Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Vai trò của người phụ nữ theo đạo hồi trong xã hội ( qua khảo cứu kinh quran)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=================

BÙI THỊ THƠM

VAI TRÒ CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI
TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KINH QUR’AN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Tôn giáo học

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=================

BÙI THỊ THƠM

VAI TRÒ CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI
TRONG XÃ HỘI (QUA KHẢO CỨU KINH QUR’AN)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60.22.03.09

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Kim Oanh

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, Luận văn thạc sĩ Triết học với đề tài: “Vai
trò của người phụ nữ theo đạo Hồi trong xã hội (Qua khảo cứu kinh
Qur’an)”, là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS. TS. Trần Thị Kim Oanh.
Các số liệu, trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận văn là hoàn
toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.

Hà Nội, năm 2015
Tác giả luận văn

Bùi Thị Thơm


LỜI CẢM ƠN
Luận văn với đề tài “Vai trò của người phụ nữ theo đạo Hồi trong
xã hội (Qua khảo cứu kinh Qur’an)” được hoàn thành tại trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Để hoàn thành
được Luận văn, bên cạnh những cố gắng của bản thân, tác giả luận văn đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể.
Trước tiên, với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới PGS. TS. Trần Thị Kim Oanh, cô đã nhiệt tình hướng dẫn
khoa học cho tác giả để Luận văn được hoàn thành.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Triết học, các
thầy cô trong bộ môn Tôn giáo học và các thầy cô công tác ở các đơn vị ngoài
trường, các cán bộ, công chức của các phòng, ban, thư viện trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã hết sức giúp đỡ tác giả trong quá trình học
tập, nghiên cứu tại khoa, trường.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè và đồng

nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình
hoàn thành Luận văn thạc sỹ của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận văn

Bùi Thị Thơm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 9
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 9
7. Ý nghĩa của luận văn ................................................................................. 9
8. Kết cấu luận văn : ...................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ KINH QUR’AN VÀ ĐỜI
SỐNG CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ HỒI GIÁO ............................................ 10
1.1. Nguồn gốc kinh Qur’an ............................................................. 10
1.1.1. Bối cảnh ra đời ........................................................................... 10
1.1.2. Nội dung cơ bản của Kinh Qur’an ............................................. 17
1.2. Đời sống của ngƣời phụ nữ theo đạo Hồi thể hiện trong kinh
Qur’an ............................................................................................... 30
1.2.1. Quan niệm về người phụ nữ trong Kinh Qur’an ........................ 30
1.2.2. Hồi giáo và phụ nữ ..................................................................... 36
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG THỂ HIỆN VAI TRÒ CỦA
NGƢỜI PHỤ NỮ THEO ĐẠO HỒI TRONG XÃ HỘI ........................ 44
2.1. Vai trò của ngƣời phụ nữ theo đạo Hồi trong gia đình ........... 44

2.1.1 Vai trò của người phụ nữ theo đạo Hồi trong mối quan hệ giữa
vợ - chồng.............................................................................................. 44
2.1.2.Vai trò của người phụ nữ theo đạo Hồi trong mối quan hệ giữa
cha mẹ, con cái ..................................................................................... 51
2.2.Vai trò của ngƣời phụ nữ theo đạo Hồi trong cộng đồng xã hội55
2.2.1. Vai trò của người phụ nữ theo đạo Hồi trong lĩnh vực kinh tế .. 55

1


2.2.2. Vai trò của người phụ nữ theo đạo Hồi trong tổ chức xã hội ... 62
2.2.3. Vai trò của người phụ nữ theo đạo Hồi trong tôn giáo và văn hóa ... 68
2.3. Những giá trị và hạn chế về quan niệm của ngƣời phụ nữ theo
đạo Hồi trong Kinh Qur’an ............................................................. 74
KẾT LUẬN ................................................................................................ 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 87
PHỤ LỤC ................................................................................................... 92

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo Hồi là một trong những tôn giáo lớn ra đời trên bán đảo Ảrập,
trong quá trình truyền đạo và phát triển đã lan rộng trên phạm vi toàn thế
giới, đến Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.
Thế giới Hồi giáo trong thời gian gần đây đã thu hút sự quan tâm, chú
ý của nhiều quốc gia, cũng như nhiều nhà nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh
khác nhau như: mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội, vấn đề khủng bố, sự
phân chia các giáo phái trong Hồi giáo, vấn đề xung đột Hồi giáo ở các

nước Bắc Phi và Trung Đông… Đây đều là những sự kiện có sự tham gia
của những tín đồ theo đạo Hồi. Đặc biệt trong thời gian gần đây việc đấu
tranh chống bạo lực, đòi hỏi sự bình đẳng về giới là một vấn đề được quan
tâm nghiên cứu trên toàn thế giới.
Nếu gia đình được coi là tế bào của xã hội thì người phụ nữ được coi
là hạt nhân của tế bào này. Khi nói về vai trò của người phụ nữ trong xã
hội, C.Mác viết: “Những biến đổi xã hội to lớn không thể có được khi thiếu
chất men phụ nữ” [7, tr 486]. Người phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong
đời sống gia đình và xã hội.
Phát biểu tại một hội nghị về vai trò của phụ nữ trong các vấn đề của
thế giới, bà Rice – ngoại trưởng Mỹ đã hưởng ứng lời kêu gọi của quốc tế
về việc dành cho phụ nữ một vai trò chính trị công bằng hơn, đặc biệt là
trong việc giải quyết những vấn đề khẩn cấp của thế giới – biến đổi khí
hậu, khủng bố, đói nghèo và chủ nghĩa cực đoan tôn giáo: “Trong thế giới
hiện đại này, không một quốc gia nào có thể đạt được sự thành công, ổn
định và an ninh bền vững nếu như một nửa dân số của họ bị gạt ra rìa.
Cộng đồng quốc tế cần phải đảm bảo rằng chúng ta nghe thấy tiếng nói của

3


phụ nữ và quan tâm tới những lo ngại của họ tại tất cả những nơi chúng ta
nỗ lực thiết lập hoặc gìn giữ hòa bình dễ dàng hơn” [45].
Ngay từ những bước đi đầu tiên của lịch sử, người phụ nữ đã đóng
một vai trò quan trọng không thế thiếu, là người quyết định những vấn đề
của đời sống gia đình và xã hội. Tuy nhiên sự phát triển của lực lượng sản
xuất và quá trình phân công lao động đã đưa người đàn ông lên thay thế trở
thành “người trụ cột” trong gia đình và xã hội, từ đó vị trí của người phụ nữ
phải trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là những nước có tôn
giáo độc thần thống trị.

