Việt Nam Qua Các Thời Đại
I- TỪ HỌ HỔNG BÀNG ĐẾN CUỐI NHÀ TRIỆU
* - Họ Hồng Bàng
Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng gần 3000 năm trước Công Nguyên (Thiên
Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 trước
công nguyên). Đây chỉ là một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để
giải thích về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh
Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây
giờ. Ngoài triều đình có các hàng quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc
tướng, quan văn là Lạc hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có
những tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ Mẫu Hệ... tôn thờ các sức mạnh
thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió...
Đến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương
thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 trước công nguyên
* - An Dương Vương- Triệu Đà
Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô
ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên
Tàu Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc.
Nhưng sau 10 năm đánh nhau, Đồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Đây là lần đầu
tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa .
Ít lâu sau, Triệu Đà từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh Âu Lạc, An
Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Đà sát nhập Âu Lạc vào quận
Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam Việt lên ngôi vua lấy hiệu là
Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông)
* - Nhà Tiềng Hán Xâm Lăng Việt Nam
Bấy giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiềng Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao thiệp với
nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương & Ai vương đều bất
tài nhu nhược. Đời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ, Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn
gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can
ngăn không được, phải bắt giết cả hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm
vua lo chuẩn bị chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Đức sang đánh,
Lữ Gia yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân tộc.
II- THỜI ĐẠI BẮC THUỘC
* - Bắc Thuộc Lần Thứ Nhất (111 trước công nguyên - 39 sau công nguyên)
Sau khi chiếm Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta .
Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra làm nhiều quận
nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất
kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều
khổ sở vì các thái thú người Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân
cho đầy túi tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa
* - Cuộc Khởi Nghĩa Của Hai Bà Trưng
Năm 34 sau công nguyên, Tô Định làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam
tàn bạo dân chúng vô cùng oán hận. Tô Định giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên
(Vĩnh Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em
Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định báo thù cho chồng rửa hận cho nước, Tô Định
thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán đối với Nam Việt lần
thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh (năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng
nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh, cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận
chạy đến sông Hát Giang rồi trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .
* - Bắc Thuộc Lần Thứ Hai
Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước,
các Lạc hầu Lạc tướng bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung
Hoa . Các Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn mặc,
nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo Tàu, về sau đổi tên nước ta
lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều tham lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên
rừng săn voi lấy ngà, xuống biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501
năm (43-544) trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn gánh
chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời gian dài đăng
đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy không thành công trong
việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn
lao đến các cuộc khởi nghĩa sau này.
* - Cuộc Khởi Nghĩa Của Lý Bôn Chấm Dứt Bắc Thuộc Lần II - Nhà Tiền Lý
(544-602)
Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư
làm nhiều điều tàn ác, lòng người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao
Châu thường sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người
huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm Ấp sang
quấy nhiễu .
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn
Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài
của dân tộc sau gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ.
Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh nước ta, Lý Nam Đế già yếu trao quyền lại cho Triệu
Quang Phục chống cự với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước,
Lý Nam Đế đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương.
Đến năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Đế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng là
Hậu Lý Nam Đế. Để rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý Phật Tử đầu
hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc nghiệt của nhà Tùy bên Tàu
. Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền móng cho tinh thần chống người Tàu từ
phương Bắc của dân tộc ta về sau này .
* - Bắc Thuộc Lần Thứ Ba(602 - 938)
Năm 602 nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Đường diệt,
Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Đường và đổi tên thành An Nam Đô Hộ Phủ. Chính sách
cai trị của nhà Đường khắc nghiệt nhất so với các triều đại khác của Trung Hoa, đã vậy
quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722, Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Đông nổi lên chống với quân
Đường, chiếm giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan
yếu thế thua chạy rồi bị bệnh mất.
Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, nhà Đường lại càng siết chặt việc cai trị hơn
trước nữa . Năm 791, Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Đường về Tàu,
lo việc cai trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay
nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Đường khi xâm chiếm nước ta lần nữa, dân ta
lại lệ thuộc Trung Hoa .
