Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Xây dựng chuẩn mực đạo đức của con người việt nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------

PHẠM THỊ XEN

XÂY DỰNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA
CON NGƢỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: T.S Dƣơng Văn Duyên

Hà Nội - 2015


LỜI CẢM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi đƣợc thực hiện dƣới
sự hƣớng dẫn của TS. Dƣơng Văn Duyên.
Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015


Tác giả luận văn

Phạm Thị Xen


LỜI CÁM ƠN

Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ và động viên của quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo TS. Dƣơng Văn
Duyên về những ý kiến đóng góp và sự chỉ dẫn tận tình của thầy trong suốt thời
gian tôi thực hiện luận văn này.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các Thầy giáo, Cô giáo trong
khoa Triết học trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhận văn đã cung cấp cho tôi
những tri thức quý báu trong suốt quá trình học tập cũng nhƣ đã tạo điều kiện thuận
lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới gia đình bạn bè, những
ngƣời đã luôn bên tôi động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn
thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn

Phạm Thị Xen


MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ............................................................................................................ 9
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC
CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
HIỆN NAY ................................................................................................................. 9
1.1. CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ, NHỮNG YÊU
CẦU VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ ....................................................................... 9
1.1.1. Chuẩn mực đạo đức và hội nhập quốc tế .......................................................... 9
1.1.2. Những yêu cầu và chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế hiện nay.................................................................................. 17
1.2. CHỦ THỂ VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP XÂY DỰNG CHUẨN MỰC ĐẠO
ĐỨC C ỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
QUỐC TẾ HIỆN NAY............................................................................................ 38
1.2.1. Chủ thể xây dựng chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam hiện nay ..... 39
1.2.2. Những biện pháp xây dựng chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế ............................................................................... 45
Kết luận chƣơng 1 ..................................................................................................... 49
Chƣơng 2: XÂY DỰNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƢỜI VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY-

THỰC

TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP........................................................................................ 50
2.1. THƢ̣C TRẠNG XÂY DƢ̣NG CHUẨN MƢ̣C ĐẠO ĐƢ́C CỦ A CON NGƢỜI
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆNAY
N ................. 50
2.1.1. Những thành tựu xây dựng chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay ................................................................ 50
2.1.2. Những hạn chế trong xây dựng chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam

trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay ................................................................ 66


2.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÂY DỰNG
CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY ........................................................... 79
2.2.1. Nhóm giải pháp nhận thức .............................................................................. 79
2.2.2 Nhóm giải pháp về công tác nghiên cứu xây dựng nội dung chuẩn mực đạo đức .... 81
2.2.3. Nhóm giải pháp tuyên truyền phổ biến những chuẩn mực đạo đức mới ................ 82
2.2.4. Nhóm giải pháp về công tác tổ chức, quản lý ................................................. 85
2.2. 5. Nhóm giải pháp kinh tế .................................................................................. 88
Kết luận chƣơng 2 ..................................................................................................... 91
C. KẾT LUẬN ......................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 94
PHỤ LỤC


A. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Đạo đức đƣợc xem là một trong những nhân tố quan trọng trong việc cấu
thành của kiến trúc thƣợng tầng, của ý thức xã hội ở mọi thời đại, một mặt nó bị
quy định bởi cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội sinh ra nó nhƣng mặt khác nó cũng có tính
độc lập tƣơng đối và tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội. Nên khi
cơ sở hạ tầng thay đổi, tồn tại xã hội thay đổi, thì đạo đức xã hội sớm hay muộn
cũng thay đổi theo cho phù hợp. Hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế gắn với hoạt
động tăng cƣờng giao lƣu, hợp tác, gắn kết, chia sẻ lợi ích giữa các quốc gia trên thế
giới đang trở thành một xu thế tất yếu của lịch sử nhân loại. Quá trình này đã và
đang có những tác động mạnh mẽ đến mọi mặt theo nhiều chiều hƣớng khác nhau
trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia đặc biệt trong đó là vấn đề về đạo đức. Vì

vậy, công tác xây dựng những chuẩn mực, giá trị đạo đức mới trên cơ sở kế thừa và
tiếp thu những giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống để phù hợp với xu thế thời
đại đang là công việc tất yếu cần làm của mỗi quốc gia. Và Việt Nam cũng không
nằm ngoài xu hƣớng phát triển chung tất yếu đó.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý
của Nhà nƣớc, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta không
ngừng mở rộng mối quan hệ giao lƣu hội nhập quốc tế với các quốc gia trên toàn
thế giới nhằm cùng nhau học tập, trao đổi, giao lƣu, hợp tác trên mọi lĩnh vực: kinh
tế, văn hóa, chính trị, an ninh, quốc phòng…Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng
mang tính chất hai mặt vừa tạo ra động lực cho sự phát triển nhƣng bên cạnh đó nó
cũng có những nhân tố hạn chế mang tính bất cập làm kìm hãm sự phát triển trong
quá trình hội nhập của mỗi quốc gia. Nhận thức sâu sắc đƣợc điều đó trong quá
trình thực hiện hội nhập Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta một mặt không ngừng thực
hiện những nỗ lực đầu tƣ huy động tất cả các nguồn lực: nguồn vốn, tri thức, công
nghệ, khoa học kỹ thuật, truyền thống văn hóa,…phục vụ cho mục tiêu xây dựng
đất nƣớc nhằm đạt kết quả tốt nhất, mặt khác cũng có những biện pháp nhằm hạn
1


chế và loại bỏ đi những mặt tiêu cực của quá trình hội nhập đƣa lại. Trong số những
nhân tố tác động đến việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nhƣ trên đã phân tích chúng
ta không thể không nhắc tới vai trò của đạo đức vì đây đƣợc xem là ngọn nguồn, là
nền tảng tạo nên sức mạnh tổng hợp cho mỗi quốc gia khi biết phát huy đúng
hƣớng, ngƣợc lại khi không đƣợc chú trọng xây dựng, phát triển thì nó cũng trở
thành một lực cản vô hình cản trở rất lớn đến với sự phát triển của mỗi quốc gia,
dân tộc nói chung. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay dƣờng nhƣ
vấn đề xây dựng chuẩn mực đạo đức đƣợc xem nhƣ là một đòi hỏi, một nhu cầu tất
yếu và thiết thực cho sự nghiệp xây dựng phát triển đất nƣớc của chúng ta. Bởi
trong quá trình hội nhập quốc tế các chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam có

