HẬU TRẦN : (1407 - 1414)
Giản Định Đế Trần Ngỗi 1407 - 1409
Trần Trùng Quang Trần Quý Khoáng 1407 - 1414
THUỘC MINH : (1407-1427)

1. Trần Cảo Trần Cảo 1426-1428
NHÀ LÊ : (1428 - 1788)
1. Lê Thái Tổ Lê Lợi 1428-1433
2. Lê Thái Tông Lê Nguyên Long 1433-1442
3. Lê Nhân Tông Lê Bang Cơ 1442-1459


4.
5.

6.
7.
8.
9.
10.
11.

Lệ Đức Hầu (Lạng Sơn Vương) Lê Nghi Dân 1459-1460
Lê Thánh Tông Lê Tư Thành (Lê Hạo) 1460-1497
Lê Hiến Tông Lê Tranh 1497-1504
Lê Túc Tông Lê Thuần 6/1504-12/1504
Lê Uy Mục Lê Tuấn 1505-1509
Lê Tương Dực Lê Oanh 1510-1516
Lê Chiêu Tông Lê Y 1516-1522
Lê Cung Hoàng Lê Xuân 1522-1527
NAM BẮC TRIỀU

Bắc Triều - Nhà Mạc : (1527 - 1593)
1. Mạc Thái Tổ Mạc Đăng Dung 1527-1529
2. Mạc Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1530-1540
3. Mạc Hiến Tông Mạc Phúc Hải 1541-1546
4. Mạc Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546-1561
5. Mạc Mậu Hợp Mạc Mậu Hợp 1562-1592
6. Mạc Toàn Mạc Toàn 1592
7. Mạc Kính Chỉ (1592-1593)
8. Mạc Kính Cung (1593-1625)
9. Mạc Kính Khoan (1623-1638)
10. Mạc Kính Vũ (Mạc Kính Hoàn) (1638-1677)
Từ đời Mạc Kính Chỉ, con cháu nhà Mạc rút lên Cao Bằng, tồn tại
cho đến năm 1677 mới bị diệt hẳn:

Nam Triều - Lê Trung Hưng (1533 - 1788)
1.
2.
3.
4.

Lê Trang Tông Lê Duy Ninh 1533-1548
Lê Trung Tông Lê Huyên 1548-1556
Lê Anh Tông Lê Duy Bang 1556-1573
Lê Thế Tông Lê Duy Đàm 1573-1599
TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH
- Lê Trung Hưng (Trên Danh Nghĩa)
1. Lê Kính Tông Lê Duy Tân 1600-1619
2. Lê Thần Tông Lê Duy Kỳ 1619-1643
3. Lê Chân Tông Lê Duy Hựu 1643-1649
4. Lê Thần Tông Lê Duy Kỳ 1649-1662


5. Lê Huyền Tông Lê Duy Vũ 1663-1671
6. Lê Gia Tông Lê Duy Hợi (Lê Duy Cối, Lê Duy Khoái) 16721675
7. Lê Hy Tông Lê Duy Hợp 1676-1704
8. Lê Dụ Tông Lê Duy Đường 1705-1728
9. Hôn Đức Công Lê Duy Phường 1729-1732
10. Lê Thuần Tông Lê Duy Tường 1732-1735
11. Lê Ý Tông Lê Duy Thận 1735-1740
12. Lê Hiển Tông Lê Duy Diêu 1740-1786
13. Lê Mẫn Đế Lê Duy Khiêm (Lê Duy Kỳ) 1787-1789
1.
2.
3.

4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.

- Chúa Trịnh: (1545 - 1787)
Thế Tổ Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm 1545-1570
Bình An Vương Trịnh Tùng 1570-1623
Thanh Đô Vương Trịnh Tráng 1623-1652
Tây Định Vương Trịnh Tạc 1653-1682
Định Nam Vương Trịnh Căn 1682-1709
An Đô Vương Trịnh Cương 1709-1729
Uy Nam Vương Trịnh Giang 1729-1740
Minh Đô Vương Trịnh Doanh 1740-1767
Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm 1767-1782
Điện Đô Vương Trịnh Cán 1782 (2 tháng)
Đoan Nam Vương Trịnh Khải 1782-1786
Án Đô Vương Trịnh Bồng 1786-1787

1.
2.
3.
4.
5.
6.

7.
8.
9.

- Chúa Nguyễn: (1600 - 1802)
Tiên vương (Chúa Tiên) Nguyễn Hoàng 1600-1613
Sãi vương (Chúa Bụt) Nguyễn Phúc Nguyên 1613-1635
Thượng vương Nguyễn Phúc Lan 1635-1648
Hiền vương Nguyễn Phúc Tần 1648-1687
Nghĩa vương Nguyễn Phúc Trăn 1687-1691
Minh vương Nguyễn Phúc Chu 1691-1725
Ninh vương Nguyễn Phúc Chú 1725-1738
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát 1738-1765
Định Vương Nguyễn Phúc Thuần 1765-1777


10. Nguyễn Ánh Nguyễn Phúc Ánh 1781-1802
NHÀ TÂY SƠN : (1788 - 1802)
1. Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc 1778-1793
2. Thái Tổ Vũ Hoàng Đế Nguyễn Huệ 1788-1792
3. Cảnh Thịnh Hoàng Đế Nguyễn Quang Toản 1792-1802
NHÀ NGUYỄN : (1802 - 1945)
1. Gia Long Nguyễn Thế Tổ - Nguyễn Phúc Ánh 1802-1819
2. Minh Mạng Nguyễn Thánh Tổ - Nguyễn Phúc Đảm 1820-1840
3. Thiệu Trị Nguyễn Hiến Tổ - Nguyễn Phúc Miên Tông 18411847
4. Tự Đức Nguyễn Dực Tông - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 18481883
5. Dục Đức Nguyễn Cung Tông - Nguyễn Phúc Ưng Chân 1883
(3 ngày)
6. Hiệp Hoà Nguyễn Phúc Hồng Dật 6/1883-11/1883
7. Kiến Phúc Nguyễn Giản Tông - Nguyễn Phúc Ưng Đăng

