Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIỂU LUẬN QUẢN lý NHÀ nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.67 KB, 14 trang )

Mở đầu
Quyền lực Nhà nớc ta là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và t pháp.
Quyền lập pháp chính là quyền ban hành, sửa đổi Hiến pháp và các đạo luật;
xây dựng các quy tắc pháp lý để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Quyền t pháp là
quyền bảo vệ pháp luật bằng hoạt động truy tố, xét xử và các hoạt động khác liên quan
trực tiếp đến hoạt động xét xử.
Quyền hành pháp là quyền chấp hành pháp luật và tổ chức đời sống xã hội theo
pháp luật. Quyền hành pháp đợc thực hiện thông qua thẩm quyền lập quy và thẩm
quyền hành chính, trong đó quyền lập quy chính là thẩm quyền ban hành các văn bản
pháp quy (văn bản dới Luật) mục đích là để cụ thể hóa các đạo luật và hớng dẫn thực
hiện luật, đảm bảo pháp luật vào đời sống, xã hội một cách thuận lợi.
Thẩm quyền hành chính là quyền tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế-xã
hội, đa pháp luật vào đời sống, mục đích giữ vững an ninh trật tự xã hội, phục vụ lợi ích
công và công dân, sử dụng một cách có hiệu quả nguồn tài chính công và cộng sản để
phát triển đất nớc một cách có hiệu quả nhất. Hoạt động thực hiện thẩm quyền trên chính
là hoạt động quản lý hành chính Nhà nớc. Hoạt động quản lý có vai trò rất quan trọng
đối với sự ổn định và phát triển của đất nớc, nó diễn ra thờng xuyên hàng ngày, ở mọi
nơi, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; hoạt động quản lý nhà nớc tiến hành tổ chức, điều
hành các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân, tổ chứcbằng việc thực
hiện các hành vi hành chính và quan trọng nhất là việc ban hành các quyết định quản lý
hành chính Nhà nớc.
Quyết định quản lý hành chính Nhà nớc của cơ quan hành chính là sản phẩm
chứa đựng yếu tố quyền lực, quyền uy, thể hiện ý chí của cơ quan ban hành. Quyết
định quản lý hành chính Nhà nớc cũng giống nh mọi quyết định pháp luật khác đều thể
hiện ý chí, tính quyền lực, tính pháp lý, quyết định do cơ quan Nhà nớc, ngời có thẩm
quyền nhân danh Nhà nớc, đại diện cho quyền lực Nhà nớc ban hành. Mọi cơ quan
Nhà nớc, mọi tổ chức, cá nhân thuộc đối tợng thi hành đều phải thực hiện quyết định
đó, nếu không tự giác sẽ bị cỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật. Việc ra
quyết định quản lý hành chính thể hiện ý chí quyền lực Nhà nớc của các cơ quan Nhà
nớc có thẩm quyền, ngời có thẩm quyền, quyết định đợc ban hành trên cơ sở và để thi


hành luật theo thủ tục do pháp luật quy định, nhằm định ra ra chủ trơng, chính sách,
nhiệm vụ lớn có tính định hớng trong quản lý Nhà nớc, hoặc đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ quy
phạm pháp luật hiện hành, làm thay đổi hiệu lực của chúng, hoặc làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể, để thực hiện các nhiệm vụ và
chức năng quản lý Nhà nớc. Theo tính chất pháp lý, quyết định quản lý hành chính Nhà
nớc đợc phân thành 3 loại : Quyết định chính sách; Quyết định quy phạm; Quyết định
hành chính cá biệt. Nguyên tắc quản lý Nhà nớc bằng pháp luật đòi hỏi mọi hoạt động
của các cơ quan hành chính Nhà nớc, trong đó có hoạt động ra quyết định quản lý hành
1


chính Nhà nớc phải ban hành trên cơ sở Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nớc
cấp trên, phải nhằm thực hiện Hiến pháp, pháp luật và phải hợp lý, nghĩa là phải phù
hợp với đờng lối chính trị, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân và thực tiễn, khả năng
quản lý Nhà nớc trong từng giai đoạn cụ thể. Các quyết định quản lý hành chính Nhà
nớc phải hợp pháp và hợp lý thì nó mới có khả năng thực thi, đợc xã hội chấp nhận có
nghĩa là các quyết định quản lý hành chính Nhà nớc. Một quyết định có hiệu lực và
khả năng thực thi cao khi nó đợc ban hành đúng thời điểm, trờng hợp không cần thiết
mà vẫn ban hành quyết định thì không những không mang lại hiệu quả mà thậm chí
còn gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần, vì vậy có thể nói hiệu lực của pháp luật Nhà
nớc và hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nớc phần nhiều tuỳ thuộc vào quyết định hành
chính của Nhà nớc, do đó quyết định hành chính phải hợp pháp, hợp lý sẽ có tác động
quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển theo chiều hớng tích cực.
Khi hoạt động quản lý Nhà nớc có hiệu lực, hiệu quả điều đó cũng có nghĩa là
khi cơ quan quản lý hành chính Nhà nớc ra đợc các quyết định hành chính đúng đắn,
khoa học và những quyết định này sẽ là cơ sở quan trọng để tiếp tục thực hiện các hành
vi hành chính một cách hiệu quả trong thực tiễn, góp phần to lớn vào sự ổn định, phát
triển của đất nớc. Ngợc lại khi hoạt động quản lý hành chính Nhà nớc cụ thể là việc ban
hành các quyết định hành chính, thực hiện các hành vi hành chính bị buông lỏng, kém
hiệu lực, hiệu quả thì nó sẽ gây ra nhiều sự bất ổn định trong đời sống xã hội nói chung