những thay đổi theo những mức độ khác nhau một mặt nó tạo điều kiện cho con
ngƣời có thể tiếp nhận những giá trị đạo đức tốt đẹp của nhiều dân tộc trên thế giới
nhƣng mặt khác đạo đức xã hội Việt Nam cũng chịu ảnh hƣởng của những biến đổi
theo chiều hƣớng tiêu cực. Điều đó đã làm cho những chuẩn mực đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc bị phai nhạt, nhiều tệ nạn xã hội đã và đang ảnh hƣởng
xấu tới đời sống xã hội Việt Nam trong điều kiện hội nhập hiện nay. Chính vì vậy,
việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức cho con ngƣời Việt Nam đáp ứng yêu cầu
của điều kiện hội nhập là một đòi hỏi thiết yếu đối với chúng ta.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức và xây dựng chuẩn mực đạo đức trong quá trình hội nhập là
một vấn đề rất rộng lớn và có phần phức tạp.Tuy nhiên, nó đã dành đƣợc sự quan
tâm và nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà lý luận…Công trình nghiên cứu của
họ đƣợc thể hiện qua nhiều cách tiếp cận khác nhau nhƣng nó đƣợc tập trung vào
nghiên cứu một số vấn đề chính nhƣ: đạo đức truyền thống, vai trò của đạo đức
truyền thống, tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống trong kinh tế thị trƣờng, đạo
đức con ngƣời Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, giải pháp phát huy giá trị
đạo đức trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa…Nhằm mục đích tìm ra
những giải pháp, cách thức phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức con ngƣời Việt

2


Nam phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc trong điều kiện hiện
nay.
Khi nhắc đến các công trình nghiên cứu có giá trị về vấn đề đạo đức phải kể
đến một số công trình tiêu biểu sau:
Quan điểm về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trƣờng đƣợc trình bày
trong cuốn sách "Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay" do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) (Nxb

Chính trị quốc gia, 2003). Cuốn sách là tập hợp bài viết của nhiều tác giả, trong bài
viết của mình các tác giả đã phân tích xung quanh một số vấn đề: lý luận, thực
trạng, phƣơng hƣớng, giải pháp để xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng ở nƣớc ta hiện nay với nội dung khá sâu sắc.
Cuốn sách “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay- Vấn đề và giải pháp” do
Nguyễn Duy Quý chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, 2006) tìm hiểu vấn đề đạo đức
xã hội dƣới ảnh hƣởng của kinh tế, chính trị ở nƣớc ta hiện nay. Đồng thời để làm
rõ vấn để nêu trên tác giả cũng đã đi phân tích và làm rõ sự ảnh hƣởng của kinh tế
thị trƣờng đối với đạo đức của từng đối tƣợng cụ thể: đạo đức của cán bộ, đảng
viên, công chức; đạo đức của thanh niên.
Cuốn sách “Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay” của Lê Thị Tuyết Ba (Nxb Khoa học xã hội, 2010) trong nội dung công
trình này tác giả tập trung nghiên cứu nội dung của yếu tố ý thức đạo đức trong nền
kinh tế thị trƣờng. Còn nội dung các yếu tố cấu thành của đạo đức dƣới tác động
của kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay thì chƣa đƣợc tác giả làm rõ.
Trong tạp chí Triết học số 1 năm 1995 tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn với bài
viết “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi giá trị khi nước ta chuyển sang kinh
tế thị trường”, tạp chí Triết học số 1 năm 1998 tác giả Nguyễn Thế Kiệt trong bài
viết về “ Mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo
đức hiện nay” những công trình nghiên cứu này của các tác giả đều đi sâu tìm hiểu
những biến đổi của giá trị và chuẩn mực giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trƣờng.
Theo đó, những giá trị, những chuẩn mực đạo đức truyền thống đã và đang có sự
đổi mới, mở rộng ngày càng đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
3


Vấn đề xây dựng đạo đức cũng đƣợc các tác giả quan tâm với nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị tiêu biểu nhƣ:
Đề tài nghiên cứu KHXH- 04.03: "Xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực
giá trị xã hội mới trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế

thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" do Huỳnh Khái Vinh làm chủ nhiệm
(thuộc chƣơng trình khoa học công nghệ cấp Nhà nƣớc KHXH- 04, Hà Nội, 2000)
là công trình nghiên cứu khá toàn diện có tính hệ thống những vấn đề lý luận về: lối
sống, đạo đức, chuẩn mực xã hội. Trên cơ sở phân tích sự tác động của các nhân tố
chính trị, kinh tế, xã hội đến đạo đức, lối sống con ngƣời trong kinh tế thị trƣờng.
Công trình cũng đã đƣa ra những phƣơng hƣớng và giải pháp cụ thể cho công tác
xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn mực giá trị xã hội trong điều kiện công nghiệp
hóa hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở
nƣớc ta hiện nay.
Trong cuốn sách “Xây dựng đạo đức cán bộ, công chức Việt Nam trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” của tác giả Bùi
Thế Vĩnh (Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003) đã đƣa ra nội dung yêu cầu trong công tác
xây dựng chuẩn mực đạo đức của ngƣời cán bộ công chức Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế đất nƣớc gắn với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Cuốn sách “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” của Trịnh Duy Huy (Nxb Chính trị quốc gia, 2009) có nội dung
khá đầy đủ mang tính hệ thống về lý luận, về thực trạng và một số phƣơng hƣớng,
giải pháp xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta hiện
nay. Trong công trình nghiên cứu của mình tác giả cho rằng việc xây dựng và phát
triển đạo đức mới phải dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam và tác giả cũng đã chỉ ra những chuẩn mực cơ bản của
đạo đức mới đang đƣợc xây dựng ở nƣớc ta.
Trong luận án tiến sĩ của các tác giả: Nguyễn Thị Thu Ngà: “Giá trị đạo đức
truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay”, Học
viện Chính trị- hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội năm 2011; Nguyễn Thị
Thu Hƣờng “Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng đạo đức cho cán bộ lãnh đạo
4


chính trị ở Việt Nam hiện nay”, Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng giảng viên lý luận chính