Ngày nay, khi con người đang bước dần đến kỷ nguyên của văn minh thì
những giá trị về nhân quyền, dân quyền cũng như sự bình đẳng giới đang tiến
dần những nấc thang mới. Nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thấy sự đóng
góp vô cùng quan trọng của phụ nữ vào các hoạt động văn hóa, kinh tế, chính
trị xã hội.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của phụ nữ, từ những năm 70 trở lại đây,
phong trào nghiên cứu về phụ nữ trong giới học giả rất phát triển, đặc biệt là ở
phương Tây, nơi mà những giá trị về quyền con người được đặc biệt đề cao.
Ở Việt Nam, nơi mà phụ nữ chiếm một nửa dân số, là hạt nhân của gia
đình và xã hội thì vấn đề quan tâm đến phụ nữ chính là vì sự ổn định và
phát triển đất nước. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,
người phụ nữ luôn chiếm một vị trí quan trọng và có những cống hiến to
lớn góp phần xây dựng truyền thống vẻ vang của dân tộc, đồng thời cũng
tạo nên truyền thống của chính giới mình. Điều 9 trong bản Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã khẳng định quyền
bình đẳng nam nữ. Trải qua nhiều lần sửa đổi Hiến pháp, song tư tưởng về
bình đẳng giới luôn được bổ sung và hoàn thiện. Tất cả các Hiến pháp từ
1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định: phụ nữ có quyền bình đẳng với

4


nam giới về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Địa vị của người
phụ nữ Việt Nam ngày càng được khẳng định và đề cao bởi những đóng
góp to lớn của họ trong thành tựu chung của đất nước và sự quan tâm của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên không phải ở bất cứ quốc gia nào người phụ nữ cũng được
đặt đúng vị thế và vai trò của mình.
Ở các nước theo đạo Hồi trên thế giới, vấn đề vị thế, vai trò của người
phụ nữ là một vấn đề phức tạp, nhiều mâu thuẫn.

Tất cả những quan niệm về người phụ nữ theo đạo Hồi đều được
Thượng đế Allah truyền lại qua thiên kinh Qur‟an. Kinh Qur‟an là cuốn
linh thiêng liêng và có vị trí quan trọng trong trong tâm hồn những tín đồ
theo đạo Hồi. Bởi trong kinh Qur‟an chứa đựng tất cả tinh thần của Hồi
giáo, chứa đựng đức tin và thực hành đức tin đối với Thượng đế. Kinh
Qur‟an không chỉ đơn thuần là cuốn kinh về giáo lý mà còn là bộ luật trong
cuộc sống hàng ngày của mỗi người Muslim (các tín đồ theo Hồi giáo).
Kinh Qur‟an không phải là tác phẩm do con người sáng tạo mà do thượng
đế Allah sáng tạo, lấy Muhammad làm trung gian để thuyên truyền cho mọi
người, đối với người Hồi giáo thì thiên kinh Qur‟an là món quà vĩ đại nhất
mà Thượng đế ban cho loài người. Nội dung thiên kinh Qur‟an và những
lời thuyết đạo của Thiên sứ Muhammad cho thấy người phụ nữ Hồi giáo có
giá trị sống như nam giới và bình đẳng với nam giới. Tuy nhiên,vẫn có
những người hiểu phiến diện theo nghĩa phụ nữ Hồi giáo thấp kém hơn
đàn ông. Không phải chỉ có riêng trong gia đình và xã hội Hồi giáo, mà lịch
sử xã hội con người nói chung, tự nó đã phân biệt rõ sự khác nhau về chức
năng của người phụ nữ với đàn ông; tính “bình đẳng” và sự “đồng dạng” là
hai mặt khác nhau. Để hiểu đúng thân phận người phụ nữ Hồi giáo trong xã
hội, trong thiên kinh Qur‟an đã giành hẳn một chương để nói về phụ nữ
(chương IV).

5


Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, tôn giáo nói
chung, đạo Hồi nói riêng đang có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đời sống văn
hóa, tinh thần, chính trị, xã hội của đất nước ta. Đảng và nhà nước rất quan
tâm tới vấn đề này. Văn kiện hội nghị lần thứ V, ban chấp hành Trung
Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VIII, phần những nhiệm vụ cụ thể,
điểm 8, chính sách văn hóa đối với tôn giáo khẳng định: “ khuyến khích ý

tưởng công bằng, bác ái hướng thiện trong tôn giáo, đồng thời tuyên truyền
giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan, chống việc lợi dụng tôn giáo thực
hiện ý đồ chính trị xấu” [14,tr.66 – 67]. Hay chỉ thị 37/TC – TW của Bộ
chính trị ra ngày 02 – 07 – 1998 đã viết: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn
tại lâu dài, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới”. Văn kiện Đại Hội X đã chỉ ra : “Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp
luật”. Tại điều 5 Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo của Đảng cũng cho rằng : “
Tôn trọng giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo”…
Với tất cả lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “ Vai trò của ngƣời phụ
nữ theo đạo Hồi trong xã hội (Qua khảo cứu Kinh Qur’an)” làm đề
tài luận văn của mình. Đề tài không chỉ mang lại một cách nhìn nhận,
đánh giá khách quan hơn về tư tưởng của kinh Qur‟an trong các quan
niệm về thế giới, con người và xã hội, qua cuốn kinh Qur‟an giúp ta tìm
hiểu rõ hơn về vai trò người phụ nữ Hồi giáo. Do vậy, nghiên cứu, tìm
hiểu vai trò của người phụ nữ theo đạo Hồi qua khảo cứu kinh Qur‟an
dưới cái nhìn tôn giáo học nhằm làm sáng tỏ những giá trị, vai trò của
người phụ nữ theo đạo Hồi.