12/1883-8/1884
8. Hàm Nghi Nguyễn Phúc Ưng Lịch - 8/1884-8/1885
9. Đồng Khánh Nguyễn Cảnh Tông - Nguyễn Phúc Ưng Đường
1885-1888
10. Thành Thái Nguyễn Phúc Bửu Lân 1889-1907
11. Duy Tân Nguyễn Phúc Vĩnh San 1907-1916
12. Khải Định Nguyễn Hoằng Tông Nguyễn Phúc Bửu Đảo 19161925
13. Bảo Đại Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ 1926-1945
PHÁP THUỘC: (1858 - 1945)
NAM BẮC: (1954 - 1975)
- Việt Nam Cộng Hòa Tổng Thống:
1. Ngô Đình Diệm 26/10/1955 - 2/11/1963
2. Nguyễn Văn Thiệu 1/9/1967 - 21/4/1975
3. Trần Văn Hương 21/4/1975 - 28/4/1975
4. Dương Văn Minh 28/4/1975 - 30/4/1975
- Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa
VIỆT NAM: (1975 - NAY)



SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VIỆT NAM
THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
Vào thế kỷ thứ 7đến thế kỷ thứ 6 trước Công Ng, 15 bộ lạc
sinh sống tại vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, miền bắc Việt
Nam ngày nay thống nhất lập nên nước Văn Lang, nhà nước đầu
tiên của người Việt. Kinh đô đóng tại Phong Châu (Vĩnh Phú ngày
nay). Vua nước Văn Lang, tất cả 18 đời, đều xưng là Hùng
Vương.
Thế kỷ thứ 2 trước CN, sau cuộc kháng chiến chống lại quân
Tần Thủy Hoàng (218-208), nhà nước phong kiến Trung Quốc ở

phương Bắc, Thục Phán lên làm vua nước Văn Lang xưng là An
Dương Vương và đổi tên nước thành Âu Lạc, xây thành ốc ở Cổ
Loa (Đông Anh - Hà Nội) làm kinh đô.
THỜI KỲ BỊ PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC ĐÔ HỘ
Năm 179 trước CN, nước Âu Lạc bị nước Nam Việt của Triệu
Đà xâm lược. (Triệu Đà là tướng quân của nhà Tần. Sau khi Tần
Thủy Hoàng chết, ông ta nhân cơ hội chiếm phần đất do mình
được giao cai quản ở phía nam nước Tần lập nên nước Nam Việt.
Còn nhà Tần thì bị nhà Hán thay thế.) Nước Âu Lạc bị đô hộ mở
đầu cho thời kỳ lịch sử đen tối, đau thương, đầy uất hận dài đằng
đẵng hơn 1000 năm của dân tộc Việt. Nước Âu Lạc bị sáp nhập
thành các quận, huyện của các nhà nước phong kiến phương Bắc
(qua các triều đại Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương,
Tùy, Đường của Trung Quốc). Trong thời gian này, tuy bị cai trị, bóc
lột tàn nhẫn, hà khắc nhưng nhân dân ta vẫn không những chẳng
khi nào chịu khuất phục mà còn liên tục vùng lên đấu tranh nhằm
giành lại độc lập tự chủ, chống bị Hán hóa.
Sau CN, năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh. Cuộc
khởi nghĩa giành thắng lợi. Nhưng chỉ 3 năm sau. Đất nước lại bị
rơi vào tay nhà Hán.
Nhiều cuộc khởi nghĩa lại dậy lên sau đó.


Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô thất bại.
Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa thành công, giành lại đuợc độc lập
từ tay nhà Lương, xưng là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân với
mong muốn đất nước mãi mãi trường tồn.
Năm 545, nhà Lương đem quân sang xâm lược nước Vạn
Xuân, Lý Nam Đế thua trận liên tục phải rút về động Khuất Lão. Tại
đây ông bị bệnh chết. Triệu Quang Phục lên thay. Triệu Quang

Phục lui quân về đầm Dạ Trạch thực hiện chiến tranh du kích. Cuối
cùng năm 550, Triệu Quang Phục mới giành được thắng lợi, khôi
phục nước Vạn Xuân, tự xưng là Triệu Việt Vương. Đến năm 571,
Triệu Quang Phục bị Lý Phật Tử cướp ngôi.
Năm 602-603, Lý Phật Tử không chống được cuộc xâm lược
của giặc, nước ta lại rơi vào tay nhà Tùy, rồi nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi nghĩa. Thất bại.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành được chính quyền.
Nhà Đường công nhận chính quyền tự chủ của ông.
Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta. Nam Hán
là một nước do Luu Ẩn, tướng của nhà Hậu Lương cát cứ vùng đất
Hoa Nam mà mình được nhà Lương giao cho cai quản thành lập
(nhà Lương cướp ngôi nhà Đường vào năm 907). Người đứng đầu
nước ta lúc đó là Khúc Thừa Mỹ không chống lại được, bị bắt sang
Nam Hán. Các tướng lĩnh của họ Khúc tổ chức nhiều cuộc kháng
chiến.
Năm 931, cuộc kháng chiến do Dương Đình Nghệ lãnh đạo
thành công. Ông được tôn làm Tiết Độ Sứ.
Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ cướp quyền
lãnh đạo. Ngô Quyền là con rể Dương Đình Nghệ khởi binh trừng
phạt. Kiều Công Tiễn cầu cứu nước Nam Hán và dĩ nhiên vua Nam
Hán vui vẻ nhận lời.
Năm 938, quân Nam Hán do thái tử Hoằng Tháo kéo sang
nước ta theo đường thủy định phối hợp với Kiều Công Tiễn đánh
bại Ngô Quyền. Nhưng Hoằng Tháo chưa đến nơi thì Ngô Quyền
đã diệt được Kiều Công Tiễn và bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân


Nam Hán lọt vào trận địa mai phục của Ngô Quyền ở cửa sông
Bạch Đằng thì bị đánh cho tan tác. Hoằng Tháo chết trận, quân