trị, Hà Nội năm 2013; luận án “Xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay”
của tác giả Đinh Công Sơn, Học viện khoa học- xã hội, Hà Nội năm 2014; luận án
“Đạo đức công chức và vấn đề xây dựng đạo đức công chức trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay” của tác giả Lê Thị Hằng, Học viện Khoa học- xã hội, Hà
Nội năm 2014. Trong nội dung bài viết của mình các tác giả đã nghiên cứu và đƣa ra
những nhận định và giải pháp cần thiết cho công tác xây dựng đạo đức của từng đối
tƣợng, nghề nghiệp chuyên môn nhất định của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị, cán
bộ công chức, ngƣời kinh doanh.
Nội dung về công tác xây dựng đạo đức cũng đƣợc các tác giả quan tâm
nghiên cứu và đề cập khá nhiều trên các tạp chí nhƣ: trong tạp chí Triết học số 157
tháng 6 năm 2004 với bài viết “Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ đảng viên ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Lý. Bài viết “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng đạo đức cách mạng của người cán
bộ giai đoạn hiện nay” của Bùi Văn Hà số 9 trang 14-16 năm 2004 trong tạp chí Lý
luận chính trị, bài viết “Giá trị đạo đức truyền thống với quá trình xây dựng đạo
đức người công an nhân dân hiện nay” của tác giả Phạm Bá Lƣơng năm 2007 số 8
trang 53-57 trong tạp chí Giáo dục lý luận, Nguyễn Duy Bắc với bài viết “Kế thừa
và phát huy đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức cách mạng” trong tạp
chí Lý luận chính trị ra số 2 trang 29-44 năm 2009,…Những bài viết nêu trên đều
nhấn mạnh đến vai trò của việc kế thừa tƣ tƣởng đạo đức truyền thống, vận dụng tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đạo đức cho ngƣời cán bộ cách mạng trong
giai đoạn hội nhập hiện nay. Bài viết trên tạp chí Văn hóa nghệ thuât số 1 trang 4-8
năm 2006 của tác giả Mai Hải Oanh “Xây dựng đạo đức con người mới” nhấn mạnh
đến sự cần thiết của việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới của con ngƣời
Việt Nam.
Viết về đề tài chuẩn mực đạo đức có một số công trình nghiên cứu có giá trị
tiêu biểu trong số đó chúng ta phải kể đến:
Cuốn sách “Chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam hiện nay” của viện Khoa
học xã hội nhân văn Quân sự (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006) trong công
5



trình này các tác giả đã đề cập đến những yếu tố cơ bản về nội dung chuẩn mực đạo
đức trong truyền thống và hiện nay của ngƣời Việt Nam.
Trong cuốn sách “Chuẩn mực đạo đức quân nhân của quân đội nhân dân
Việt Nam hiện đại” biên soạn Phạm Văn Nhuận, chủ biên Nguyễn Ngọc Phú (Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007) đã nêu ra một số vấn đề lý luận về đạo đức,
chuẩn mực đạo đức quân nhân, những chuẩn mực đạo đức của quân đội ta hiện nay.
Công tác rèn luyện bộ đội theo chuẩn mực đạo đức quân nhân Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Tạp chí Triết học số 3 tháng 3 năm 2007 với bài viết “Về tính quy luật của sự
hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới” của tác giả Nguyễn Văn Phúc cho
rằng cần thiết phải xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức sao cho phù hợp với
điều kiện ở nƣớc ta hiện nay đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc, xây dựng nền kinh tế thị trƣờng trong xu thế đất nƣớc mở rộng quan hệ quốc
tế. Trong tạp chí Tâm lý học với bài viết “Bàn về chuẩn mực đạo đức chủ yếu của
con người Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Phú ra số 6 trang 8-14 năm
2007 bài viết đã đi phân tích khá cụ thể về sự cần thiết và những chuẩn mực đạo
đức chủ yếu cần có của con ngƣời Việt Nam hiện nay.
Tác giả Hoàng Chí Bảo với bài viết “Từ lời dạy của Bác đến chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp” đăng trên tạp chí Tuyên giáo số 1 trang 30-34 năm 2013, tác giả
Đặng Kim Oanh với bài viết “Mấy suy nghĩ về chuẩn mực đạo đức của người làm
báo, biên tập, xuất bản tạp chí lịch sử Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh” tạp chí
Lịch sử Đảng ra số 2 trang 81-86 năm 2013, bài viết “Chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ công chức ngân hàng hiện nay theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí
Minh” của tác giả Phạm Thị Tuyết ra số 10 trang 56-59 năm 2013 của tạp chí Ngân
hàng. Các bài viết này đều đi sâu vào việc phân tích và làm rõ những chuẩn mực
đạo đức cụ thể trong từng lĩnh vực nghề nghiệp chuyên môn hiện nay của con ngƣời
Việt Nam.
Mặc dù, có rất nhiều các đề tài, công trình khoa học nghiên cứu về các vấn

để của đạo đức, xây dựng đạo đức và xây dựng chuẩn mực đạo đức gắn với sự phát
triển của Việt Nam hiện nay nhƣng đến nay nó vẫn chƣa bao giờ là một đề tài
6


nghiên cứu cũ. Bởi lẽ, với mỗi một vấn đề thì tùy thuộc vào từng điều kiện, từng
thời điểm, từng lĩnh vực khác nhau mà mỗi cá nhân chúng ta có cách nhìn nhận,
tiếp cận và đánh giá khác. Trên cơ sở tiếp thu đánh giá có chọn lọc các công trình
nghiên cứu trên đây chính là cơ sở lý luận để tác giả có thể phát triển đề tài nghiên
cứu khoa học: “Xây dựng chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết và thực trạng xây dựng những
chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, luận
văn đƣa ra những giải pháp nâng cao hoạt động này.
- Nhiệm vụ của luận văn
+ Luận văn làm rõ sự cần thiết xây dựng những chuẩn mực đạo đức của con
ngƣời Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
+ Luận văn phân tích thực trạng xây dựng những chuẩn mực đạo đức của con
ngƣời Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
+ Luận văn đề cập những giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng chuẩn mực
đạo đức của con ngƣời Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tƣợng: Nghiên cứu của luận văn là xây dựng những chuẩn mực đạo
đức của con ngƣời Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
- Phạm vi: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề này trong thời kỳ hội
nhập quốc tế từ Đổi mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ

nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về
xây dựng chuẩn mực đạo đức, về quá trình hội nhập quốc tế.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp và vận dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp logic và
lịch sử; phƣơng pháp thống kê và so sánh để thực hiện.
7


6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ những biến đổi về chuẩn mực đạo đức xã hội Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay và nêu lên những giải pháp để phát huy những mặt tích
cực, hạn chế những mặt tiêu cực của hội nhập quốc tế trong xây dựng chuẩn mực
đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về lý luận: Luận văn làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của hội
nhập quốc tế đến xây dựng chuẩn mực đạo đức con ngƣời Việt Nam và những yêu
cầu xây dựng chuẩn mực đạo đức con ngƣời Việt Nam phù hợp với sự hội nhập
quốc tế của đất nƣớc.
- Về thực tiễn: Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những ai
quan tâm tới vấn đề xây dựng những chuẩn mực đạo đức con ngƣời Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 2 chƣơng, 4 tiết.