6


2. Tình hình nghiên cứu
Hồi giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới luôn thu hút được sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa học trong và ngoài
nước dưới những khía cạnh tiếp cận khác nhau.
Có thể kể đến các tác giả nước ngoài tiêu biểu như: Dominique Sourel

với tác phẩm “Hồi giáo” [11]; Jamal J.Elias với tác phẩm “Islam” và “Vấn
đề giáo phái trong Islam giáo” [31]; W.Owen Cole, Peggy Morgan với
“Six Reilehodge in the Twenty First Centry” [40]…
Nhìn chung các công trình này đều nghiên cứu về nguồn gốc ra đời,
lịch sử truyền bá, sự phân chia các giáo phái, quá trình phát triển đạo
Hồi trên thế giới.
Ở Việt Nam, vấn đề đạo Hồi trong những năm gần đây cũng được giới
nghiên cứu quan tâm hơn. Nhiều công trình nghiên cứu về đạo Hồi ở Việt
Nam ở các góc độ tôn giáo, văn hóa và kinh tế…tiêu biểu như: Nguyễn
Văn Luận với cuốn “Người Chăm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam”
[35]; Nguyễn Thọ Nhân với cuốn “ Đạo Hồi và thế giới Ảrập” [46];
Nguyễn Hồng Dương với tác phẩm “Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo, tín
ngưỡng của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận hiện nay”
[19]; Trần Thị Kim Oanh với tác phẩm “Hồi giáo và Hồi giáo ở Việt Nam”
[51]; Ngô Văn Doanh với cuốn “Hồi giáo với đời sống chính trị Đông Nam
Á” [15]… Những công trình này nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát
triển của đạo Hồi, những giáo lý, giáo luật, nghi lễ của đạo Hồi, kinh Qur‟an
và cũng ít nhiều đề cập đến cộng đồng tín đồ Hồi giáo ở Việt Nam, sự ảnh
hưởng của đạo Hồi trong đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng của người Việt Nam
theo đạo Hồi.
Ngoài ra còn một số bài báo, tạp chí cũng nghiên cứu vấn đề này như:
Bùi Thị Ánh Vân với bài viết “Địa vị người phụ nữ trong xã hội Hồi giáo
truyền thống” [60]; “Những quy định về địa vị cá nhân của người phụ nữ
7


trong xã hội Hồi giáo” [52] của Vũ Thị Thanh dịch; Nguyễn Văn Dũng với
“Địa vị của người phụ nữ trong thế giới Islam giáo” [22]; Lương Thị Thoa
với “Thử tìm hiểu một vài nét đặc trưng của Đạo Hồi” [53]; Ngô Văn Doanh
với “Islam giáo và văn hóa Đông Nam Á thời cận hiện đại” [14]; Nguyễn Xuân

Nghĩa với “Phụ nữ tôn giáo và vấn đề phát triển” [44]….
Bên cạch đó cũng có nhiều đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về đạo
Hồi như: Vũ Văn Chung “Quan niệm về hôn nhân và gia đình trong kinh
Qur’an” [9]; Nguyễn Thanh Xuân “Vai trò của người phụ nữ Islam trong
xã hội Inđônêxia” [63]…
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, các công trình nghiên cứu
trên chủ yếu nghiên cứu về: nguồn gốc ra đời, giáo lý, giáo luật, lịch sử
phát triển, sự truyền bá đạo Hồi trên thế giới và Việt Nam, các công trình
nghiên cứu về vai trò của người phụ nữ Hồi giáo còn chưa sâu. Ở đây, tác
giả đi sâu vào nghiên cứu “Vai trò người của phụ nữ theo đạo Hồi trong
xã hội (Qua khảo cứu kinh Qur’an)”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu vai trò người phụ nữ theo đạo Hồi qua khảo cứu kinh
Qur‟an, từ đó phân tích, chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế về quan
niệm của người phụ nữ theo Hồi giáo trong kinh Qur‟an.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất: Khái quát chung về Kinh Qur‟an và đời sống của người phụ
nữ Hồi giáo.
Thứ hai: Phân tích vai trò của người phụ nữ Hồi giáo qua khảo cứu
kinh Qur‟an.
Thứ ba: Chỉ ra những giá trị và mặt hạn chế về quan niệm của người
phụ nữ theo đạo Hồi trong kinh Qur‟an.

8


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của phụ nữ trong xã hội theo đạo

Hồi qua sự khảo cứu kinh Qur‟an.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu vai trò của người phụ nữ trong
xã hội được thể hiện qua kinh Qur‟an.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn xây dựng trên cơ sở vận dụng quan điểm
của Mác xít về tôn giáo, bản chất, vai trò, chức năng xã hội của tôn giáo.
Luận văn cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước về đạo Hồi.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu của tôn giáo học như: phương pháp logic lịch sử, phân tích, tổng hợp,
đối chiếu, so sánh, phương pháp nghiên cứu kinh điển.
6. Đóng góp của luận văn
Từ việc làm sáng tỏ một số nội dung cụ thể về vai trò của người phụ
nữ theo đạo Hồi trong xã hội (qua khảo cứu kinh Qur‟an). Trên cơ sở đó
chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của người phụ nữ theo Hồi giáo.
7. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò của người phụ
nữ Hồi giáo trong xã hội, từ đó chỉ ra những giá trị và hạn chế của người phụ
nữ theo đạo Hồi nói chung so với những người phụ nữ trên thế giới nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần vào việc
nhận thức và ứng xử phù hợp hơn với cộng đồng Hồi giáo, đồng thời có thể
làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về tôn giáo nói
chung và Hồi giáo nói riêng.
8. Kết cấu luận văn :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung chính của luận văn gồm 02 chương 05 tiết.
9


CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ KINH QUR’AN VÀ ĐỜI

SỐNG CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ HỒI GIÁO
1.1. Nguồn gốc Kinh Qur’an
1.1.1. Bối cảnh ra đời
Đạo Hồi là một tôn giáo mang tính quốc tế, ra đời muộn nhưng lại là
tôn giáo phát triển nhanh, là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới.
Xuất phát từ quê hương Ảrập từ thế kỷ thứ VII sau Công nguyên, Hồi
giáo đã phát triển nhanh chóng tạo thành một thế lực mạnh với những tổ
chức đặc biệt của nó về phương diện tôn giáo cũng như quốc gia, xã hội.
Ở bán đảo Ảrập, trước khi đạo Hồi xuất hiện phần lớn dân cư sống
cuộc sống du mục, lang thang nay đây mai đó với những đàn cừu và lạc đà
trên các sa mạc, trừ một vài vùng ở ven duyên hải và ốc đảo, có thể trồng
trọt và chăn nuôi. Nhìn chung kinh tế còn trong tình trạng thấp kém, xã hội
còn lạc hậu và tồn tại nhiều hủ tục. Sự ra đời của đạo Hồi được thúc đẩy
bởi các nguyên nhân kinh tế, xã hội, chính trị, gắn liền với sự chuyển biến
từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp và yêu cầu thống
nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một nhà nước phong kiến thần
quyền. Đầu thế kỷ thứ VII, các bộ lạc du mục trên bán đảo Ảrập đã bắt đầu
định cư, các nhóm dân cư có nhu cầu hòa hợp vào nhau để tạo thành một
quốc gia thống nhất, một nền kinh tế thống nhất, xây dựng quân đội hùng
mạnh để chống giặc ngoại xâm, mở rộng lãnh thổ. Như vậy, yêu cầu thống
nhất quốc gia đã trở thành một xu thế lịch sử tất yếu của Ảrập lúc đó.
Hoàn cảnh lịch sử là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành
giáo lý, giáo luật của đạo Hồi nói chung và giáo lý, giáo luật đề cập tới thân
phận và vai trò của người phụ nữ trong gia đình, xã hội nói riêng.
Xã hội Ảrập trước khi Hồi giáo ra đời còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu.
Người Ảrập theo chế độ đa thê, tùy thuộc vào kinh tế giàu hay nghèo, mà

10



người đàn ông có số lượng vợ và nàng hầu khác nhau, họ có quyền quyết
định đối với vợ con, người vợ được coi như là vật sở hữu của chồng, do đó
có thể ruồng bỏ dễ dàng. Các góa phụ và phụ nữ bị ruồng bỏ thuộc quyền
sở hữu của người đàn ông thừa kế, người thừa kế đó có thể giữ lại hoặc bán
cho người khác. Đối với người phụ nữ bị bắt trong chiến tranh, họ bị xem
như chiếm lợi phẩm, như nô lệ. Đối với con gái, người cha có thể bán cho
người khác làm vợ tùy ý, có thể chôn sống lúc mới sinh hoặc kể cả khi đã
lớn, nhằm tránh sự nghèo túng hoặc giữ danh dự cho gia đình, vì sự hiện
diện của đứa con gái trong nhà là một điều sỉ nhục. Tục lệ này khá phổ biến
trong xã hội tiền Hồi giáo và còn được coi như một việc làm hợp đạo lý.
Trái lại, đối với người con trai, lại có quyền hạn rất lớn, nhất là khi chúng
đã trưởng thành, bởi lý do là người con trai khi lớn lên sẽ trở thành những
chiến binh đứng lên bảo vệ đất nước. Theo người Ảrập, với sứ mệnh của
người con trai như vậy họ phải được tôn trọng và có quyền uy. Mặc dù
sống trong một nhà nhưng đàn ông và đàn bà sống ngăn cách bởi một bức
rèm, họ phải ăn riêng và ăn sau chồng, con trai mình và bạn bè của chồng.
Hồi giáo ra đời, đã có bước ngoặt tiến bộ hơn so với thời kỳ trước,
người phụ nữ không những được coi trọng mà họ còn có các quền hạn nhất
định của mình. Họ cũng đóng vai trò quan trọng, là người vợ, người mẹ,
giữ gìn tổ ấm gia đình, hiếu thuận với cha mẹ, để người chồng an tâm lao
động sản xuất. Không những vậy họ còn tích cực tham gia vào các hoạt
động ngoài xã hội khác. Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn vai trò của người phụ
nữ Hồi giáo ở chương 2.
Bên cạnh đó để một tôn giáo mới ra đời và tồn tại không chỉ dừng lại
ở bán đảo Ảrập mà còn ở các nước trên thế giới phải kể đến vai trò của
Muhammad. Ông chính là người sáng lập ra đạo Hồi và thiên kinh Qur‟an.