và gây ra những hậu quả khôn lờng cho kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nớc ta bớc vào thời kỳ đổi mới, cùng
với sự đổi mới chung của đất nớc nền hành chính của nớc ta cũng đang đợc tiến hành
cải cách tiến dần đến nền hành chính hiệu lực, hiệu quả để thích ứng với công cuộc đổi
mới của đất nớc và sự hội nhập quốc tế. Để tiến hành cải cách nền hành chính nhà nớc
thành công là cả một quá trình dài, phải giải quyết nhiều bất cập, khó khăn đang tồn
tại. Trong những bơc đi cụ thể không tránh khỏi có những tuỳ tiện, không chấp hành kỷ
cơng, quy tắc, quy chế làm việc của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nớc, những
việc làm đó đã gây cho nền hành chính Nhà nớc không vận hành thống nhất từ Trung ơng đến cơ sở. Nhiều quyết định về quản lý Nhà nớc trái với quy định của cấp trên,
không đảm bảo yêu cầu về tính hợp pháp, hợp lý đã làm giảm lòng tin của nhân dân
vào cơ quan hành chính Nhà nớc.
Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã
hội, hoạt động quản lý hành chính Nhà nớc một số nơi, một số thời điểm bị buông
lỏng, kém hiệu lực, hiệu quả. Hoạt động quản lý hành chính nhà nớc trong lĩnh vực đất
đai là một ví dụ điển hình.
Đất đai là một nguồn tài nguyên có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi
quốc gia cũng nh mỗi gia đình, con ngời, nhất là trong giai đoạn hiện nay giá trị của
nguồn tài nguyên có hạn này đợc càng đợc khẳng định qua các hoạt động của thị trờng
bất động sản nhà đất hiện nay. Giá trị của nguồn tài nguyên đất đai tăng cao kéo theo
nó là một hệ quả tất yếu các hành vi vi phạm, tội phạm xâm phạm các quy định về
2


quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên này cũng phát sinh nhiều hơn hàng năm, ở mọi địa
phơng, mọi lĩnh vực, tính chất mức độ, hậu quả của nó ngày càng nghiêm trọng hơn
đối với xã hội.
Điều 18 Hiến pháp năm 1992 quy định: Nhà nớc thống nhất quản lý toàn bộ
đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đung mục đích và có hiệu quả .
Luật đất đai năm 1993, luật Đất đai năm 2003 cùng với các Nghị quyết, Nghị định,
Thông t và các Quyết định của các cơ quan có thẩm quyền đã cụ thể hóa các hoạt động

quản lý hành chính nhà nớc về lĩnh vực đất đai. Thực tế cho thấy, trong những năm gần
đây Nhà nớc đã ban hành mới, sửa đổi bổ sung nhiều văn bản luật và các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về hoạt động quản lý nhà nớc trong lĩnh vực đất đai, đã đáp
ứng đợc một phần những đòi hỏi thực tế cuộc sống về lĩnh vực này. Tuy nhiên, một
phần là do luật, văn bản luật điều chỉnh lĩnh vực này còn thiếu, yếu cha đáp ứng đợc sự
đòi hỏi cấp thiết, tính phức tạp của lĩnh vực đất đai; một phần là do cán bộ, công chức
trong cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý lĩnh vực đất đai còn có những
hạn chế, thiếu sót nhất định về năng lực, trình độ và những tiêu cực khácnên thực
trạng công tác quản lý lĩnh vực đất đai từ Trung ơng, đến địa phơng vẫn còn xảy ra
những bất cập và nhiều tiêu cực, tham nhũng. Cùng với các khiếu nại, tranh chấp về
việc giải quyết các vấn đề về bồi thờng, hỗ trợ khi tiến hành giải phóng mặt bằng, thu
hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ, các tranh chấp về việc đấu thầu,
thuê quyền sử dụng đất, các tranh chấp về quyền sử dụng đất cha đợc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là khá phổ biến và không chỉ tập trung ở những thành phố, nó
phát sinh hầu hết trên khắp cả nớc.
Cùng với sự phát triển chung của cả nớc và cùng chịu sự tác động chung của
những biến động, những cơn sốt đất do sự tăng dân số, quá trình đô thị hóa ở các trung
tâm huyện, thị và quá trình tiến hành quy hoạch, xây dựng các khu, cụm công nghiệp,
tại xã Phúc Tuy, huyện Lc Sn, tỉnh Hòa Bình, các tranh chấp, khiếu kiện liên quan
đến đất đai cũng phát sinh từng ngày với những phức tạp khác nhau mà cơ quan quản
lý Nhà nớc của địa phơng đang phải thụ lý giải quyết.
Là học viên của lớp Bồi dỡng kiến thức quản lý Nhà nớc chơng trình chuyên
viên huyện Lạc Sơn, tôi chọn tình huống phải xử lý trong lĩnh vực quản lý đất đai để
xây dựng tiểu luận kết thúc khóa học với mục đích học hỏi, tích lũy kiến thức, kinh
nghiệm trong công tác quản lý Nhà nớc cho bản thân, hy vọng tình huống này sẽ là
nguồn tài liệu cho tham khảo để xem xét, giải quyết các tình huống tơng tự xảy ra
trong quá trình công tác.
Tình huống có nội dung: Giải quyết tranh chấp đất đai khi cha đợc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
I. Mô tả tình huống:

1. Hoàn cảnh ra đời tình huống:
3


Năm 19780 gia đình bà Bùi Thị Chiên (mẹ đẻ của ông Bùi Văn Hà) ở Xóm
Khoang, xã Phúc Tuy, huyện Lạc sơn, tỉnh Hòa Bình có nhu cầu về đất và đợc biết gia
đình ông Bùi Văn Thi ở cùng thôn có ý định chuyển nhợng một lô đất của gia đình ông
Thi ở khu vực rìa Xóm Khoang nên hai gia đình đã thỏa thuận và tiến hành chuyển nhợng lô đất trên cho nhau. Quá trình tiến hành chuyển nhợng lô đất, hai bên chỉ thông
qua hợp đồng miệng, không có văn bản giấy tờ, không có ngời làm chứng hay chính
quyền địa phơng xác nhận; hai bên cũng không tiến hành xác định diện tích và mốc
giới cụ thể trên thực tế. Đến năm 2005 thì vợ chồng ông Bùi Văn Thi có xác nhận bằng
văn bản về diện tích và ranh giới, mốc giới lô đất đã chuyển nhợng cho gia đình bà Bùi
Thị Chiên nh trên. Sau khi chuyển nhợng xong lô đất với gia đình ông Bùi Văn Thi, gia
đình bà Bùi Thị Chiên không sử dụng lô đất trên mà cho gia đình ông Bùi Văn Mạnh ở
nhờ và canh tác trên mảnh đất đó. Đến đầu năm 1985, bà bùI Thỵ Chiên không cho gia
đình ông Bùi Văn Mạnh ở nhờ nữa mà cho vợ chồng con trai là ông Bùi Văn Hà ra ở và
canh tác trên mảnh đất này. Khi cho vợ chồng ông Bùi Văn Hà ra mảnh đất trên, bà
Chiên không chỉ rõ cho vợ chồng ông Hà biết ranh giới, mốc giới của mảnh đất mà vợ
chồng ông Hà đợc quyền sử dụng.
Cũng vào năm 1980, gia đình ông Bùi Văn Viên có một mảnh đất liền kề với
mảnh đất của ông Bùi Văn Thi (sau đó đã chuyển nhợng cho gia đình bà Bùi Thị Chiên),
do không có nhu cầu nên ông Viên đã cho vợ chồng ông Bùi Văn Nga (ông Nga là em rể
của ông Viên). Quá trình cho nhận đất giữa ông Bùi Văn Viên và ông Bùi Văn Nga cũng
chỉ bằng miệng và không xác định cụ thể về diện tích cũng nh ranh giới, mốc giới cụ thể
trên thực địa.
Sau khi ra ở riêng trên mảnh đất đợc mẹ đẻ là bà Bùi Thị Chiên cho vợ chồng
ông Bùi Văn Hà sử dụng diện tích đất là 552 m 2, còn gia đình ông Bùi Văn Nga sử
dụng diện tích đất là 850 m 2 ở liền kề. Hai gia đình quan hệ bình thờng không phát
sinh tranh chấp.
Đến năm 2005, Nhà nớc mở một đờng giao thông qua khu đất gia đình ông Hà

và ông Nga đang sử dụng và tại khu ruộng liền kề UBND tỉnh Hòa Bình quyết định
quy hoạch thành cụm công nghiệp của tỉnh, giá trị đất khu vực gia đình ông Hà tăng
cao. Cũng trong thời điểm này, ông Bùi Văn Hà tìm hiểu và đợc biết gia đình ông có
một phần diện tích đất mà hiện gia đình ông Bùi Văn Nga đang chiếm giữ, sử dụng.
Sau đó, ông Bùi Văn Hà đã gặp gia đình ông Bùi Văn Nga, đề nghị gia đình ông Bùi
Văn Nga trả lại diện tích đất của gia đình ông mà gia đình ông Nga đang chiếm giữ sử
dụng. Gia đình ông Bùi Văn Nga không chấp nhận đề nghị của ông Bùi Văn Hà và cho
rằng đề nghị của ông Bùi Văn Hà là không có cơ sở vì gia đình ông đã sử dụng toàn bộ
mảnh đất ổn định hơn chục năm nay. Trên diện tích đất đang tranh chấp, gia đình ông
Bùi Văn Nga đã xây dựng một giếng nớc vào năm 1994, sử dụng làm đờng đi còn lại
thì trồng 11 cây vải thiều, có 09 cây trồng từ năm 2003. Từ đó phát sinh ra tranh chấp
quyền sử dụng diện tích đất 200 m 2 nằm giữa hai lô đất của gia đình ông Nga và gia
đình ông Hà.
4


2. Diễn biến câu chuyện tình huống:
Tháng 10/2005, gia đình ông Bùi Văn Hà có đơn đề nghị UBND xã Phúc Tuy
giải quyết trả lại diện tích đất ở của gia đình ông mà gia đình ông Bùi Văn Nga đang
chiếm giữ sử dụng. Sau khi nhận đợc đơn của gia đình ông Bùi Văn Hà, UBND xã
Phúc Tuy đã tiến hành lập tổ công tác do Phó Chủ tịch UBND xã làm tổ trởng, tiến
hành xác minh vụ việc, kiểm tra, đo đạc trên thực địa xác định nguồn gốc hai mảnh
đất, nguyên nhân phát sinh tranh chấp.
Qua kết quả đo đạc diện tích đất trên thực tế mà các hộ đang sử dụng, qua xác
minh nguồn gốc diện tích đất đang có tranh chấp, qua các hồ sơ, tài liệu l u giữ tại
UBND xã về quản lý đất đai có liên quan đến phần diện tích đất đang tranh chấp giữa
gia đình ông Bùi Văn Hà và gia đình ông Bùi Văn Nga, UBND xã Phúc Tuy nhận thấy:
Tại bản đồ xã Phúc Tuy đợc đo đạc lập vào năm 1985 xác định diện tích đất của
gia đình ông Bùi Văn Hà tại thôn Khoang ở thửa số 121, tờ số 20, diện tích đất là 703m 2
và nh vậy diện tích mảnh đất đang tranh chấp nằm trong diện tích 703 m 2 thuộc quyền sử