8


B. NỘI DUNG
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC

CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
HIỆN NAY
1.1. CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ, NHỮNG YÊU CẦU
VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1.1. Chuẩn mực đạo đức và hội nhập quốc tế
Chuẩn mực đạo đức
Khái niệm chuẩn mực đạo đức
Chuẩn mực đạo đức là một trong những yếu tố cấu thành của ý thức xã hội
đƣợc sử dụng để xác định mẫu hành vi đạo đức của con ngƣời cần phải tuân theo
trong những tình huống xác định. Cũng nhƣ ý thức xã hội nói chung, chuẩn mực
đạo đức có hình thức và nội dung phản ánh rất khách quan. Nên muốn điều chỉnh
đạo đức cả trong ý thức và hành vi của mình, con ngƣời nhất thiết phải có cái đƣợc
dùng làm căn cứ để theo dõi, đối chiếu, điều chỉnh, đánh giá hành vi đa ̣o đƣ́c đó và
căn cứ để đối chiếu, điều chỉnh, đánh giá hành vi đa ̣o đƣ́c đó chỉ có thể là chuẩn
mực đạo đức.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: “Chuẩn (chuẩn mực, tiêu chuẩn) 1. Cái
đƣợc chọn làm căn cứ để đối chiếu, để làm mẫu 2. Tiêu chuẩn đƣợc định ra. 3. Cái
đƣợc công nhận là đúng và phổ biến nhất” [69, tr.98].
Còn trong từ điển Tiếng Việt quan niệm: “Chuẩn (chuẩn mực) 1. Cái đƣợc
chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hƣớng theo đó mà làm cho đúng 2. Vật đƣợc chọn
làm mẫu để thể hiện làm đơn vị đo lƣờng 3. Cái đƣợc công nhận là đúng theo quy
định hoặc theo thói quen trong xã hội” [54, tr.175].
Nhƣ vậy, từ những dấu hiệu cơ bản của chuẩn mực đạo đức cũng nhƣ chuẩn
mực chúng ta có khái niệm chuẩn mực đạo đức nhƣ sau:
Chuẩn mực đạo đức là những nguyên tắc, quy tắc đạo đức đƣợc mọi ngƣời
thừa nhận trở thành những mực thƣớc, khuôn mẫu để xem xét đánh giá và điều
chỉnh hành vi của con ngƣời trong xã hội. Chuẩn mực đạo đức là đặc trƣng riêng của
9



con ngƣời, nó quy định trong điều kiện cụ thể con ngƣời phải hành động theo những
yêu cầu cụ thể. Chuẩn mực đạo đức mang tính lịch sử phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế- xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Phân loại chuẩn mực đạo đức
Con ngƣời đã xây dựng lên một hệ thống các chuẩn mực đạo đức khác nhau
để điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của mình. Để phân loại chuẩn mực đạo đức
ngƣời ta phân chia chúng thành nhiều mức độ khác nhau trong đó tập trung vào hai
cách phân chia chính:
Thứ nhất, căn cứ vào phạm vi điều chỉnh, mức độ phổ biến của chuẩn mực
đạo đức trong đời sống xã hội ngƣời ta chia chuẩn mực đạo đức thành chuẩn mực
nguyên tắc đạo đức và chuẩn mực hành vi đạo đức.
Chuẩn mực nguyên tắc đạo đức: là những chuẩn mực có phạm vi điều chỉnh
đạo đức rộng lớn bao gồm toàn bộ hoạt động trong suốt quá trình tồn tại của một
quốc gia, một dân tộc, một giai cấp.Ví dụ trung thành với lý tƣởng xã hội chủ nghĩa,
có phạm vi điều chỉnh rộng lớn trong toàn bộ hoạt động của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trong suốt cuộc đấu tranh cách mạng để xóa bỏ chế độ cũ xây
dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa.
Chuẩn mực nguyên tắc đạo đức là yếu tố quan trọng trong việc tham gia xác
định phƣơng hƣớng hoạt động cơ bản của đời sống xã hội trên các phƣơng diện, các
lĩnh vực khác nhau nhƣ: lao động, sinh hoạt, học tập, chiến đấu,…Chuẩn mực nguyên
tắc đạo đức còn đƣợc xem là cơ sở để xác định các chuẩn mực hành vi đạo đức biểu
hiện trong cuộc sống hàng ngày rất phong phú và đa dạng. Chẳng hạn một nguyên tắc
của đạo đức cộng sản là chủ nghĩa tập thể đƣợc biểu hiện ra ở các chuẩn mực hành vi
nhƣ: bảo vệ của công, chăm lo xây dựng tập thể, quan tâm đến ngƣời khác.
Chuẩn mực hành vi đạo đức: là những chuẩn mực đạo đức đòi hỏi đối với
hành vi cụ thể trong những trƣờng hợp cụ thể, có phạm vi điều chỉnh hẹp, đơn nhất,
gắn với những tình huống xác định diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn, gắn
với đối tƣợng xác định. Ví dụ cứu ngƣời khi gặp nạn, nhƣờng chỗ trên tàu xe cho cụ
già, trẻ em và ngƣời có thai…Chuẩn mực hành vi đạo đức chỉ xuất hiện trong tình

huống khi có ngƣời nào đó gặp phải tai nạn rủi ro, khó khăn đang cần đến sự giúp
10