11



Qúa trình hình thành đạo Hồi và kinh Qur‟an gắn liền với hoạt động
truyền đạo của Muhammad và các hậu duệ của Ông, sau này họ chính là
những người đã dày công sưu tầm, biên soạn cuốn kinh Qur‟an.
Muhammad sinh năm 571, từ bộ lạc Kyriesh. Vốn đã định cư ở
Mekka từ lâu. Chính bộ lạc này đã xây đền Kabba ở đây từ những năm
2171 trước Công nguyên tính từ ông tổ Ismael trở xuống đến Muhammad
đúng được 30 đời. Cha ông là Abdullah mất sớm từ khi ông ra đời được hai
tháng, mẹ là bà Amina sau sáu năm thì mất. Muhammad được ông nội là
Abd – El- Motalib và chú là Abou- Taib đem về nuôi, chính nhờ người chú
mà Muhammad học được một nghề mà dân chúng Ảrập thời kỳ này rất yêu
thích: nghề thương mại.
Khi đi qua Syria và Lưỡng Hà ông có dịp tiếp xúc với các nhà tu hành
Kitô giáo. Những người này đã có một số điểm chung với tinh thần Khải
thị chân lý mà Muhammad sau đó nhận được đó là: đều tin vào Thượng Đế,
tin vào Kinh Thánh và lời của Thượng Đế.
Muhammad là người chín chắn, làm việc rất cẩn thận nên được mọi
người tin yêu và tặng Ông cái tên Al-Amin có nghĩa là một người được mọi
người tín nhiệm. Năm 25 tuổi ông vào làm quản lý cho một góa phụ giàu
có ở thành Mekka tên là Khadijah, sau đó ông đã lấy bà làm vợ, mặc dù về
tuổi tác là chênh lệch (bà Khadijah đã 40 tuổi).
Nhờ vào thế lực của vợ, ông trở thành một nhân vật đáng kể trong
vùng và cũng từ bấy giờ ông không phải lo sinh kế nữa nên có thì giờ lo
việc đạo. Muhammad đã được xưng danh là sứ giả của Allah, nhà tiên tri
và người đứng ra sáng lập đạo Hồi.
Tương truyền rằng, vào năm 611, Muhammad bắt đầu trải nghiệm một
sự kiện khác thường, khi đang một mình cô độc suy ngẫm trong một cái
hang trên núi Xira, thuộc ngoại thành Mekka. Vào đêm hôm đấy, Thượng

12



đế Allah đã cử thiên sứ Gabriel đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên
“khải thị” cho ông chân lý của kinh Qur‟an, khiến ông trở thành “Thánh
thụ mệnh” – sứ giả của Thượng Đế, nhà Tiên tri. Sau khi được khải thị, ông
hỏi Thiên sứ là mình phải nói gì cho đồng bào của mình và Thiên sứ đáp:
“hãy nói nhân danh Thượng Đế của các ngươi, Đấng đã sáng tạo ra con
người từ một cục máu. Hãy nói “ Thượng đế của các ngươi là khoan dung
nhất, người đã dạy bằng ngòi bút, dạy con người điều mà nó không biết”.
Lời nói đó của Thiên sứ đã đặt nền móng hình thành nên kinh Qur‟an, từ đó
về sau, Muhammad tự xưng là tiếp thu sứ mệnh của chân chủ trao cho, băt
đầu truyền đạo Hồi.
Đầu tiên, ông chưa công khai nói về tôn giáo của mình, mà chỉ bí mật
truyền giáo cho những người thân và bạn bè, về sau ông mới công khai
truyền giáo tới quần chúng Mekka và một số người đã tin theo. Ông truyền
bá tư tưởng bình đẳng và lòng nhân từ, phê phán việc thờ phụng thần
tượng. Trong mười năm, từ năm 611 đến năm 621, Muhammad đã kêu gọi
người dân thành Mekka hãy nghe theo lời dạy của Thượng Đế, hãy chấp
nhận một Thượng Đế độc tôn. Thế nhưng, những cố gắng của ông lúc bấy
giờ vẫn chưa thành công, thậm chí với nhiều người những thông điệp của
ông dường như là sự đe dọa đối với việc thờ các thần tượng đang rất sinh
lợi cho họ, vì thế họ căm ghét ông. Lúc Muhammad mới rao giảng những
lời của Thượng đế thì đa số những người có thế lực ở Mekka hoàn toàn thờ
ơ, thế nhưng, dần dần, họ bắt đầu chống đối ông, họ không thích những bài
giảng của ông chống lại các thần tượng của họ. Đặc biệt là những người
giàu có, họ không quan tâm tới lời cảnh báo của ông về ngày phán xét cuối
cùng và về địa ngục đang chờ họ. Họ quyết liệt đàn áp bằng cách tàn sát
các tín đồ tôn giáo mới này, đa số thuộc tầng lớp dân nghèo và nô lệ. Lúc
bấy giờ những người theo Muhammad còn ít nên trước cảnh tàn sát đó, ông

13



đã khuyên họ tản cư sang Abyssinie lánh lạn. Muhammad cũng rời thành
Mekka đi giảng đạo ở TaiF phía nam Mekka, nhưng không thu được kết
quả, lúc đó ông quyết định đi ngược về phía Bắc và truyền giáo tại thành
Yathib (sau này đổi tên thành Medina) nơi cách Mekka 450 km. Từ đây số
lượng tín đồ tin ông ngày càng tăng. Ông chọn thành Medina có nghĩa là
thành phố của nhà tiên tri, thành nơi di dân đến cho các tín đồ Hồi giáo còn
sót lại ở Mekka
Ngày 16 tháng 7 năm 622, Muhammad quyết định dẫn các tín đồ ở
Mekka di dân sang đây. Người Hồi giáo gọi đây là ngày Hidjra, có nghĩa là
ngày Thánh di. Sau 17 năm ngày này được chọn làm ngày mở đầu cho kỷ
nguyên Hồi giáo vì chính sau này Hồi giáo phát triển mạnh mẽ và trở thành
một trong những tôn giáo lớn trên thế giới.
Muhammad tập trung phát triển đạo ở Medina và xây cất ở đây một
Thánh đường, ông đề xuất tư tưởng “Muslim là anh em”. Theo tư tưởng
này, tất cả những Muslim, không phân biệt bộ tộc, không phân biệt khoảng
cách đều là anh em, đoàn kết thống nhất dưới ngọn cờ Hồi giáo, đều lấy tín
ngưỡng tôn giáo và lợi ích chính trị của cộng đồng làm xuất phát điểm và
nguyên tắc tối cao để xử lý mọi vấn đề thế tục. Trong thời gian ở Medina,
ông đề xuất hàng loạt những chủ trương cải cách đời sống xã hội, những
quy phạm luân lý đạo đức, những nguyên tắc pháp luật, những hệ thống
giáo quy của Hồi giáo…để xử lý những vấn đề vấp phải trong cuộc sống
thường ngày và để tạo ra sức mạnh cho chính quyền. Để hòa giải mâu
thuẫn xã hội, ông đưa ra chủ trương giảm gánh nặng cho nô lệ, đề xướng
việc cứu tế, giúp đỡ người khó khăn…
Tuy nhiên vì xung đột lợi ích những người quý tộc ở Quraich thuộc
Mekka luôn tìm cách triệt hạ thành Medina. Trước tình hình đó, ông đã tập
hợp tín đồ để chống lại họ. Trong các năm 624 đến 627, đội quân Muslim