Nam Hán tháo chạy về nước. Vua Nam Hán bỏ mộng xâm lược.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, dựng kinh đô tại Cổ Loa.
Mở ra thời kỳ độc lập tự chủ hòan toàn
cho nước ta sau hơn 1000 năm bị đô hộ bởi phong kiến phương
bắc.
Năm 944, Ngô Quyền chết. Tình hình đất nước rơi vào cảnh
hỗn lọan, tranh dành quyền lực giữa các phe phái tướng lĩnh và
con của Ngô Quyền (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn).
Năm 965, vị vua cuối cùng của triều Ngô là Ngô Xương Văn
chết, các tướng lĩnh địa phương thi nhau cát cứ. Đất nước bị chia
cắt thành 12 sứ quân.
THỜI KỲ CÁC NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM
Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được 12 sứ quân. Do ông
đánh đâu thắng đấy nên đuợc dân chúng tôn là Vạn Thắng Vương.
Năm 968, Vạn Thắng Vương lên ngôi Hòang Đế xưng là Đinh Tiên
Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, kinh đô đóng tại Hoa Lư.
B, Đỗ Thích ám hại Đinh Tiên Hoàng cùng con là Đinh Liễn.
Triều thần bắt giết Đỗ Thích, lập Đinh Toàn, 5 tuổi, lên làm vua.
Thái hậu Dương Vân Nga nhiếp chính, quyền phụ chính được giao
cho Lê Hoàn. Lúc này, nhà Tống thấy tình hình nước ta rối ren, vua
còn nhỏ tuổi như vậy thì cho đó là cơ hội trời cho để thôn tính bèn
giao Hồ Nhân Bảo xua quân xâm lược. Được tin, Thái Hậu Dương
Vân Nga cùng triều thần nhất trí nhường ngôi báu cho Lê Hòan để
ông có được tòan quyền mà dốc sức chống Tống.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế (Lê
Đại Hành). Ông gấp rút tổ chức lại bộ máy hành chính, chỉnh đốn
quân đội chuẩn bị nghênh chiến.
Năm 981, quân Tống ồ ạt tấn công Đại Cồ Việt theo cả hai
đường thủy, bộ. Nhờ chuẩn bị tốt, và tài mưu lược. Lê Hoàn đánh
bại quân Tống, giữ yên bờ cõi.



Năm 1005, Lê Hòan chết, các con của ông tranh nhau giành
ngôi báu. Lê Long Đĩnh thắng lên làm vua (Lê Ngọa Triều). Ông
vua này rất thích bạo lực, sa đọa và trụy lạc nên không đựơc lòng
dân chúng.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự ủng hộ của nhiều
người, Lý Công Uẩn tự xưng vua (Lý Thái Tổ) lập ra triều đại nhà
Lý kéo dài 216 năm với 9 đời vua (Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao
Tông, Lý Huệ Tông và Lý Chiêu Hòang).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về thành Đại La. Sau đổi
tên thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi khi mới 6 tuổi. Nhà Tống
bên Trung Quốc cho là cơ hội tốt chuẩn bị lương thảo có ý xâm
lược nước ta. Vì vua còn nhỏ nên quan phụ quốc Thái úy Lý
Thường Kiệt nắm trọn binh quyền.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ trương "đánh phủ đầu" quân
Tống để tự vệ trước bèn tập trung 10 vạn quân thủy bộ chia làm
hai đường đánh sang đất Tống với mục đích phá hủy các kho dữ
trữ lương thảo hậu cần nằm ở Ung Châu và Khâm Châu, Liêm
Châu mà nhà Tống đang chuẩn bị để phục vụ cho cuộc xâm lược
nước ta. Quân Thủy đánh Khâm Châu, quận bộ đánh Ung Châu.
Bị bất ngờ nên quân Tống thua liên tiếp. Nửa tháng sau chính
quyền Tống ở trung ương mới biết được tin. Vua Tống lập tức
chuẩn bị đại binh dự định đánh thẳng vào nước ta để giải vây.
Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến công, quân ta đã đạt
được mục đích và rút về nước cũng là đề phòng bị đánh úp. Khi
đó, đại binh quân Tống còn chưa kịp lên đường.
Năm 1076, tháng 8, sau khi củng cố lực lượng, nhà Tống đem

30 vạn quân chia hai đường thủy, bộ bắt đầu xâm lược nước ta và
cũng là để trả thù cho sự kiện ở trên. Lý Thường Kiệt chọn địa
điếm quyết chiến tại sông Như Nguyệt, xây dựng phòng tuyến
phòng thủ tại bờ nam chờ giặc.


Năm 1077, tháng 1, quân Tống đến phòng tuyến Như Nguyệt
và bị chặn đứng ở đó. Thế trận giằng co kéo dài, binh Tống ngày
một hao tổn do thiếu lương thực vũ khí vì bị quân ta đánh du kích.
cuối cùng quân Tống phải chấp nhận giảng hòa rút quân về. Triều
Lý bắt tay xây dựng đất nước và bước vào thời kỳ hưng thịnh.
Từ 1138, triều Lý có dấu hiệu suy yếu do các vua đều lên ngôi
khi còn nhỏ tuổi, bị chết yếu,... quyền hành rơi vào tay ngọai tộc
vốn lắm kẻ gian tham, bất tài, hại dân. Vào cuối triều nhà Lý, các
quý tộc quan lại họ Trần nổi lên là một thế lực lớn có công giúp nhà
Lý bình định thiên hạ.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu
Hoàng, 7 tuổi. Quyền bính nằm cả trong tay quan điện tiền Trần
Thủ Độ.
Năm 1226, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho chồng mình là Trần Cảnh (Trần Thái Tông), cháu
của Trần Thủ Độ, khi ấy cũng mới 8 tuổi. Quyền hành vẫn trong tay
Trần Thủ Độ với địa vị Thái Sư. Trần Thủ Độ tìm mọi cách để "nhổ
sạch rễ" họ nhà Lý, củng cố địa vị cho họ Trần. Nhà Lý kết thúc ở
đây.
Những việc làm của Trần Thủ Độ gây nên một cuộc khủng
hoảng chính trị, gây nhiều bất bình trong dân chúng. Thậm chí còn
gây nên mâu thuẫn lớn giữa một số người trong họ Trần. Tuy
nhiên, thế lực của Trần Thủ Độ quá lớn nên mọi việc cuối cùng
cũng êm xuôi. Triều đại nhà Trần dần phát triển và kéo dài 175