đỡ từ những ngƣời khác, đòi hỏi ngƣời giúp đỡ không quản ngại nguy hiểm, khó
khăn, thiệt thòi xả thân cứu giúp, giúp đỡ ngƣời đang gặp hoạn nạn khó khăn. Ai
làm đƣợc nhƣ vậy là ngƣời có đạo đức hay nói khác đi có làm đƣợc nhƣ vậy mới là
ngƣời có đạo đức cao cả bằng không sẽ trở thành ngƣời vô lƣơng tâm, vô đạo đức,
thờ ơ trƣớc sinh mệnh trƣớc khó khăn của ngƣời khác.
Chuẩn mực hành vi đạo đức chỉ xác định mẫu hành vi với những yêu cầu
chung nhƣng khi biểu hiện ở mỗi chủ thể khác nhau nó phụ thuộc vào trình độ phát
triển của nhận thức, trạng thái, tâm lý, tình cảm, tính tự nguyện, tự giác của mỗi chủ
thể. Các chuẩn mực hành vi đạo đức đƣợc thực hiện sẽ góp phần làm cho bộ mặt đời
sống tinh thần đạo đức đƣợc phong phú sinh động.
Các chuẩn mực đạo đức tồn tại phổ biến trong các quan hệ giữa ngƣời với
ngƣời, đƣợc duy trì dựa trên sức mạnh tập quán truyền thống, dƣ luận xã hội, tình
cảm chân thực của mỗi con ngƣời, không cần đến sự can thiệp bằng sức mạnh
cƣỡng bức của bộ máy Nhà nƣớc.
Thứ hai, căn cứ vào tính chất chuẩn mực đạo đức ngƣời ta chia chuẩn mực
đạo đức thành chuẩn mực đạo đức ngăn cấm và chuẩn mực đạo đức khuyến khích
Chuẩn mực đạo đức ngăn cấm: là chuẩn mực đòi hỏi chủ thể đạo đức không
đƣợc làm. Nhƣng hơn thế nữa, nó đòi hỏi các thành viên xã hội nhất thiết phải chấp
hành tuân theo những chỉ giới ngăn cấm xác định mẫu hành vi đạo đức. Nếu ai cố tình
vi phạm vƣợt quá giới hạn mà chuẩn mực đạo đức đã xác định là xâm hại đến lợi ích
vật chất, tinh thần, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, cộng đồng xã hội. Đây là những
chuẩn mực bắt buộc với nội dung xác định đòi hỏi mỗi ngƣời không đƣợc làm điều gì
đó vƣợt quá quy định cho phép.
Chuẩn mực đạo đức khuyến khích: là những chuẩn mực đạo đức xác định
mẫu hành vi con ngƣời nên làm, khuyến khích làm. Nên khi thực hiện chúng đòi hỏi
con ngƣời phải có sự nỗ lực cao về tinh thần và thể chất. Giá trị mà các chuẩn mực

đạo đức này mang lại có ý nghĩa xã hội to lớn và có tính mở về giới hạn theo hƣớng
tích cực.
Tính chất của chuẩn mực đạo đức

11


Tính khách quan của chuẩn mực đạo đức: Trong mỗi giai đoạn lịch sử tùy
theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội, truyền thống dân tộc, lợi ích xã hội mà
ngƣời ta đƣa ra những thang chuẩn mực đạo đức khác nhau đòi hỏi mọi ngƣời phải
thực hiện.
Trong xã hội công xã nguyên thủy khi xã hội chƣa có của cải dƣ thừa, chƣa
có chế độ tƣ hữu, quan hệ xã hội bình đẳng giữa ngƣời với ngƣời và xã hội đƣợc
điều hành bởi quyền lực cộng đồng. Do vậy, quan niệm chuẩn mực đạo đức của
ngƣời nguyên thủy chỉ là đề cao những giá trị bình đẳng, cộng đồng, nhân đạo.
Khi chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tƣ bản ra đời xã hội có sự phân chia
thành giai cấp khác nhau, nhà nƣớc hình thành từ việc duy trì các chuẩn mực đạo
đức xã hội không tách rời sự xác lập và duy trì các quy phạm pháp luật. Từ đó
chuẩn mực đạo đức cùng với quy định pháp luật trở thành 2 công cụ chủ yếu đƣợc
dùng để điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên trong cộng đồng nhằm duy trì trật tự
xã hội. Đạo đức của xã hội có giai cấp thống trị không có gì khác hơn là mang bản
chất đặc trƣng của giai cấp thống trị. Chính vì những lẽ đó mà chuẩn mực đạo đức
xã hội bao giờ cũng là sự thể hiện trực tiếp và chủ yếu lợi ích, ý chí của giai cấp
thống trị.
Sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa đạo đức của giai cấp vô sản
trở thành mặt chủ đạo trong đời sống đạo đức xã hội. Trên cơ sở nền tảng kinh tế
mới những yếu tố chuẩn mực đạo đức mới tiến bộ sẽ dần đƣợc hình thành phát triển
thay thế chuẩn mực đạo đức cũ lỗi thời.
Tính chủ quan của chuẩn mực đạo đức: thể hiện ở việc thực hiện và đánh giá
của chủ thể đạo đức về các chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, con ngƣời có hiểu biết khác

nhau, có vốn sống khác nhau, lợi ích giai cấp khác nhau thì việc tiếp nhận những
chuẩn mực đạo đức cũng khác nhau. Đặc biệt, quá trình giáo dục và rèn luyện giữ
vai trò trực tiếp quyết định chất lƣợng và hiệu quả công tác giáo dục truyền bá
những chuẩn mực đạo đức vào cuộc sống. Những ngƣời, những giai cấp, những xã
hội có tƣ tƣởng tiến bộ thì sẽ tiếp thu những chuẩn mực, những trào lƣu tƣ tƣởng
đạo đức tiến bộ phù hợp với xu hƣớng của thời đại. Ngƣợc lại, đối với những ngƣời,
những giai cấp, những xã hội lạc hậu lỗi thời đều muốn giữ lại những luồng tƣ
12


tƣởng, chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời và lạc hậu nhằm mục đích xây dựng và bảo vệ
lợi ích cho riêng họ.
Khái niệm xây dựng chuẩn mực đạo đức
Xây dựng chuẩn mực đạo đức là hoạt động có mục đích của con người nhằm
xây dựng những nguyên tắc, quy tắc đạo đức được mọi người thừa nhận trở những
mực thước, khuôn mẫu để xem xét đánh giá và điều chỉnh hành vi của con người
trong xã hội.
Hội nhập quốc tế
Khái niệm hội nhập quốc tế
Về mặt lý luận, có nhiều cách tiếp cận về hội nhập quốc tế. Các lý thuyết về
hội nhập đƣợc phát triển ban đầu chủ yếu để giải thích quá trình hội nhập kinh tế
của các nƣớc châu Âu. Lý thuyết về hội nhập kinh tế cho rằng hội nhập kinh tế là
quá trình gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau không chỉ về
kinh tế mà còn cả chính trị. Các lý thuyết chính trị quốc tế thì có cách tiếp cận về
hội nhập quốc tế khi cho rằng:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, nhƣng không giới hạn
ở đó, mà có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực.
Thứ hai, hội nhập quốc tế là quá trình không có giới hạn về thời gian.
Thứ ba, hội nhập quốc tế không chỉ diễn ra thông qua việc tham gia các cơ
chế hợp tác đa phƣơng mà còn trên nhiều bình diện.