14


đã phát động cuộc chiến với các giáo đồ đa thần giáo Mekka ở Badr và ở
Uhud. Tuy quy mô không lớn, khi thắng khi thua nhưng đội quân đã chiếm
được nhiều chiến lợi phẩm, đã đè bẹp được nhuệ khí của các quý tộc
Mekka và quan trọng nhất đã tạo được niềm tin vào chiến thắng.
Trước sự lớn mạnh của lực lượng Hồi giáo, các tín đồ đạo Do Thái
cảm thấy bất an và đã tìm cách phá hoại sự đoàn kết của khối Muslim.
Trước tình hình đó, ông đã lãnh đạo các lực lượng vũ trang Muslim đánh
bật hai bộ lạc Do Thái ra khỏi Medina.
Năm 628, Muhammad đích thân dẫn hơn một nghìn tín đồ Hồi giáo
cùng đi Mekka để triều kiến Kaba (ngôi đền thiêng, ngày nay năm ở trung
tâm của Đại Thánh đường Hồi giáo ở Mekka) theo tục lệ cổ truyền của các
dân tộc Ảrập. Khi sắp đến Mekka, đội quân Muslim bị binh lính của thành
phố ngăn lại. Tuy nhiên dưới sự cứng rắn của Muhammad thì chính quyền
Mekka phải nhượng bộ. Đại biểu quý tộc Mekka và những người Muslim
đã ký hòa ước Hotapia đồng ý ngưng chiến trong mười năm và phải thừa
nhận địa vị hợp pháp của những người Muslim về mặt tôn giáo.
Đến năm 629, Muhammad đem quân đánh chiếm thành Mekka, lúc ấy
thế lực bộ lạc Quraich đã giảm nhiều nên ông đã lấy được thành Mekka.
Sau khi lấy được thành Mekka ông lại tiếp tục đánh một trận Honain để dẹp
đội quân Hawain thì ông mới làm bá chủ bán đảo Ảrập về phương diện
chính trị, quân sự cũng như tôn giáo.
Mùa xuân năm 632, Muhammad cùng với mười vạn quân tới Mekka
để lãnh đạo cuộc triều bái đã được cải cách. Tại đây ông tuyên bố hoàn
thành đạo Hồi. Hoàng loạt nghi thức điển lễ mà Muhammad tiến hành
trong lần triều bái này đã trở thành khuôn mẫu triều bái của những người
Hồi giáo sau này. Sau triều bái, Muhammad trở về Medina, ít lâu sau ông
mắc bệnh và qua đời, các tín đồ Hồi giáo mai táng ông tại Medina.

15


Như vậy, có thể thấy rằng vai trò của Muhammad đối với sự ra đời
đạo Hồi là rất to lớn. Bằng cách sử dụng một hình thức tôn giáo mới để tập
hợp quần chúng, thống nhất các bộ lạc, thị tộc trên bán đảo Ảrập để hình
thành nhà nước Ảrập. Cộng đồng Hồi giáo không chỉ là cộng đồng tôn giáo
mà còn mang tính chất chính trị, cộng đồng xã hội.
Sau khi Muhammad qua đời, phần lớn các bản chép tay của các tín đồ
Hồi giáo về những lời khải thị của Thượng đế được ông truyền giảng trên
những mảnh da cừu, da súc vật, trên lá bị thất lạc hoặc phân tán nhiều nơi.
Nhu cầu cấp thiết cần phải thu hồi và sưu tầm các nguyên bản, sau đó cần
phải có người tài giỏi biên tập các nguyên bản thành một cuốn kinh duy nhất.
Năm 657, tức 25 năm sau khi Muhammad qua đời, vua Uthman công
bố bản kinh Qur‟an và gọi nó là “MUSHAF” có nghĩa là “kinh thánh chính
thức của mọi người Hồi giáo”.
Đối với các dân tộc Ảrập, nguyên bản bằng ngôn ngữ Ảrập của kinh
Qur‟an là một kiệt tác phẩm thi văn. Kinh Qur‟an không hẳn là một cuốn thơ
trường thiên nhưng là một tác phẩm văn xuôi có vần có điệu rất thích hợp với
khẩu vị văn chương của những người du mục. Chính vì vậy, kinh Qur‟an
nhanh chóng được truyền bá qua truyền khẩu rộng khắp bán đảo Ảrập.
Trước khi có kinh Qur‟an, người Ảrập có mặc cảm là một chủng tộc
thiếu văn hóa và họ tỏ ra nể trọng người Do Thái và Ki tô, sự xuất hiện của
kinh Qur‟an vào đầu thế kỷ thứ VII đã đem lại cho các dân tộc Ảrập một
niềm tự hào vì từ nay họ có Thánh kinh viết bằng tiếng Ảrập. Họ đón
nhận Hồi giáo là đạo của dân tộc chứ không phải đạo ngoại lai. Ðạo Hồi
và kinh Qur‟an là chất keo văn hóa nối kết các bộ lạc Ảrập lại với nhau
và biến khối Ảrập thành một lực lượng chính trị và quân sự hùng mạnh
trong nhiều thế kỷ.
16