năm qua 12 đời vua (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân
Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, Trần Dụ
Tông, Dương Nhật Lễ, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Trần Phế
Đế, Trần Thuận Tông, Trần Thiếu Đế). Triều Trần hưng thịnh nhất
sau khi 3 lần đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên(Trung Quốc).
Năm 1258, quân Mông Cổ xâm lược nước Đại Việt của nhà
Trần. Khi ấy Mông Cổ là một đại đế quốc lớn nhất thế giới trong
lịch sử có lãnh thổ bao gồm khỏang 40 nước trải dài từ bờ Thái
Bình Dương cho tới Trung Đông, Đông Âu và vẫn tiếp tục bành
trướng. "Vó ngựa Mông Cổ đi tới đâu, nơi ấy cỏ cây không mọc


được". Lần xâm lược Đại Việt này nằm trong kế họach bành
trướng xuống phía Nam của Đại hãn Mông Cổ lúc đó là Mông Kha
(Mong Ke).
Quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy chia làm
nhiều cánh tràn vào Đại Việt tới Bạch Hạc (Vĩnh Phú ngày nay) thì
hợp lại cùng tiến về Thăng Long. Vua Trần Thái Tông và các tướng
lĩnh lần đầu ra quân gặp cường địch, non kinh nghiệm đối phó với
kỵ binh Mông Cổ nên liên tiếp thua trận phải thi hành kế sách bỏ
Thăng Long vườn không nhà trống rút về phía Nam bảo tòan lực
lượng chờ thời cơ, đồng thời để một số quân ở lại kết hợp với dân
chúng quanh vùng đánh du kích. Quân Mông Cổ vào đến Thăng
Long không cuớp bóc được nhiều của cải lương thực để nuôi quân
lại không quen khí hậu nên sinh bệnh, mệt mỏi, rối loạn đội ngũ,
nhụt nhuệ khí chiến đấu. Một đêm, Vua Trần bất ngờ tổ chức tập
kích doanh trại quân giặc. Quân Mông Cổ hốt hoảng không kịp
phản ứng giày xéo nhau mà chạy, bị giết rất nhiều. Đại quân Trần
truy sát lại thêm phục binh quân Trần đổ ra chặn đánh khắp nơi,
quân Mông Cổ chạy về Vân Nam (Trung Quốc) mà không có thời

gian dừng lại giết cướp. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng Đại
Việt sạch bóng quân Mông Cổ. Chúng chỉ ở Thăng Long vỏn vẹn
được 9 ngày.
Đầu năm 1285, quân Nguyên sang xâm lược nước ta. Nhà
Nguyên bên Trung quốc là do Hốt Tất Liệt, em trai của đại hãn
Mông Cổ Mông Kha, diệt nước Tống, độc chiếm Trung Quốc dựng
nên. Vì vậy ta hay gọi quân Nguyên là Nguyên Mông hay Mông
Nguyên. 50 vạn quân Nguyên chia làm 3 đường tiến chiếm Đại
Việt. Đích thân con trai Hốt Tất Liệt, thái tử Thoát Hoan, chỉ huy hai
đạo quân bộ từ hai hướng đông bắc, tây bắc Đại Việt đánh xuống,
đạo quân thủy do Toa Đô từ nước Chiêm Thành (sau khi lập nhà
Nguyên, Hốt Tất Liệt đã sai Toa Đô đánh Chiêm Thành trước), phía
nam Đại Việt đánh lên. Quân nhà Trần bị kẹp vào giữa. Vua Trần
lúc này là Trần Nhân Tông cử Trần Quang Khải làm Thượng
Tướng Thái Sư, Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế thống
lĩnh ba quân chống giặc.


Quốc Công Tiết Chế đem quân chặn đánh quân bộ phía đông
của Thoát Hoan trước. Trần Nhật Duật thì chặn cánh quân phía
Tây do Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huy. Trước thế giặc mạnh, vua tôi nhà
Trần vừa đánh vừa rút lui chiến thuật. Quân Nguyên cứ thế chiếm
Nội Bàng, Vạn Kiếp... Khi quân Nguyên tới Thăng Long thì vua
Trần đã rút về Thiên Trường (Nam Định) bỏ lại kinh thành trống
không như lần kháng Mông Cổ lần trước. Về Thiên Trường, Trần
Quốc Tuấn cử Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải trấn giữ Hoan
Châu (Nghệ An) chặn đường tiến quân Toa Đô. Khi Thoát Hoan
chiếm Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại kéo quân ra lấy lại Vạn
Kiếp đánh sau lưng Thoát Hoan. Thoát Hoan bị vây liền cho người
về nước xin thêm binh cứu viện. Lúc đó, ở phía Nam, Trần Nhật