Thứ tƣ, bản chất của hội nhập quốc tế là quá trình xây dựng, áp dụng các luật
lệ và chuẩn mực chung.
Theo đó có thể hiểu: Hội nhập quốc tế là một quá trình mà các nước tiến hành các
hoạt động tăng cường sự gắn kết với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu,
giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các
định chế hoặc tổ chức quốc tế.
Các lĩnh vực của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trong từng lĩnh vực cũng có thể diễn ra trên
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nhƣ: kinh tế, chính trị, an ninh- quốc

13


phòng, văn hóa, giáo dục, …với tính chất, phạm vi khác nhau có thể song phƣơng,
đa phƣơng, khu vực, liên khu vực, toàn cầu.
Thứ nhất, hội nhập về kinh tế: đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng
nƣớc với kinh tế khu vực và thế giới thông qua việc mở cửa tự do hóa nền kinh tế theo
những hình thức khác nhau: đơn phƣơng, song phƣơng, tiểu khu vực, vùng, khu vực,
liên khu vực và toàn cầu.
Thứ hai, hội nhập về chính trị: là quá trình các nƣớc tham gia vào các cơ chế
quyền lực tập thể giữa hai hay nhiều nƣớc nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất
định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung.
Thứ ba, hội nhập về an ninh- quốc phòng: là sự tham gia của các quốc gia
vào quá trình gắn kết họ với các nƣớc khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an
ninh.
Thứ tư, hội nhập về văn hóa- xã hội: là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa
với các nƣớc khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá
trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham
gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa- giáo dục, hợp tác chặt chẽ với các
nƣớc thành viên hƣớng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa- xã hội rộng lớn trên

phạm vi khu vực và toàn cầu; ký kết và thực hiện các hiệp định song phƣơng về hợp
tác- phát triển văn hóa- giáo dục-xã hội với các nƣớc.
Tác động của hội nhập quốc tế đến các chuẩn mực đạo đức của con người Việt
Nam
Những tác động tích cực
Thứ nhất, quá trình hội nhập quốc tế tạo ra những điều kiện thuận lợi cho con
ngƣời tiếp cận các nguồn thông tin tri thức khoa học mới tiên tiến để có thể lựa
chọn, xác định và xây dựng những chuẩn mực đạo đức lành mạnh. Biểu hiện của sự
biến đổi đó là ở nƣớc ta hiện nay trong quá trình hội nhập đang hình thành và phát
triển một hệ thống những chuẩn mực đạo đức mới nhƣ: bình đẳng, bác ái, tự do cá
nhân đƣợc đề cao… nhằm đáp ứng yêu cầu mới của đất nƣớc trong thời kỳ hội
nhập.

14


Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho nguồn vốn FDI,ODA
tăng lên nhanh chóng, các khu công nghiệp hiện đại đƣợc hình thành…tạo cơ hội
công ăn việc làm cho ngƣời dân ngày càng nhiều. Tạo điều kiện cho ngƣời nông
dân nông nghiệp chuyển thành những ngƣời công nhân làm việc trong các nhà máy,
xí nghiệp, các vùng trƣớc đây là nông thôn dần dần đƣợc đô thị hóa, điều kiện sống
của ngƣời dân ngày càng đƣợc nâng cao, những trang thiết bị hiện đại từng bƣớc đi
vào trong đời sống nhân dân…Tất cả những điều đó tạo ra cơ sở vật chất hiện đại để
thay đổi tận gốc rễ tác phong, lối suy nghĩ của những ngƣời sản xuất nhỏ tiểu nông
của nền sản xuất nông nghiệp manh mún. Thay vào đó là việc từng bƣớc hình thành
một lối sống kỷ cƣơng, kỷ luật, tác phong làm việc công nghiệp cho ngƣời lao động,
thay đổi tƣ duy của kinh tế thị trƣờng cho ngƣời sản xuất, sản xuất phải gắn với hiệu
quả và chất lƣợng kinh tế.
Thứ ba, quá trình hội nhập quốc tế đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo
ra sự tƣơng đồng ở các chuẩn mực về lối sống, về nhận thức, về trình độ văn hóa, về

mức sống…cũng chính từ đó nó đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia
phải có sự cố gắng phấn đấu và rèn luyện tốt hơn để tiến bằng và tiến kịp với các
nƣớc khác. Việt Nam muốn phát triển, muốn hội nhập với các quốc gia trên thế giới
đòi hỏi chúng ta không còn cách nào khác là phải tự mình không ngừng lỗ lực, phấn
đấu, học hỏi tự vƣơn lên.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế làm gia tăng quá trình trao đổi hàng hóa,
làm cho quá trình giao lƣu hợp tác giữa các quốc gia ngày càng mở rộng từ đó giúp
cho mỗi quốc gia có khả năng nhận thức và đánh giá đúng hơn những mặt mạnh, mặt
yếu, những giá trị đạo đức tiến bộ và hạn chế của mình để đƣa ra phƣơng hƣớng biện
pháp khắc phục và xây dựng cụ thể. Đối với chúng ta những chuẩn mực đạo đức tốt
đẹp nhƣ: yêu nƣớc, đoàn kết, hiếu học, cần cù, sáng tạo… cần tiếp tục đƣợc phát huy
phục vụ cho quá trình hội nhập mới của đất nƣớc ngƣợc lại một số tƣ tƣởng: kinh tế
tiểu nông, ích kỷ, tâm lý cào bằng, thói gia trƣởng, trọng nam kinh nữ…trong tƣ
tƣởng ngƣời Việt trƣớc đây cần hạn chế, thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới của
xã hội.

15


Thứ năm, quá trình hội nhập tạo điều kiện và động lực mạnh mẽ cho hoạt
động cải cách hƣớng tới xây dựng một xã hội mở, một xã hội dân chủ, một nhà
nƣớc pháp quyền hoàn thiện. Từ khi nƣớc ta tiến hành Đổi mới, tiến hành xây dựng
kinh tế thị trƣờng đến nay, đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân đƣợc nâng
lên rõ rệt; giáo dục phát triển cả về mặt quy mô, số lƣợng, chất lƣợng với trình độ
học vấn của nhân dân đƣợc nâng lên, con ngƣời ngày càng có điều kiện tiếp cận với
nhiều nguồn thông tin đa dạng tiên tiến để tiếp thu và học hỏi. Trong quá trình hội
nhập quốc tế, với chủ trƣơng dân chủ hoá đã làm cho quyền làm chủ của nhân dân
ngày một thể hiện rõ nét. Nhân dân đƣợc quyền thảo luận, xây dựng, đóng góp ý
kiến trong việc thực hiện chủ trƣơng, chính sách, dự thảo pháp luật của Đảng và
Nhà nƣớc từ đó cũng góp phần vào việc hoàn thiện mục tiêu chế định của chủ