Cho nên trong ngôn ngữ người Ảrập có danh từ “Dhimmi” để gọi
chung cho Do Thái và Ki tô. Danh từ này có nghĩa là “những người có sách
Thánh kinh”.
Do nhu cầu truyền đạo trong nhiều thế kỷ qua, đến nay kinh Qur‟an
đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới.
Đối với người Muslim kinh Qur‟an là hầu hết tất cả những gì người
Hồi giáo có, trong đó chứa đựng những giá trị tinh thần, giáo lý, luật lệ, lễ
nghi…Trong xã hội ngày nay nhiều quốc gia theo đạo Hồi còn lấy kinh
Qur‟an làm chuẩn mực .
Kinh gồm khoảng 6.200 câu, được sắp xếp thành 114 phần gọi là
các chương (Sũrah). Mỗi chương có một tên riêng được lấy trong từ ngữ
chính văn bản. Trong thiên kinh Qur‟an có cả một danh sách dài các luật lệ
và quy định áp dụng cho xã hội Hồi giáo do chính Muhammad khải thị.
1.1.2. Nội dung cơ bản của Kinh Qur’an
Kinh điển thần thánh duy nhất của Hồi giáo là Kinh Qur‟an. Chữ
Qur‟an có nghĩa là “tuyên đọc, tụng đọc”. Theo giáo lý của đạo Hồi, kinh
Qur‟an là những lời mặc khải của thánh Allah thông qua sứ giả Muhammad
truyền đến cho đời người. Nhưng, thực tế đó chỉ là những lời nói trong
những trường hợp khác nhau của Muhammad. Sau Muhammad qua đời,
những lời nói đó được ghi chép thành một tập.
Đối với người Hồi giáo thì Thiên kinh Qur‟an là món quà vĩ đại nhất
của Thượng Đế ban cho loài người và Đức Thông Suốt của Thiên Kinh có
tính duy nhất thuộc loại này:
- “(TA thề) bởi (Kinh) Qur‟an (đầy những điều ) Sáng Suốt Khôn
Ngoan
- Chắc chắn, Ngươi (Muhammad) là một trong các sứ giả (của Allah).
- Đang ở trên con đường ngay thẳng (Chính đạo Islam)


17


- (Kinh Qur‟an này) do Đấng Toàn Năng, Đấng Khoan Dung ban
xuống” [Sũrah 36; 2,3,4,5].
Hay có thể nói, mục tiêu của Kinh Qur‟an là bảo tồn các huyền khải đã
có trước và khôi phục chân lý vĩnh cửu của Thượng Đế, để dẫn dắt loài
người đi đến con Đường Ngay Chính và làm sống lại linh hồn của con
người, để đánh thức lương tri và soi sáng tâm trí con người.
Qúa trình hình thành kinh Qur‟an gắn với quá trình hình thành đạo Hồi
trong buổi đầu sơ khai, gắn liền với bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, tín ngưỡng tôn giáo trên bán đảo Ảrập.
Vào khoảng năm 610, Muhammad bắt đầu truyền khẩu các thông điệp
mà ông tin là xuất phát từ Thượng đế: “Đây là Kinh Sách, không có gì phải
ngờ vực cả, (dùng làm) Chỉ Đạo cho những người ngay thẳng và sợ Allah
[Sũrah 2;2]. Những thông điệp truyền khẩu này là những thiên khải ban đầu
được các tín đồ ghi nhớ và truyền theo những lời giải thích truyền thống,
nhiều năm sau khi Muhammad qua đời. Năm 632 kinh Qur‟an mới được
viết ra đầy đủ. Và tên gọi “Bài học thuộc lòng” là tên gọi đầu tiên sau khi
được viết ra, sau này có tên là Qur‟an – Qur‟an cũng chính với nghĩa ban
đầu của nó là “đọc”, “niệm” , “thuộc lòng”.
Những giáo lý cơ bản của đạo Hồi được trình bày trong Thánh kinh
của người Hồi giáo là kinh Qur‟an.
Bộ kinh này tổng cộng gồm 30 quyển, 114 chương chia nhỏ thành
6.200 câu. Nội dung kinh Qur‟an thật phong phú, chứa đựng những tín
ngưỡng cơ bản, chế độ tôn giáo Hồi giáo, những ghi chép về tình hình
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội trên bán đảo Ảrập đương thời cùng với
các chủ trương, chính sách của Umma, các quy phạm luân lý đạo đức…
Các chương trong kinh Qur‟an có độ dài không tương xứng với nhau, có
chương rất dài, lại có những chương rất ngắn, vì chúng được Muhammad


18


đọc ra dần dần trong khoảng thời gian hơn 20 năm. Trừ chương đầu tiên,
còn lại các chương được sắp xếp theo độ dài, từ chương dài nhất đến
chương ngắn nhất. Vì gần như tất cả những chương ngắn hơn lại được khải
thị sớm hơn về thời gian, nên trật tự sắp xếp của cuốn kinh hầu như hoàn
toàn ngược lại với trình tự thời gian mà Muhammad tuyên đọc chúng. Chính vì
vậy, các chương đều có thể đứng tách một cách độc lập, và không hề có bất kì
mối liên hệ nào trong nội dung giữa chúng với nhau.
Kinh Qur‟an được thiêng liêng hóa, coi là chân lý, trong đó có những
điều răn dạy về giáo lý, luật lệ, lễ nghi, sự thờ phụng, cách thức hành đạo,
điều kiện nhập đạo, mối quan hệ gia đình, xã hội, đồng đạo, các nguyên tắc
cư xử… tất cả việc đạo và đời. Cuốn kinh Qur‟an được lấy làm chuẩn mực
cho tất cả, được lấy để thề nguyền trong phiên tòa, trong sự tranh chấp, xô
xát. Kinh được viết bằng tiếng Ả rập, nay vẫn giữ nguyên không thay đổi.
Cơ sở giáo lý là niềm tin vào thánh Allah (Thượng đế) – vào sứ giả
Muhammed, vào thiên thần, ma quỷ, vào sự bất tử của linh hồn, vào ngày
phục sinh và phán xét, vào thiên đường, địa ngục, vào sự vĩnh cửa của kinh
Qur‟an.
Kinh Qur‟an bắt đầu bắt đầu bằng những lời sau đây, gọi là Al Fatihah
(Khai Đề), tức khổ thơ mở đầu, đó là một bản tóm lược khá đầy đủ về linh
hồn và thông điệp cơ bản của nó:
“1- Nhân danh Allah, Đấng Rất Mực Độ Lượng, Đấng Rất Mực
Khoan Dung.
2- Mọi lời ca ngợi (và biết ơn) đều dâng lên Allah, Rabb (Đấng Chủ
Tể) của vũ trụ (Âlamin):
3- Đấng Rất Mực Độ Lượng, Đấng Rất Mực Khoan Dung;
4- Đức Vua của Ngày Phán Xử (Cuối Cùng).