Duật rồi Trần Quang Khải không ngăn được Toa Đô. Khi Toa Đô
tiến vào đến Ái Châu (Thanh Hóa), Vua Trần công kích Thóat Hoan
ở Thăng Long nhưng không được lại lui về Thiên Trường. Thoát
Hoan đuổi theo. Trần Quốc Tuấn phải đem quân từ Vạn Kiếp về
Thiên Trường rồi cùng Vua Trần rút ra phía Hải Dương. Thoát
Hoan đuổi theo sát gót. Đồng thời Toa Đô cũng kéo quân thủy theo
đường biển từ Ái Châu ra đuổi theo. Trần Quốc Tuấn sử dụng kế
nghi binh dụ quân Nguyên đuổi theo Vua Trần ra đường biển còn
mình đưa vua Trần thoát vào Ái Châu theo đường bộ, thóat hiểm
trong tíc tắc...
Thời tiết bắt đầu sang hè, nắng nóng và lụt lội làm cho quân
Nguyên vốn chỉ quen khí hậu lạnh ở phương bắc bị bệnh dịch rất
nhiều, lương thực lại cạn kiệt nên giảm sức chiến đấu. Trần Quốc
Tuấn chỉ chờ cơ hội như vậy để phản công. Ông cử Trần Quang
Khải, Trần Nhật Duật , Trần Quốc Tỏan, Nguyễn Khoái,... chặn
đánh quân thủy của Toa Đô ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương
Dương... Đích thân Trần Quốc Tuấn thì đánh lên Vạn Kiếp. Quả
nhiên quân Nguyên thất thế. Toa Đô rút về Thiên Trường. Quân ở
Vạn Kiếp chạy cả về Thăng Long. Liên lạc giữa hai cánh thủy bộ
của quân Nguyên bị quân Trần cắt đứt. Quân Trần tập trung đánh
Thăng Long. Thoát Hoan thua to, bỏ thành rút chạy về Bắc Ninh.
Khi Toa Đô kéo lên Thăng Long định hội quân với Thoát Hoan thì
Thóat Hoan đã chạy rồi . Toa Đô lui về đóng ở Tây Kết. Đến đây,


Toa Đô bị đại quân của vua Trần bắn chết, Nguyên quân bị đánh
tan tác chết vô số kể. Các tướng Ô Mã Nhi, Lưu Khuê dắt tàn quân
chạy vào Ái Châu. Quân Trần truy đánh rất rát cuối cùng Ô Mã Nhi,
Lưu Khuê phải bỏ thuyền tướng lấy thuyền nhỏ tháo chạy ra biển
về nước, quân Trần bắt sống được vài vạn tàn quân. Phía Thóat

Hoan, sau khi về Bắc Ninh lại bị quân Trần đón đánh thì chạy sang
Vạn Kiếp nhưng ở đây Trần Quốc Tuấn cũng đã bố trí sẵn quân
mai phục. Giữa lúc quân Nguyên đang vượt sông Thương, quân
Trần đổ ra đánh. Quân Nguyên chết vô số kể. Thoát Hoan cùng bộ
tướng Lý Hằng gom tàn quân chạy về nước. Tới biên giới thuộc
Lạng Sơn, quân Trần phục sẵn trên núi bắn tên xuống như mưa,
Lý Hằng trúng tên độc chết liền. Thoát Hoan được hộ tướng giấu
vào một vật dụng bằng đồng bỏ lên xe cho lính kéo chạy nhờ vậy
sống sót, chạy thoát về nước. Đại Việt sạch bóng quân Nguyên.
Cuối năm 1287, Hốt Tất Liệt gom 30 vạn quân giao Thoát
Hoan chỉ huy thẳng tiến Đại Việt để báo thù. Lần này quân Nguyên
cũng chia làm 3 đạo: Thoát Hoan tiến vào qua ngả Lạng Sơn, Ai
Lỗ vào theo hướng dọc sông Lô (sông Hồng ngày nay), Ô Mã Nhi
theo đường biển vào sông Bạch Đằng, ngòai ra còn có đoàn
thuyền lương thực do Trương Văn Hổ chỉ huy đi sau Ô Mã
Nhi. Các cánh quân Nguyện hẹn hội quân tại Vạn Kiếp.
Quân Trần tổ chức đánh chặn nhưng cũng như lần trước.
Quân Nguyên lúc này còn hăng hái nên tiến được vào đến Vạn
Kiếp tuy bị tổn thất chút ít. Ô Mã Nhi có lẽ nóng lòng báo thù
nên tung tăng đi trước bỏ đoàn thuyền lương nặng nề của Trương
Văn Hổ khá xa. Khi Ô Mã Nhị họp quân với Thóat Hoan ở Vạn
Kiếp thì đòan thuyền lương còn ở ngòai biển. Sau đó thì bị Trần
Khánh Dư đánh chìm toàn bộ ở Vân Đồn. Thoát Hoan và Ô Mã Nhi
trong đất liền không hề hay biết.
Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan chỉnh đốn đội ngũ tấn công Thăng
Long. Trần Quốc Tuấn lại để thành Thăng Long vườn không nhà
trống. Thoát Hoan vào Thăng Long không bắt được vua Trần liền
sai Ô Mã Nhi gấp rút đuổi bắt. Không đuổi kịp, Ô Mã Nhi trút bực



tức bằng cách cho quân cuớp bóc dân chúng, đốt phá nhà cửa,
chùa chiền, đào bới lăng mộ vua Trần Cảnh,..
Không ở được Thăng Long, Thoát Hoan cho quân lui về Bắc
Giang, Vạn Kíếp sai Ô Mã Nhi ra biển tìm đoàn thuyền lương của
Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi ra đến cửa biển Đại Bàng (Hải Phòng)
thì bị đánh tơi bời. Quân Trần bắt được 300 chiến thuyền. Ô Mã
Nhi quay về Vạn Kiếp. Vua Trần cho người mang theo tù binh bắt
được của đoàn thuyền lương sang trại Thoát Hoan thông báo đoàn
thuyền lương Trương Văn Hổ đã bị diệt rồi. Tin đó làm quân
Nguyên lo sợ vì lương thực đã hết. Cùng lúc quân Trần phản công
ở khắp nơi. Sợ nguy, Thoát Hoan vội bàn với các tướng rút quân
về nước. Tất cả tướng Nguyên đều đồng ý. Thoát Hoan rút theo
đường bộ theo ngả Lạng Sơn, Ô Mã Nhi rút theo sông Bạch Đằng.
Nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho quân mai phục tất cả mọi nẻo
đường rút chạy. Ô Mã Nhi, cùng bộ tướng là Phàn Tiếp lọt vào trận
địa bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng, bị bắt sống, máu quân Nguyên
nhuộm đỏ nước sông. Trên bộ, Thoát Hoan cũng bị chặn đánh
nhiều trận. Xác quân Nguyên trải dài từ Vạn Kiếp tới biên giới Lạng
Sơn. Cuối tháng 4/1288, Thoát Hoan mới về được châu Tư Minh
(Quảng Tây, Trung Quốc). Đại Việt lại sạch bóng giặc ngoại xâm.
Sau chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ 3, Đại Việt có
được một thời gian dài ổn định và phát triển hưng thịnh. Nhưng từ
đời vua Trần Dụ Tông trở đi thì nước Đại Việt đã có nhiều biểu hiện
suy thoái. Vua quan bất tài, ăn chơi, sa đọa. Ngôi báu nhà Trần đã
có lúc rơi vào tay ngọai tộc, giặc giã nỗi lên như nấm, các nước lân
cận đều mang quân tràn sang cướp phá…Từ đời vua Trần Nghệ
Tông trở đi, Hồ Quý Ly nổi lên là một nhà chính trị có tài và được
trọng dụng. Nhờ đó nhân buổi rối ren, suy thoái của nhà Trần, Hồ
Quý Ly đọat được ngôi báu.
Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thánh