trƣơng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta đang hƣớng tới hiện nay.
Tác động tiêu cực
Một là, quá trình hội nhập quốc tế làm gia tăng khoảng cách chênh lệch phân
hóa giàu nghèo giữa các quốc gia, giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cƣ trong
mỗi quốc gia ngày một sâu sắc hơn. Chính sự phân hóa và chênh lệch giàu nghèo đó
đã làm cho những giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc dần bị
biến mất và mai một nhƣ: lối sống tình nghĩa, tinh thần đoàn kết, sự quan tâm giúp
đỡ chia sẻ của cộng đồng…mà thay vào đó là lối sống vị kỷ, cực đoan, chủ nghĩa cá
nhân…điều này làm lực cản trở vô hình chung đối với con đƣờng hội nhập đòi hỏi
chúng ta cần phải có những biện pháp khắc phục.
Hai là, quá trình hội nhập quốc tế gắn liền đặc biệt với hoạt động mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế thế giới. Chính trong quá trình đó nó đã làm gia tăng các tệ
nạn xã hội, phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội, phá vỡ môi trƣờng phát triển tinh
thần, đạo đức truyền thống. Hội nhập quốc tế gắn với kinh tế thị trƣờng đặt lợi
nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nhiều khi ngƣời
sản xuất bất chấp tất cả vì lợi nhuận họ có thể sẵn sàng vứt bỏ đi lợi ích chung của
cộng nhƣ: buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng buôn lậu…; những giá trị tinh thần bị
xem nhẹ tạo mảnh đất màu mỡ cho các tệ nạn xã hội phát sinh nhƣ: karaoke, vũ
trƣờng, quán bar, internet công cộng…nếu không đƣợc quản lý chặt chẽ sẽ trở thành
16


nơi mua bán, ăn chơi sa đọa, trụy lạc; và nạn buôn bán chất heroin, thuốc lắc, gây
nghiện; nạn truyền bá các ấn phẩm đồi trụy, làm băng hoại lối sống, thuần phong,
mỹ tục tốt đẹp của dân tộc, làm ô nhiễm môi trƣờng văn hóa xã hội. Đặc biệt, quá
trình hội nhập gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thông tin
đã làm cho các loại trò chơi công nghệ thông tin ngày càng phong phú và đa dạng
bên cạnh những trò chơi công nghệ có tính giáo dục cao thì cũng đã xuất hiện nhiều
loại trò chơi có tính chất bạo lực điều đó làm cho không ít ngƣời trong đó tập trung
phần đông là bộ phận thanh thiếu niên nhầm tƣởng sống trong thế giới ảo với những

trò chơi mang tính bạo lực. Đó là nguyên nhân trực tiếp làm cho tệ nạn bạo hành
trong thanh thiếu niên có xu hƣớng ngày càng gia tăng.
Ba là, quá trình hội nhập quốc tế cũng làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc
và văn hóa đạo đức dân tộc bị xói mòn trƣớc sự “xâm lăng” của văn hóa nƣớc
ngoài. Trong điều kiện hiện nay với sự ảnh hƣởng của lối sống đạo đức nƣớc ngoài
đặc biệt của phƣơng Tây ngƣời ta có thể quên đi những khuôn khổ chuẩn mực đạo
đức đƣợc giáo dƣỡng từ bé, để đề cao chủ nghĩa cá nhân. Với những quan điểm
sống nhƣ vậy và sự mờ nhạt lý tƣởng là điều không thể tránh khỏi lối sống thực
dụng, ích kỷ, thiếu trách nhiệm ngày một gia tăng thay vào đó là sự xuất hiện các
hiện tƣợng, tệ nạn xã hội nhƣ: ma túy, mại dâm, trộm cắp, làm hàng giả…Điều đó
biểu hiện sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức xã hội, của sự xa rời đứt đoạn với
truyền thống và hiện đại gây khó khăn trong công tác xây dựng chuẩn mực đạo đức
dân tộc trong hội nhập nói chung.
1.1.2. Những yêu cầu và chuẩn mực đạo đức của con ngƣời Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
Những yêu cầu xây dựng chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
Thứ nhất, Xây dựng chuẩn mực đạo đức cần gắn với thời đại ngày nay tạo điều kiện
cho hội nhập quốc tế
Điều kiện lịch sử xã hội ở mỗi giai đoạn, mỗi thế hệ khác nhau lại quy định
những nội dung, những cách thức xây dựng chuẩn mực đạo đức xã hội khác
nhau.Việc xây dựng các giá trị đó ra sao, nhƣ thế nào đều xuất phát từ nhu cầu của
17


thời đại đó quy định. Thông qua các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức đã đƣợc
thừa nhận trƣớc đây mà xã hội đề ra những chuẩn mực về yêu cầu, về hành vi đạo
đức cho mỗi ngƣời mỗi thành viên trong xã hội là khác nhau. Thông thƣờng thì các
chuẩn mực về yêu cầu, về hành vi đạo đức đó bao giờ cũng xuất phát từ chính sự
phản ánh về điều kiện kinh tế- xã hội ở chính thực tế xã hội đó. Do vậy, mà việc xây

dựng các chuẩn mực đạo đức con ngƣời ở mỗi thời kỳ là một hiện tƣợng mang tính
khách quan và tất yếu. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải căn cứ vào những điều
kiện những đòi hỏi lối sống xã hội cụ thể đó để có sự lựa chọn, tiếp thu, xây dựng
những chuẩn mực giá trị đạo đức cho phù hợp. Chính vì thế, khi xác định xây dựng
chuẩn mực đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải lƣu ý đến tính
thời đại của nó. Nghĩa là chúng ta cần phải xem xét những nội dung nào đƣợc kế
thừa đƣợc tiếp thu, hay cần đƣợc biến đổi để có thể xây dựng chuẩn mực đạo đức xã
hội cho con ngƣời Việt Nam trong điều kiện mới nhằm tạo điều kiện cho quá trình
hội nhập quốc tế phát triển.
Đặc biệt, với điều kiện kinh- tế xã hội nhƣ ở nƣớc ta hiện nay, khi chúng ta
đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nƣớc, xây dựng kinh tế
thị trƣờng, mở rộng quan hệ giao lƣu hợp tác quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh…có thể thấy một hay một số nội dung
của chuẩn mực đạo đức truyền thống dân tộc cần phải có sự biến đổi và phát triển
cho phù hợp với tình hình mới. Điều đó có nghĩa những chuẩn mực đạo đức mà
chúng ta xây dựng hiện nay cần phải đƣợc gắn với nền hòa bình hữu nghị hợp tác
toàn diện với các dân tộc trên thế giới, gắn với nền sản xuất lớn, sản xuất đại công
nghiệp và đặc biệt cần phải có sự phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng hội nhập kinh
tế quốc tế. Bởi chỉ có đặt chúng vào điều kiện thực tế nhƣ vậy thì mới có thể phát
huy đƣợc hiệu quả vai trò của chuẩn mực đạo đức con ngƣời một cách tối đa. Nếu
nhƣ trƣớc đây, tinh thần yêu nƣớc đƣợc thể hiện chủ yếu là nhiệm vụ bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ là chủ yếu, thì hiện nay tinh thần yêu nƣớc thể hiện chủ yếu là xây
dựng đất nƣớc ngày càng giàu mạnh hơn.Tinh thần đoàn kết trƣớc đây chỉ bó hẹp
trong phạm vi làng, xã, dân tộc, quốc gia nhƣng trong thời đại ngày nay tinh thần
đoàn kết của ngƣời Việt Nam cần phải mở rộng phạm vi toàn thế giới. Lòng thƣơng
18