* - Thời Kỳ Chuyển Tiếp Độc Lập với Dương Diên Nghệ - Ngô Quyền ( 931-938 )
Nhà Nam Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương
Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu. Dương Diên
Nghệ tự xưng làm Tiết Độ Sứ cai trị Giao Châu . Năm 937, Dương Diên Nghệ bị nha
tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể
Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam
Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự
cầu cứu của Kiều Công Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Đằng Ngô Quyền chấm
dứt hẳn thời đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ
năm 938 trở về sau .
III- THỜI ĐẠI ĐỘC LẬP
* - Nhà Ngô (938 - 965)
Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939) đóng đô ở Cổ Loa huyện
Đông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị mong xây dựng một nền tự chủ vững bền
cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày
một suy yếu vì triều đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Đến
năm 965 đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế lực
riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi là loạn Thập nhị
sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân. Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp
tan loạn sứ quân lập nên nhà Đinh.
* - Nhà Đinh (968 - 980)
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Đinh
Tiên Hoàng, đặt tên nước Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa
sang lại đất nước sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Đinh cố lo tổ chức việc binh , có
được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Đinh Tiên Hoàng ham mê tửu
sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là Đinh Tuệ mới sáu tuổi thì
quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân
Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân sĩ đánh giặc. Nhà Đinh mất ngôi năm 980 sau 12
năm trị vì.
* - Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Đại Hành Hoàng Đế, đánh tan quân Tống và chinh phạt
Chiêm Thành khi Chiêm Thành bắt sứ giả của ta . Vua Lê Đại Hành chăm lo việc cai trị,
tổ chức quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao thông...
Năm 1004 vua Lê Đại Hành mất, các vị vua về sau nhu nhược ham mê tửu sắc, tàn ác,
nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm 1009 về tay nhà Lý.
* - Nhà Lý (1010 -1225)
Vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận, nên
khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ lên
ngôi .
Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra thành Đại La tức Hà Nội bây giờ. Việc
nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị,
kinh tế, quân sự, tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý
Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học được chú
trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Đản mang quân sang đánh Tống
tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 - 1076), chinh phạt Chiêm Thành
(1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm Thành phải triều cống.
Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm
bài thơ nổi tiếng sau đây:
Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại hư
Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho Trần Thủ Độ, nghe lời Trần
Thủ Độ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi để đi tu . Trần Thủ Độ
ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225,
nhà Lý mất nghiệp kể từ đó.
* - Nhà Trần (1225 -1400)
Trần Cảnh lên làm vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do
Trần Thủ Độ quyết định. Trần Thủ Độ định lại việc việc cai trị, tổ chức một triều đình
có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị cũng được đặc biệt chú
trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở mang rộng rãi, Nho học, Phật
giáo, Lão giáo đều được triều đình chú trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như
Mạc Đĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này .
Năm 1257, sau khi vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà
Nguyên và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước
ta . Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành không còn manh
giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên của nhà Nguyên ở Việt Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do
Thoát Hoan, Toa Đô, cùng Ô Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta . Trước thế giặc quá
mạnh, vua Trần Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống
giặc. Đồng thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến -
các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.
Giai đoạn đầu thế giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi
hiểm yếu . Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật,
Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc lòng đánh giặc
của toàn dân, nên Toa Đô đã bỏ xác với vô số quân Mông Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã
Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50 vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong
vòng không đầy một năm (1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay
trước dân tộc Việt khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu .
Để phục thù, nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta . Thuyền
chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần biết được điều
đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp
dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào ạt tràn sang nước ta lần thứ ba .
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh, vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi
dùi của giặc và kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được
thuyền lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Đồn làm cho quân Mông Cổ run sợ
- để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Đằng đã nhận chìm vô số quân Mông Cổ và Ô Mã
Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được. Trên đường chạy trốn về
nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh đánh cho một trận tơi bời, chạy trối
chết về Tàu .
Đạo quân Mông Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-
tư rộng lớn, đánh tan các đội kî binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn vùng này,
với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của dân tộc Việt mà từ bỏ mộng
xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị diệt bên Tàu .