Nguyên, đổi tên nước Đại Việt thành Đại Ngu, và tiến hành nhiều
cuộc cải cách lớn, trong đó có việc đổi tiền đồng sang tiền giấy
“thông bảo hội sao”. Tuy nhiên không phải cuộc cải cách nào cũng
được lòng dân chúng.


Năm 1406, nhà nước phong kiến bên Trung Quốc lúc này là
nhà Minh cử các tướng Mộc Thạnh, Trương Phụ,… đem quân xâm
lược nước Đại Ngu. Quân quan nhà Hồ chống cự quyết liệt nhưng
vì Đại Ngu lúc đó chưa ổn định, nhà Hồ chưa được dân chúng ủng
hộ,… nên cuối cùng quân Minh đập tan sức kháng cự của quân
Hồ. Hồ Quý Ly cùng con trai và nhiều tướng bị bắt giải sang Trung
Quốc. Nhà Minh nhập Đại Ngu thành quận Giao Chỉ của họ. Lúc đó
nhân dân Đại Ngu mới bắt đầu khởi nghĩa ở nhiều nơi. Hic.
Năm 1407, Trần Ngỗi rồi Trần Quý Khoáng là quý tộc tôn thất
nhà Trần, tiến hành khởi nghĩa
chống quân Minh. Ban đầu cũng giành được một số thắng lợi đáng
kể nhưng sau đó trong nội bộ mất đoàn kết nên nghĩa quân suy
yếu và bị dập tắt vào năm 1412.
Năm 1418, sau khi quy tụ được nhiều hào kiệt khắp nơi trong
nước, trong đó có Nguyễn Trãi, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại núi
Lam (thuộc Thanh Hóa ngày nay). Ban đầu lực lượng nghĩa quân
còn yếu, chừng vài nghìn người, nhưng cũng dùng mưu thắng
được nhiều trận lớn gây thanh thế như ở Lạc Thủy, Mường Một...
Quân Minh tăng cường đàn áp với sự giúp đỡ của nhiều kẻ bán
nước, chỉ điểm nên có lúc chúng đẩy nghĩa quân lâm vào tình
trạng hiểm nghèo. Ba lần nghĩa quân phải trốn lên núi Chí Linh,
chịu cảnh đói khát, thiếu thốn trăm bề. Ở lần thứ hai rút lên núi Chí
Linh, năm 1419, nhờ 500 quân cảm tử do Lê Lai dẫn đầu đánh
xông ra, mạo danh Lê Lợi để cho giặc bắt giết nên nghĩa quân mới

được bảo tòan xuống núi. Nghĩa quân Lê Lợi chiến đấu như vậy
ròng rã mấy năm trời cho đến năm 1424 thì mới tạo nên chuyển
biến có lợi cho mình.
Đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã giành lại phần lớn
đất nước, dồn quân Minh vào cố thủ trong 4 thành Đông Quan
(Thăng Long), Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô. Tướng quân Minh lúc đó
là Vương Thông phải cho người về nước xin viện Binh. Tuy nhiên,
cả hai cánh quân cứu viện, với số quân 15 vạn, do Liễu Thăng và
Mộc Thạnh chỉ huy đều bị quân Lê Lợi tiêu diệt ngay tại cửa ải.
Liễu Thăng bị chém đầu tại trận ở ải Chi Lăng. Mộc Thạnh hay tin


thì đang đêm mang quân chạy về nước nhưng cũng bị phục đánh
tơi bời. Quân Lê Lợi giết được hàng nghìn lính, thu nhiều ngựa và
vàng bạc, khí giới. Ngày 10/12/1427, túng quẫn vì bị vây mà không
có viện binh, quân Minh đang cổ thủ trong các thành đều ra hàng.
Lê Lợi tha cho 10 vạn giặc Minh và còn cấp đủ lương thực cho
chúng, sửa cầu đường cho chúng rút về nước. Cả bọn đều bái lạy.
Đầu năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi Hoàng Đế ở thành
Đông Kinh (Thăng Long) khôi phục tên nước Đại Việt mở đầu triều
đại nhà Lê. (Gọi là nhà hậu Lê để phân biệt với nhà tiền Lê của Lê
Đại Hành trước kia).
Nhà hậu Lê phát triển ổn định và đại nhiều thành tựu lớn trong
xây dựng đất nước qua năm đời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái
Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Đến đời vua
Lê Uy Mục thì bắt đầu xuống dốc.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi
vua cho mình. Trước đó, ông ta cậy có nhiều công nên lạm quyền,
kết bè cánh và đã phế truất ngôi của Lê Chiêu Tông giao cho Lê
Cung Hoàng. Nhà Mạc thành hình. Ở trong nước là thế nhưng khi