dụng của gia đình ông Bùi Văn Hà. Cũng theo bản đồ trên thì diện tích mảnh đất của gia
đình ông Bùi Văn Nga ở thửa số 120, tờ 20, diện tích đất là 659 m2 và không có phần diện
tích đang tranh chấp. Hiện gia đình ông Bùi Văn nga đang quản lý, sử dụng tổng diện tích
là 850 m2, trong đó có diện tích 158 m2 là đất đang tranh chấp.
Ngày 25/11/2005, trên cơ sở kết quả xác minh, tài liệu, hồ sơ thu thập đợc có liên
quan UBND xã Phúc Tuy đã ra thông báo số 26/TB-UB về việc giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất giữa gia đình ông Bùi Văn Hà và gia đình ông Bùi Văn Nga. Nội dung
thông báo nh sau: Gia đình ông Bùi Văn Nga đợc sử dụng diện tích đất mà gia đình ông
đã sử dụng đào giếng và làm đờng đi; gia đình ông Bùi Văn Hà đợc quyền sử dụng diện
tích đất còn lại và cây trồng trên đất nhng có trách nhiệm bồi thờng cho gia đình ông Bùi
Văn Nga giá trị những cây trồng trên diện tích đất còn lại là 1.874.000 đồng (một triệu
tám trăm bảy t nghìn đồng). Sau khi nhận đợc thông báo số 26/TB-UB về việc giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất giữa gia đình ông với gia đình ông Bùi Văn Nga, ông Bùi
Văn Hà đã không nhất trí với cách giải quyết của UBND xã Phúc Tuy và làm đơn khiếu
nại gửi đến UBND huyện Lạc Sơn đề nghị giải quyết.
Trên cở sở các tài liệu có trong hồ sơ do UBND xã Phúc Tuy chuyển đến cùng với
kết quả xác minh thực tế, Chủ tịch UBND huyện Lạc Sơn ra quyết định số 182/QĐ-CT
ngày 04/4/2006 về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi Văn Hà. Nội dung quyết
định: giữ nguyên hiện trạng đất của hai hộ đang sử dụng. Do không đồng ý với quyết định
giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện Lạc Sơn nên gia đình ông Bùi Văn Hà tiếp
tục gửi đơn khiếu nại đến UBND tỉnh Hòa Bình. UBND tỉnh Hòa Bình xét đơn khiếu nại
của ông Bùi Văn Hà, đã ủy quyền cho Chánh thanh tra tỉnh Hòa Bình giải quyết theo thẩm
quyền.
Qua xác minh thực tế, cùng với các tài liệu thu thập đợc ngày 06/11/2008, Chánh
Thanh tra tỉnh Hòa Bình ra quyết định số 50/QĐ-TTr, nội dung của quyết định tợng tự nh
quyết định số 182QĐ-CT ngày 04/4/2006 của Chủ tịch UBND huyện Lạc sơn, giữ nguyên
5


hiện trạng sử dụng đất của hai hộ, không chấp nhận việc đòi lại diện tích đất mà gia đình

ông Bùi Văn Hà đề nghị.
Sau khi có quyết định của Chánh Thanh tra tỉnh Hòa Bình về việc giải quyết
khiếu nại trong việc giải quyết tranh chấp đất giữa hộ ông Bùi Văn Hà và hộ ông Bùi
Văn Nga, UBND xã Phúc Tuy và UBND huyện Lạc Sơn đã làm các thủ tục và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Bùi Văn Nga. Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của hộ ông Bùi Văn Nga có cả phần diện tích đất 158 m 2 mà hai hộ đang
tranh chấp.
Do không chấp nhận nội dung việc giải quyết khiếu nại của Chánh Thanh tra
tỉnh Hòa Bình thể hiện tại quyết định số 50/QĐ-TTr, gia đình ông Bùi Văn Hà tiếp tục
có đơn khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
II. Phân tích, xử lý tình huống:
1. Mục tiêu đặt ra khi giải quyết câu chuyện tình huống:
Mục tiêu của việc xử lý tình huống là giải quyết dứt điểm việc khiếu nại của hộ
gia đình ông Bùi Văn Hà, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông Bùi
Văn Hà cũng nh quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông Bùi Văn Nga, tránh để
phát sinh những mẫu thuẫn mới ảnh hởng đến an ninh trật tự của địa phơng. Đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật, hiệu lực hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nớc, tạo
niềm tin của ngời dân vào cơ quan quản lý Nhà nớc ở địa phơng.
Cụ thể nh sau:
- Thẩm quyền giải quyết vụ việc thuộc UBND tỉnh Hòa Bình; nội dung giải
quyết việc khiếu nại của gia đình ông Bùi Văn Hà đảm bảo:
+ Tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt
động quản lý Nhà nớc nói chung, quản lý nhà nớc về đất đai nói riêng. Phải có biện
pháp giải quyết dứt điểm, toàn diện đảm bảo tính hợp pháp, tính hợp lý, sao cho quyết
định thực sự đi vào cuộc sống.
+ Đảm bảo quyền sử dụng đất hợp pháp của gia đình ông Bùi Văn Hà, đảm bảo
đợc những quyền lợi, công sức hợp pháp, thực tế mà gia đình ông Bùi Văn Nga đối với
mảnh đất mà hai gia đình đang tranh chấp.
+ Việc giải quyết khiếu nại của gia đình ông Bùi Văn Hà phải đợc tiến hành
nhanh chóng, dứt điểm, nhng phải đảm bảo đúng những quy định của pháp luật, tránh