ngƣời của chúng ta không bó hẹp trên phạm vi đất nƣớc mà cần phải đƣợc mở rộng
trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt thời đại ngày nay thời đại của khoa học công nghệ

hiện đại đang phát triển hết sức mạnh mẽ thì tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm của
con ngƣời Việt Nam cần phải đƣợc bổ sung thêm khả năng sáng tạo, quyết đoán.
Thứ hai, Xây dựng chuẩn mực đạo đức cần gắn với kế thừa và nâng những giá trị
đạo đức của dân tộc lên tầm cao mới
Truyền thống đạo đức hay chuẩn mực đạo đức truyền thống là những cái đã
có từ trƣớc và những chuẩn mực đạo đức mới của ngày hôm nay là cái mới, cái hiện
đại của xã hội. Giữa truyền thống và hiện đại luôn có mối quan hệ ràng buộc chặt
chẽ, hữu cơ với nhau. Mối quan hệ này có tính chất hai mặt nếu truyền thống và
hiện đại thích ứng, hài hòa sẽ là động lực thúc đẩy nhau phát triển điều đó thể hiện
ở việc truyền thống là cơ sở, là tiền đề, là nền tảng hiện đại hóa của đạo đức mới.
Những yếu tố hợp lý, cái hay, cái tốt, cái tiến bộ của truyền thống sẽ giữ vai trò
quan trọng trong việc hình thành cái mới, cái hiện đại và cái mới, cái hiện đại sẽ là
động cơ thúc đẩy quá trình hiện đại hóa những giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền
thống. Nhƣng khi truyền thống và hiện đại có sự đối lập xung đột thì nó trở thành
lực cản trở của nhau, thể hiện ở chỗ có những yếu tố trong nội dung của truyền
thống không thích hợp với xã hội hiện nay, có những phẩm chất đạo đức, chuẩn
mực đạo đức vốn đƣợc coi trọng trong quá khứ nay không còn phù hợp với điều
kiện mới nếu cùng tồn tại nó sẽ trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của hiện đại.
Trong quá trình hội nhập quốc tế việc xây dựng chuẩn mực đạo đức con
ngƣời Việt Nam hiện nay thiết yếu cần có việc kế thừa các giá trị truyền thống trong
xây dựng các giá trị mới. Bởi giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống đƣợc xem là
xuất phát của chuẩn mực đạo đức mới hiện đại, giá trị đạo đức mới hiện đại là sự
tiếp nối của đạo đức truyền thống ở một trình độ cao hơn. Không có giá trị đạo đức
hiện đại nào mà hoàn toàn tách rời, thoát ly các giá trị đạo đức truyền thống. Đó
chính là sự phủ định biện chứng, phủ định mang tính kế thừa trong quá trình phát
triển của thế giới sự vật, hiện tƣợng mà chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra.
Đây đƣợc xem là một yêu cầu thiết yếu cho chủ trƣơng xây dựng một hệ
chuẩn các giá trị đạo đức mới cho con ngƣời Việt Nam mà Đảng và Nhà nƣớc đƣa
19



ra hiện nay. Do vậy, để xây dựng chuẩn mực đạo đức mới chúng ta cần phải tiến
hành thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ đó là: kế thừa những giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc đƣa chúng lên một tầm cao mới đồng thời có sự chọn lọc
tiếp thu những giá trị văn hóa tích cực của đạo đức, văn hóa các dân tộc trên thế
giới nhằm làm phong phú sâu sắc giá trị văn hóa đạo đức của dân tộc. Tuy nhiên, để
làm đƣợc điều đó đòi hỏi chúng ta phải có sự chắt lọc một cách chủ động và linh
hoạt những yếu tố phù hợp với truyền thống văn hóa và những đặc điểm tâm lý
ngƣời Việt Nam. Đồng thời, cũng cần có thái độ kiên quyết trong việc chống lại,
loại bỏ những yếu tố đạo đức truyền thống lỗi thời của dân tộc không còn phù hợp
với điều kiện mới nhƣ: trọng nam khinh nữ, bảo thủ, sống ích kỷ, bè phái.vv…Tuy
nhiên, để loại bỏ những thói hƣ tật xấu, những quan niệm lạc hậu ăn sâu bám rễ qua
nhiều thế hệ không phải là một công việc dễ dàng, nó đòi hỏi chúng ta phải có cách
thức, phƣơng pháp, hành động phù hợp và có thái độ kiên quyết chống lại những
biểu hiện của sự sùng ngoại, hạ thấp truyền thống dân tộc biến nền văn hóa trở
thành lai căng mất gốc.
Thứ ba, Đảm bảo hiện đại hóa các chuẩn mực đạo đức phù hợp với yêu cầu của hội
nhập quốc tế
Trong điều kiện mở cửa của hội nhập quốc tế và sự bùng nổ thông tin đòi hỏi
chúng ta phải biết kết hợp xây dựng và giữ gìn những giá trị chuẩn mực đạo đức
truyền thống với việc đa dạng hóa các chuẩn mực đạo đức mới cho phù hợp với giai
đoạn hiện nay của thời kỳ hội nhập. Nhƣ đã khẳng định: tinh thần yêu nƣớc, đoàn
kết, tự lực tự cƣờng, hiếu học... là những chuẩn giá trị cốt lõi trong hệ thống giá trị
đạo đức- tinh thần của dân tộc Việt Nam. Song cùng với sự biến đổi trong điều kiện
mới của lịch sử dân tộc thì: tinh thần yêu nƣớc, đoàn kết, tự lực tự cƣờng, hiếu học
cũng cần phải đƣợc bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với yêu
cầu của thời đại mới. Đặc biệt trong đó là việc hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức
con ngƣời Việt Nam hiện nay phải gắn liền với tiêu chí của tinh thần: hữu nghị, hòa
bình, hợp tác cùng phát triển giữa các dân tộc các quốc gia, phải gắn xây dựng hoàn
thiện các chuẩn mực đạo đức đó với nền sản xuất lớn sản xuất đại công nghiệp, nền

kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
20


×