lên ngôi, Mạc Đăng Dung lại hèn kém trong ngọai giao với nhà
Minh, nhún nhường nhận chức An Nam đô thống sứ do vua Minh
“trao tặng” khiến nhân dân và nhiều quan lại phẫn nộ.
Năm 1530, Lê Ý ở Thanh Hóa nổi quân chống lại nhà Mạc.
Năm 1532, Nguyễn Kim tôn con của Lê Chiêu Tông lên làm
vua (Lê Trang Tông), đóng ở Thanh Hóa, nhiều quan lại của cũ của
nhà Lê cũng theo về phò tá tạo nên một triều đình mới đối lập với
nhà Mạc ở phía bắc. Đại Việt lúc đó vì thế có hai triều đình ở hai
miền nam, bắc.
Sau khi Nguyễn Kim chết (1546), vua Lê phong con rể Nguyễn
Kim là Trịnh Kiểm lên thay. Trịnh Kiểm tiến hành lọai trừ phe cánh
của Nguyễn Kim để tập trung quyền lực vào tay mình. Các con của
Nguyễn Kim, Nguyễn Uông bị bắt giết, Nguyễn Hoàng lo sợ nên
tìm cách lánh bằng cách xin trấn giữ ở vùng Thuận Hóa. Trịnh
Kiểm thuận ý cho vào. Họ Nguyễn vào vùng đó ngấm ngầm có ý


lập nên “vương quốc” riêng của mình chống lại họ Trịnh nhưng bên
ngoài vẫn tỏ về thuần phục, giúp họ trịnh chống họ Mạc.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng thay.
Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh bại nhà Mạc ở Thăng
Long, thống nhất đất nước, nhà Lê khôi phục, vua Lê bấy giờ là Lê
Thế Tông. Tuy nhiên vua Lê chỉ là cái bóng. Họ Trịnh lập ra vương
phủ riêng tồn tại bên cạnh triều đình vua Lê. Quyền lực nằm cả
trong tay họ Trịnh.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng ở phía Nam chết. Con là Nguyễn
Phúc Nguyên vâng lời cha “dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ
kháng cự lại họ Trịnh” để “xây dựng cơ nghiệp muôn đời”.
Năm 1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế,
họ Trịnh đem quân vào đánh. Cuộc chiến giữa hai họ bắt đầu từ

đó. Đại Việt bị chia cắt thành hai “đàng” lấy sông Gianh làm ranh
giới. Đàng Ngoài tính từ bờ bắc sông Gianh trở ra bắc, Đàng
Trong từ bờ nam sông Gianh trở vào nam. Ranh giới này tồn tại
suốt gần 300 năm cho đến khi Nguyễn Huệ thống nhất vào năm
1786.
Năm 1771, ở Đàng Trong, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo nông dân khởi nghĩa ở Tây Sơn. Lúc
này ở cả hai Đàng chính quyền phong kiến đều đã rất bê tha, suy
tàn. Trải qua mấy trăm năm chia cắt, chiến tranh triền miên giữa
hai Đàng đã làm cho đất nước điêu tàn, kiệt quệ, nông dân vô cùng
đói khổ. Vì thế vô vàn nông dân đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn. Với khẩu hiệu “ Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”,
quân Tây Sơn tiến đến đâu thì dân nghèo ở đấy đều tham gia.
Thanh thế của nghĩa quân Tây Sơn lớn lên nhanh chóng. Hầu như
đánh đâu thắng đấy. Chẳng mấy chốc chiếm toàn bộ Quy Nhơn,
Quảng Ngãi.
Năm 1777, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đóng ở
thành Đồ Bàn (Bình Định), sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đánh
thành Gia Định. Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ sau khi đánh lấy được
thành, giết chết chúa Nguyễn Phúc Thuần, cắt người trấn thủ xong
thì rút về Quy Nhơn. Nguyễn Ánh là cháu của Nguyễn Phúc Khoát


(chúa Đàng Trong ngày xưa, trước Nguyễn Phúc Thuần) đem quân
chiếm lại thành Gia Định.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là
Thái Đức.
Năm 1783, quân Tây Sơn đánh chiếm lại thành Gia Định,
Nguyễn Ánh thua chạy trốn sang Xiêm (Thái
Lan) cầu cứu.

Năm 1784, quân Xiêm cử Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2
vạn thủy quân, 300 chiến thuyền và Chiêu Thùy Biên đem 3 vạn
quân bộ cùng Nguyễn Ánh tấn công Gia Định. Đến cuối năm đó thì
chiếm được nửa đất Gia Định, Tây Sơn chỉ còn giữ hai thành Gia
Định, Mỹ Tho.
Đầu năm 1785, Nguyễn Ánh và quân Xiêm từ Sa Đéc tiến
đánh Mỹ Tho. Nguyễn Huệ cho quân mai phục, chặn đánh trên
sông Mỹ Tho, đoạn ở Rạch Gầm- Xoài Mút. Quân Xiêm đại bại, chỉ
còn vài ngàn bộ binh rút chạy về nước. Tây Sơn truy bắt Nguyễn
Ánh nhưng không được. Nguyễn Huệ củng cố ba quân, cử tướng
trấn giữ Gia Định rồi rút ra Tây Sơn cùng với Vũ Văn Nhậm và
Nguyễn Hữu Chỉnh (một tướng Đàng Ngoài không phục Trịnh Khải,
bỏ nhà Trịnh theo Tây Sơn) chiếm luôn thành Phú Xuân đang do
Đàng Ngoài nắm giữ. Rồi nhân đà thắng lợi giành lại hết các vùng
đất của Đàng Trong. Xong, lấy danh nghĩa giúp vua Lê diệt chúa
Trịnh, tiến đánh luôn quân Trịnh ở Đàng Ngoài.
Năm 1786, Nguyễn Huệ chiếm được Thăng Long, lật đổ chúa
Trịnh, trao lại quyền hành cho vua Lê Hiển Tông. Vua Lê thưởng
công cho Nguyễn Huệ bằng cách phong Nguyễn Huệ là Uy Quốc
Công, nhường đất Nghệ An cho Tây Sơn. Được vài hôm, Lê Hiển
Tông vì bịnh nặng từ trước, qua đời. Vua kế vị là Lê Chiêu Thống.
Sau đó, Nguyễn Huệ rút quân về phương Nam để Nguyễn Hữu
Chỉnh ở lại đất bắc. Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ chia nhau cai quản từ Nghệ An trở vào. Nguyễn Huệ
sau khi chinh phục miền bắc được Nguyễn Nhạc phong làm Bắc
Bình Vương, làm chủ từ Nghệ An đến Phú Xuân. Nguyễn Lữ giữ


vùng đất phía nam, Gia Định. Nguyễn Nhạc giữ vùng Quãng Ngãi
đến Bình Thuận.