gây phiền hà kéo dài nhằm củng cố, giữ vững lòng tin của chính quyền địa phơng đối
với nhân dân trong hoạt động quản lý đất đai, củng cố, giữ gìn tình đoàn kết của nhân
dân tại địa phơng.
- Đối với UBND huyện Lạc Sơn phải nghiêm túc kiểm điểm trong việc để vụ
việc khiếu kiện kéo dài (từ năm 2005 đến năm 2011); việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho hộ ông Bùi Văn Nga trong khi vụ việc không đợc đơng sự đồng tình
và đang tiếp tục có khiếu nại.
6


+ Qua việc giải quyết vụ việc khiếu nại nâng cao kiến thức, kinh nghiệm trong việc
giải quyết khiếu nại về lĩnh vực đất đai nói riêng và hoạt động quản lý Nhà nớc nói chung.
2. Cơ sở lý luận để xử lý:
Qua xem xét tình huống trên chúng ta thấy vụ khiếu nại có liên quan đến vấn
đề quản lý Nhà nớc trong lĩnh vực quản lý đất đai, về quyền sử dụng đất, việc giải
quyết khiếu nại về tranh chấp đất đai, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ dân và việc ban hành các quyết định hành chính trong hoạt động quản lý Nhà nớc
về lĩnh vực đất đai.
Nh ta đã biết đất đai là nguồn tài nguyên vô giá nhng không phải là vô hạn. Đất
đai là nguồn t liệu sản xuất chính, quan trọng, không thể thay thế đối với nhiều ngành
sản xuất; đất đai là thành phần quan trọng của môi trờng sống và không thể thiếu đối
với con ngời nên việc quản lý khai thác và bảo vệ đất đai có vai trò vô cùng quan
trọng.
Khởi đầu của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta đã giơng cao khẩu hiệu
dân cày có ruộng, sau khi cách mạng thành công, Nhà nớc ta đã sớm ban hành các
sắc lệnh, các văn bản luật về việc quản lý đất đai, tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ
chiếm hữu đất đai của địa chủ, phong kiến. Xây dựng nên những quy định pháp luật
mới về việc quản lý và sử dụng đất đai.
Tại điều 19 Hiến pháp năm 1980 cũng nh điều 17 Hiến pháp 1992 đều quy
định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nớc thống nhất quản lý, đó chính là cơ sở

pháp lý cao nhất, xác định Nhà nớc ta chính là chủ sở hữu duy nhất và tuyệt đối toàn
bộ vốn đất quốc gia. Quyền sở hữu đất đai thuộc Nhà nớc điều đó có nghĩa là đất đai
không còn thuộc quyền sở hữu của một tổ chức hay một cá nhân công dân nào. Các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân công dân chỉ là chủ thể của quyền sử dụng đất đai. Song
song với quyền của Nhà nớc đối với đất đai, Nhà nớc đồng thời cũng có nghĩa vụ quan
trọng khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai. Điều 13 Luật Đất đai 1993, cũng nh
điều 5, 6 và điều 7 luật Đất đai năm 2003 đều quy định một loạt nội dung trong quản lý
đất đai của Nhà nớc và cũng là nghĩa vụ mà Nhà nớc phải thực hiện, cụ thể là Nhà nớc
thực hiện việc kiểm tra giám sát quá trình quản lý và sử dụng đất, bảo hộ quyền lợi
chính đáng của ngời sử dụng đất, giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn trong quan hệ đất
đai.
Nhà nớc giao đất cho ngời sử dụng đất, ngời sử dụng đất là ngời trực tiếp thực
hiện ý đồ của Nhà nớc, nhằm khai thác thuộc tính có ích của đất phục vụ cho việc phát
triển kinh tế, xã hội, Nhà nớc có chính sách bảo đảm cho các hộ sử dụng đất có đất để
sản xuất, bảo đảm việc thực hiện các quyền đối với đất đợc giao, đồng thời Nhà nớc
cũng quy định các nghĩa vụ của những ngời sử dụng đất mà Nhà nớc giao cho. Tại điều
105, 106 và 107 của luật Đất đai năm 2003 quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của
ngời sử dụng đất nh: đợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hởng thành quả lao
động, kết quả đầu t trên đất; đợc Nhà nớc bảo hộ khi bị ngời khác xâm phạm đến
7


quyền sử dụng đất hợp pháp của mình; quyền chuyển đổi, chuyển nhợng, bồi thờng khi
Nhà nớc thu hồi đất; sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đấtTheo quy
định tại các điều 135, 136, 138 và139 của luật Đất đai năm 2003, quy định cụ thể thẩm
quyền, trình tự giải quyết các tranh chấp, khiếu nại và tố cáo về đất đai và còn đ ợc cụ
thể hóa thông qua các Nghị định, thông t của các cơ quan chuyên môn khác.
Hoạt động quản lý đất đai của mỗi cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền làm phát
sinh các quan hệ giữa các cơ quan Nhà nớc với nhau và giữa các cơ quan Nhà nớc với
ngời sử dụng đất. Nhà nớc ban hành pháp luật để hớng dẫn các quan hệ đó đợc phát