5- (Ôi Allah!) Chúng con chỉ thờ phụng một mình Ngài và chỉ với
riêng Ngài chúng con cầu xin được cứu giúp:

19


6- Xin Ngài dẫn dắt chúng con (đi) theo con đường Ngay Chính:
7- Con đường của những người đã được Ngài ban Ân, không phải là
(con đường của) những kẻ đã bị Ngài giận giữ và (cũng không phải là con
đường của) những ai lầm đường lạc lỗi” [Sũrah1;1-7].
Những chương đầu tiên của kinh Qur‟an nói về Thượng Đế Allah với
những đặc tính siêu việt của Ngài. Ngoài Thượng Đế, kinh Qur‟an dạy phải
tin có thiên thần và ma quỷ (Satan), tin các sách Mặc Khải của đạo Do Thái
và Ki Tô cùng các vị thiên sứ, tin có ngày tận thế và ngày phán xét cuối
cùng, tin mọi kẻ chết đều được sống lại, tin có Thiên Đàng Hỏa Ngục, tin
mọi việc do Thượng Đế Allah tiền định nhưng mọi người có ý chí tự do.
Cuốn sách tiếp tục với sự mô tả về những kỳ công sang thế của
Thượng Đế: Allah đã tạo ra loài người bằng cách kết hợp giống đực và
giống cái, từ những khối máu và sự phát triển thần bí của bào thai. Thượng
Đế tạo ra người đàn ông dưới hình thức con người lý tưởng, con người lý
tưởng này thể hiện sự khoan dung và sự diệu kỳ của Thượng Đế chứ không
xúi bẩy người ta phủ nhận Ngài. Và khi ngày phán xét đến, những ai phạm
phải tội lỗi thì những tội lỗi thì những tội lỗi đó sẽ hiện rõ trên mặt họ và
Thượng Đế không cần phải hỏi đến, những ai phúc lành của vị Chúa Tể khi
đó sẽ sa xuống địa ngục, còn những ai tôn kính sự uy nghi của thần thánh
của Ngài sẽ được lên thiên đàng. Thiên đàng trong kinh Qur‟an cũng giống
như hầu hết các tôn giáo khác, là một xứ sở tươi sáng rực rỡ khác hẳn với
thiên đàng trong những giấc mơ trần thế, trong thơ ca.
Kinh Qur‟an cảnh báo về ngày phán xét sẽ đến. Vào ngày đó tiếng còi
báo hiệu sẽ vang lên, trái đất rung chuyển, mọi thứ vỡ vụn, trời xanh biến

mất, biển khô cạn, gió bão nổi lên và mọi sinh vật không còn tồn tại. Thời
điểm đó, Thượng Đế sẽ xuất hiện để phán xử loài người về những hành vi
thiện, ác.

20


Trong khi kinh Cựu Ước và Tân Ước đề cập đến vấn đề thiêng liêng
hoặc lịch sử thì kinh Qur‟an đồng thời cũng là một bộ luật đầu tiên và cao
nhất của Hồi giáo với những điều cấm kỵ được quy định rất chi tiết.
- Cấm cho vay nặng lãi:
“Những ai ăn (lấy) tiền lời cho vay (Ribâ) sẽ không đứng vững trừ phi
đúng như kẻ đã bị Shaytân sờ mó và làm cho điên cuồng… Nhưng Allah
cho phép buôn bán và cấm cho vay nặng lãi. Bởi thế ai nhận được lệnh
Cảnh báo của Allah và ngưng (cho vay lãi) thì sẽ được Allah tha thứ về quá
khứ của y” [Sũrah 2;275].
- Cấm ăn thịt heo, thịt đã cúng các thần thánh khác, cấm ăn máu (tiết
canh, huyết), các đồ tế cúng…
“(Allah) cấm các ngươi dùng (thịt của) xác chết, và máu (huyết) , và
thịt của con heo, và món vật cúng cho ai khác không phải Allah; và (thịt
của) những con vật bị vặn (hay thắt) cổ chết, và những con vật bị đập chết,
và những con vật bị những con thú dữ ăn một phần trừ khi các ngươi làm
cho sạch (bằng cách cắt cổ chúng theo đúng nghi thức); và những món vật
cúng trên bàn thờ (hay trên đá)…[Sũrah5;3]
- Cấm cờ bạc:
“Hỡi những ai có niềm tin! Uống rượu và cờ bạc và thờ cúng trên bàn
thờ bằng đá và dùng tên để làm quẻ xin xăm là một điều khả ố”
[Sũrah5;90]
- Cấm giết thú săn bắn trong thời gian hành hương Mekka:
“Chớ giết thú săn bắt trong lúc các ngươi đang ở trong tình trạng hãm

mình (làm Hajj trong Thánh Địa Mekka); và ai trong các ngươi cố tình giết
nó thì phải bị phạt đền bằng một con thú nuôi tương đương với con thú
(săn) đã bị giết. Chọn trong đàn gia súc dưới sự giám sát của hai người
công bằng trong các người và được dắt đến (ngôi đền) Ka‟bah để làm vật tế
…” [Sũrah5;1;95].

21


×