Sau khi Nguyễn Huệ rút đi, miền bắc trở nên rối loạn. Các thế
lực của họ Trịnh ra sức khôi phục lại cơ đồ. Lê Chiêu Thống phải
dựa vào sức cửa Nguyễn Hữu Chỉnh để chống đỡ. Chỉnh dẹp yên
được họ Trịnh, cậy mình có công lớn nên sinh ra lộng quyền,
chống lại Tây Sơn, đòi lại đất Nghệ An.
Năm 1787, Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm ra
bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh cùng vua Lê bỏ chạy lên phía
bắc. Dọc đường Chỉnh bị bắt giết, Lê Chiêu Thống thoát sang đất
nhà Thanh cầu cứu. Diệt được Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lại lộng
quyền. Nguyễn Huệ đích thân ra bắc giết chết Nhậm, đưa Ngô Văn
Sở lên thay, tuyển dụng người giỏi, hiền tài để trao quyền hành.
Nhà Lê mất từ đây.
Năm 1788, vua Thanh là Càn Long cử Tôn Sĩ Nghị, Sầm Nghi
Đống… đem 20 vạn quân cùng Lê Chiêu Thống tiến vào nước ta
để “tiêu diệt Tây Sơn, dựng lại nhà Lê”. Ngô Văn Sở bỏ trống
Thăng Long rút về xây phòng tuyến ở Tam Điệp một mặt báo tin
cho Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long quá dễ cho là Tây
Sơn sợ mất mật nên trốn cả nên hống hách, coi thường Tây Sơn,
cho quân cướp phá hết sức tàn bạo. Lê Chiêu Thống cũng thực
hiện việc trả thù, báo oán cũng không kém phần tàn ác, ti tiện.
Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo, ngày 22/12/1788, lập đàn
tế cáo trời đất lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi
hành quân thần tốc ra bắc. Qua vùng Nghệ An, Thanh Hóa đều
tuyển thêm quân lính. Khi đến phòng tuyến Tam Điệp ngày
15/01/1779 đã có được đại quân hơn 10 vạn người.
Rạng sáng mùng 5 tết Kỷ Dậu, 30/01/1789, sau khi chuẩn bị
kỹ càng, vua Quang Trung cho quân tấn cống thành Ngọc Hồi,
cùng lúc đó cánh quân khác đánh vào đồn Khương Thượng ở
Đống Đa, sát thành Thăng Long. Ở Ngọc Hồi, trước sức tấn công
mãnh liệt, mưu trí của quân Tây Sơn, mặc dù chống trả kịch liệt

nhưng quân Thanh cũng nhanh chóng để mất thành, chạy tán loạn,
nhưng đều bị mai phục chết nhiều vô kể. Ở Đống Đa, quân Tây


Sơn do Đô đốc Đông chỉ huy cũng giành thắng lợi lớn. Thây giặc
Thanh chất cao như núi. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải treo
cổ tự tử kéo theo nhiều bộ hạ thân tín tự sát theo, tàn quân chạy
hết về Thăng Long. Quân Tây Sơn đuổi theo truy sát vào tận
Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị lúc đó còn đang mơ màng trong giấc
mộng, giật mình tỉnh giấc thì thấy quanh mình lửa cháy khắp nơi,
sáng rực trời. Không kịp đóng yên cương, nhảy lên ngựa chạy
trốn. Quân lính tranh nhau cướp đường chạy theo tướng về hướng
bắc. Chen lấn xô đẩy qua cầu phao sông Hồng. Cầu chịu không
nổi, đứt. Hàng vạn lính bị cuốn trôi theo nước dòng sông. Số chạy
thoát đều bị mai phục, chặn đánh tơi bời.
Trưa mùng 5, vua Quang Trung tiến vào Thăng Long giữa
tiếng hò reo của ba quân và dân chúng. Chỉ trong vòng một tuần,
Vua đã từ Phú Xuân hành quân thần tốc đánh tan 20 vạn quân
Thanh hùng hậu. Vua tiến hành khôi phục đât nước với nhiều cải
cách triệt để giúp đất nước phát triển nhanh chóng. Đến năm 1792,
vua Quang Trung mất, con là Quang Toản lên thay.
Năm 1793, Nguyễn Ánh từ Gia Định đem quân đánh tới tận
thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc. (Nguyễn Ánh sau khi thất bại
cùng với quân Xiêm, sống lưu vong nhiều năm, tới 1797 đã quay
về chiêu mộ được nhiều binh lính, có cả người một số người Pháp
do linh mục Bá Đa Lộc đưa tới, giúp sức, tái chiếm được thành Gia
Định từ 1788 khi Quang Trung đang chuẩn bị đánh quân Thanh,
Nguyễn Lữ chạy về Quy Nhơn). Nguyễn Nhạc bị vây khốn phải cầu
cứu Quang Toản. Quang Toản sai tướng đem quân giải vây xong
thì có ý muốn chiếm luôn. Nguyễn Nhạc vì thế uất ức mà chết.

Nguyễn Ánh rút nhưng từ đó thường đem
quân đánh phá. Hai bên giành nhau thành Quy Nhơn mấy lần.
Sau khi Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc chết, nhà Tây Sơn do
Quang Toản lãnh đạo. Nhưng vua còn non nớt nên bị Thái sư Bùi
Đắc Tuyên lộng quyền gây nên nhiều mẫu thuẫn nội bộ. Các tướng
tự đánh giết lẫn nhau. Triều đình suy yếu. Trong khi đó Nguyễn
Ánh đựơc sự giúp sức của người Pháp ngày một mạnh lên.


×