triển thống nhất và phù hợp với yêu cầu, lợi ích của Nhà nớc và của nhân dân. Vì vậy
chế độ quản lý Nhà nớc đối với đất đai là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý Nhà nớc đối với đất đai. Những
quy định này đợc ghi nhận trong Hiến pháp 1992, trong Luật Đất đai 1993, luật Đất đai
năm 2003 và những văn bản pháp luật về quản lý đất đai nh các Thông t, Nghị định về
thống kê, kiểm kê đất đai, xây dựng bản đồ hiện trạng; lập, điều chỉnh và thẩm định
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định về thẩm quyền giao đất, quy định về
chuyển quyền sử dụng đất; xác định giá đất, khung giá các loại đất; xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai; giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến
lĩnh vực đất đai.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về lĩnh vực đất đai, trong quá trình tiến
hành hoạt động quản lý Nhà nớc, các cơ quan quản lý ban hành các quyết định hành
chính để thực hiện việc quản lý Nhà nớc. Trong quá trình tiến hành hoạt động quản lý
Nhà nớc thì việc ban hành các quyết định hành chính để điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong hoạt động là phổ biến. Quyết định hành chính trong quản lý Nhà nớc có vai
trò rất quan trọng đối với hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nớc. Để quyết
định hành chính trong quản lý Nhà nớc phát huy đợc vai trò, giá trị quan trọng của nó
và là cơ sở cho việc thực hiện các hành vi hành chính có hiệu quả thì quyết định đó
phải đảm bảo yêu cầu về tính hợp pháp và hợp lý, chỉ khi đảm bảo các tính chất đó thì
quyết định đa ra mới có tính khả thi, đợc xã hôị đồng tình và chấp hành nghiêm chỉnh.
Quyết định quản lý hành chính Nhà nớc trớc hết phải phù hợp với nội dung và mục
đích của Hiến pháp, luật, không đợc trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan
Nhà nớc cấp trên. Nghĩa là các quyết định hành chính Nhà nớc không đợc vi phạm
luật. Quyết định quản lý hành chính Nhà nớc ban hành đúng thẩm quyền. Quyết định
quản lý hành chính Nhà nớc phải đợc ban hành từ lý do xác thực. Quyết định quản lý
hành chính phải đợc ban hành đúng thể thức.
Mặt khác quyết định quản lý hành chính Nhà nớc phải bảo đảm hài hoà lợi ích
của Nhà nớc, tập thể và lợi ích cá nhân, phải cân đối hợp lý lợi ích Nhà nớc và xã hội,
coi lợi ích chung của công dân làm tiêu chí để đánh giá tính hợp lý của quyết định.
Quyết định ban hành phải có tính cụ thể, phù hợp với từng vấn đề, với các đối tợng

thực hiện, do vậy phải phân biệt đợc nhu cầu, đặc điểm của đối tợng mà ra quyết định

8


cho phù hợp, trong việc bảo đảm tính cụ thể và phù hợp cũng cần chú ý tới tính cần
thiết và nh thế thì quyết định mới có tính khả thi.
3. Phân tích tình huống:
Cơ sở pháp lý về quyền sử dụng diện tích mảnh đất 703 m 2 của hộ gia đình ông
Bùi Văn Hà: Xét về hợp đồng chuyển nhợng mảnh đất 703 m2 giữa bà Bùi Thị Chiên
với hộ ông Bùi Văn Thi thấy hợp đồng đợc xây dựng trên cở sở hoàn toàn tự nguyện,
đến năm 2005, gia đình ông Thi vẫn thừa nhận sự thỏa thuận chuyển nhợng trên. Mảnh
đất của gia đình ông Thi không thuộc diện tích đất cấm chuyển nhợng. Việc chuyển
nhợng đợc tiến hành không phạm vào những quy định cấm tại thời điểm giao kết hợp
đồng. Do đó hợp đồng chuyển nhợng giữa hộ Bùi Thị Chiên với hộ ông Bùi Văn Thi đợc pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Sau khi chuyển nhợng bà Bùi Thị Chiên đã cho vợ
chồng ông Bùi Văn Hà (là con trai bà Chiên) sử dụng mảnh đất này, việc sử dụng mảnh
đất của vợ chồng ông Hà là hoàn toàn hợp pháp. Xét về diện tích mảnh đất, nguyên
nhân làm phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp thấy: Tại thời điểm năm 1980, bà Chiên
nhận chuyển nhợng lô đất từ gia đình ông Bùi Văn Thi, giữa hai gia đình chỉ thỏa thuận
miệng, không xác định ranh giới, mốc giới và diện tích đất trên thực tế. Cũng tợng tự là
việc gia đình ông Bùi Văn Viên cho vợ chồng ông Bùi Văn Nga (là em rể của ông
Viên) mảnh đất liền kề nhng cũng không không xác định ranh giới, mốc giới và diện
tích đất trên thực tế. Cơ sở pháp lý về diện tích, ranh giới, mốc giới hiện tại còn l u giữ
là bản đồ do Uỷ ban nhân dân xã Phúc Tuy lập năm 1985 trên cơ sở thực tế sử dụng đất
của các hộ tại địa phơng. Tại thửa số 121, tờ số 20 của bản đồ trên thì diện tích đất gia
đình ông Bùi Văn Hà đợc quyền sử dụng là 703m2, hàng năm gia đình ông Hà vẫn
đóng thuế sử dụng đất với diện tích nói trên. Đến năm 2005, sau khi phát sinh tranh
chấp đất giữa hai hộ thì gia đình ông Bùi Văn Thi vẫn xác nhận diện tích, ranh giới và
mốc giới mảnh đất đã chuyển nhợng cho bà Chiên là diện tích đất đợc thể hiện trong
bản đồ địa chính do Uỷ ban nhân xã Phúc Tuy đã lập vào năm 1985. Tính xác thực của

nguồn gốc diện tích mảnh đất nh trên còn đợc Đảng ủy, UBND xã, các ngành, đoàn thể
và nhân dân ở trong xóm Khoang, xã Phúc Tuy khẳng định. Mặc dù mảnh đất của gia
đình ông Bùi Văn Hà cha có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhng việc sử dụng
mảnh đất này của gia đình ông là hoàn toàn có cơ sở hợp pháp nên quyền sử dụng
mảnh đất này phải thuộc gia đình ông Hà.
Xét căn cứ về quyền sử dụng mảnh đất 158 m 2 của gia đình ông Bùi Văn Nga
thấy: Vào năm 1980, khi ông Bùi Văn Viên cho vợ chồng ông Bùi Văn Nga mảnh đất
tại xóm Khoang nói trên, giữa hai gia đình chỉ thông qua hợp đồng miệng, không có
văn bản cụ thể. Quá trình nhận mảnh đất trên không xác định ranh giới, mốc giới và đo
đạc lại diện tích đất. Đến năm 1985, khi UBND xã Phúc Tuy tiến hành đo đạc lại đất ở
của các hộ trong địa bàn xã để lập bản đồ quản lý đất ở trong xã đã xác định tại thửa số
120, tờ số 20 thì diện tích đất thuộc quyền sử dụng của hộ ông Bùi Văn Nga có diện
tích là 659m2. Sau khi lập bản đồ về đất đai trên, hộ ông Bùi Văn Nga không có khiếu
nại gì về diện tích xác định trong bản đồ. Nay diện tích đất của gia đình ông Bùi Văn
Nga đang sử dụng là 850 m2, nh vậy việc gia đình ông Nga sử dụng phần diện tích 158
9


m2 là không có sơ sở pháp lý, thực chất là gia đình ông đã lẫn chiếm diện tích đất này
của gia đình ông Bùi Văn Hà ở liền kề vì diện tích đất mà hộ ông Hà đang sử dụng bị
thiếu hụt 158m2 so với diện tích trong bản đồ do UBND xã Phúc Tuy lập năm 1985.
Chính quyền địa phơng, các đoàn thể, ban ngành trong xã và nhân dân trong xóm cũng
đều xác định nguồn gốc diện tích 158 m2 đang tranh chấp giữa hai hộ có nguồn gốc từ
gia đình ông Bùi Văn Thi chuyển nhợng cho gia đình bà Bùi Thị Chiên. Do đó gia đình
ông Bùi Văn Nga phải có trách nhiệm trả lại phần diện tích đã lấn chiếm cho gia đình
ông Bùi Văn Hà là hoàn toàn có sơ sở.
Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện Lạc sơn đã cấp
cho hộ ông Bùi Văn Nga, UBND huyện Lạc Sơn có trách nhiệm thu hồi lại và xem xét
kiểm điểm, trách nhiệm của những ngời tham mu, cấp giấy chứng nhận trên. Trên cơ sở
diện tích đất đã đợc giải quyết UBND huyện Lạc Sơn làm các thủ tục để cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất mới cho hai hộ.
Xét về diện tích đất mà hộ ông Bùi Văn Nga phải trả lại cho hộ ông Bùi Văn
Hà thấy trong thời gian sử dụng hộ ông Nga đã bỏ công sức tân tạo làm tăng giá trị của
đất, đã trồng một số cây ăn quả có giá trị nhất định nên khi giao lại cho hộ ông Bùi
Văn Hà thì hộ ông Hà phải có trách nhiệm thanh toán phần giá trị cây ăn quả và công
sức tân tạo làm tăng giá trị của diện tích đó cho hộ ông Bùi Văn Nga. Nếu hai hộ trên
không tự thỏa thuận đợc mức bồi thờng thì UBND xã Phúc Tuy có trách nhiệm lập hội
đồng xác định giá trị tài sản và công sức để làm cơ sở cho việc quyết định đền bù. Nếu
hộ ông Bùi Văn Nga không chấp thuận giá trị đền bù có quyền khởi kiện vụ án dân sự
tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn về việc bồi thờng về tài sản trên đất theo quy định
của pháp luật.
Từ những phân tích trên cũng cho thấy việc giải quyết tranh chấp trên của
UBND xã Phúc Tuy là có cơ sở pháp lý và tơng đối thỏa đáng nhng việc UBND xã ra
thông báo về việc giải quyết tranh chấp trên là không đúng về thể thức văn bản hành
chính mà luật ban hành văn bản, luật giải quyết khiếu nại, tố cáo và các văn bản pháp
luật khác quy định. UBND xã Phúc Tuy cần rút kinh nghiệm trong việc ban hành quyết
định giải quyết khiếu nại.
Xét về các quyết định số 182/QĐ-CT ngày 04/4/2006 của Chủ tịch UBND huyện
Lạc Sơn, quyết định số 50/QĐ-TTr ngày 06/11/2003 của Chánh Thanh tra tỉnh Hòa Bình
thấy đều không đảm bảo về tính hợp pháp cũng nh tính hợp lý. Nh phân tích ở trên cho
thấy nguồn gốc diện tích đất tranh chấp có các tài liệu do chính quyền địa phơng lập để
theo dõi quản lý về đất đai có giá trị pháp lý cao; mặt khác qua các tài liệu xác minh từ
Đảng ủy, chính quyền địa phơng đến xóm và nhân dân trong xóm cũng nh xác minh qua
các đơng sự liên quan đến việc chuyển nhợng trớc đó đều đi đến sự thống nhất chung là
nguồn gốc diện tích đất tranh chấp có từ gia đinh ông Thi chuyển cho gia đình bà Chiên
và sau đó là do ông Hà sử dụng. Gia đình ông Hà đã, đang sử dụng diện tích đất đó đúng
mục đích và làm nghĩa vụ với Nhà nớc đầy đủ. Nhng tại các quyết định nêu trên đều
không thừa nhận điều đó vẫn quyết định cho hộ ông Nga đợc sử dụng diện tích đất trên.
10



Các quyết định trên đã đi ngợc lại mong muốn không chỉ của gia đình ông Hà mà là cả
Đảng ủy, UBND cũng nh các ban ngành và phần lớn nhân dân trong xóm Khoang, xã
Phúc Tuy. Quyết định đã không đợc sự đồng tình, ủng hộ của d luận, gây ra những phản
ứng không tốt, mất niềm tin của một số bộ phận nhân dân đối với cơ quan quản lý Nhà
nớc ở cấp huyện cũng nh cấp tỉnh.
4. Các phơng án, biện pháp xử lý tình huống:
Qua nội dụng vụ việc, qua những phân tích cụ thể trên với kiến thức về quản lý
Nhà nớc vừa đợc bồi dỡng tôi xây dựng các phơng án giải quyết vụ việc nh sau:
Phơng án 1: Trên cơ sở các tài liệu liên quan đến tranh chấp đất của hai hộ
cùng với những quy định của pháp luật về đất đai có liên quan, tiến hành phân tích, hòa
giải giữa hai hộ để đi đến một thỏa thuận hợp lý và hợp pháp nhất, trên cơ sở đó ban
hành quyết định hành chính.
+ Ưu điểm: Đảm bảo quyền lợi ích của các bên đơng sự; bảo đảm sự đoàn kết
giữa các hộ, tránh đợc những mẫu thuẫn có thể phát sinh trong cuộc sống giữa hai hộ
liền kề.
+ Khó khăn: Quá trình tranh chấp đã kéo dài hơn sáu năm và cũng đã qua
nhiều cấp giải quyết nhng vẫn không đảm bảo đợc quyền lợi chính đáng của công dân,
mâu thuẫn giữa hai hộ đã rất sâu sắc nên việc thuyết phục, hòa giải là không có tính
khả thi.
Phơng án 2: Hớng dẫn đơng sự khởi kiện vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử
dụng đất tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn.
+ Ưu điểm: Vụ việc đợc tiến hành giải quyết bởi cơ quan chuyên môn, theo quy
định của luật dân sự; giải quyết một cách dứt điểm và đợc đảm bảo thi hành trên thực tế
bằng cơ quan thi hành án nên có tính khả thi cao.
+ Khó khăn: Theo quy định tại điều 135, 136 của luật Đất đai cũng nh hớng
dẫn tại Thông t liên tịch số 01/TTLT- TATC-TCĐC ngày 03/01/2003 của ngành Tòa án,
Tổng cục địa chính thì tranh chấp đất cha có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc là trái thẩm
quyền, kết quả giải quyết sẽ bị hủy bỏ.

Phơng án 3: Trên cơ sở các tài liệu, hồ sơ vụ việc đã đợc các cấp trớc đó lập
một cách đầy đủ, Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình ra quyết định về việc giải quyết tranh
chấp với nội dung chính nh sau:
+ Hộ gia đình ông Bùi Văn Hà đợc quyền sử dụng mảnh đất có diện tích 730m2
tại xóm Khoang, xã Phúc Tuy, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình, có ranh giới, mốc giới theo
đúng xác định tại thửa số 120, tờ số 20 bản đồ địa chính do UBND xã Phúc Tuy lập
năm 1985.
+ Hộ gia đình ông Bùi Văn Nga đợc quyền sử dụng diện tích đất 659m 2 tại
xóm Khoang, xã Phúc Tuy, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình, có ranh giới, mốc giới theo đúng
11


xác định tại thửa số 121, tờ số 20 bản đồ địa chính do UBND xã Phúc Tuy lập năm
1985.
+ Hộ gia đình ông Bùi Văn Hà có trách nhiệm bồi thờng công sức tân tạo làm
tăng giá trị cùng giá trị cây trồng trên diện tích đất đất mà hộ ông Bùi Văn Nga hoàn
trả.
+ Chủ tịch UBND huyện Lạc Sơn có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Bùi Văn Nga; xác định giá trị công sức tân tạo và
cây trồng trên diện tích đất hộ ông Bùi Văn Hà nhận từ hộ ông Bùi Văn Nga để làm cơ
sở cho việc bồi thờng nếu hai hộ không thỏa thuận đợc giá trị bồi thờng.
+ Làm các thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai hộ.
+ Quyết định này thay thế các quyết định số 50/QĐ-TTr ngày 06/ 11/ 2003 của
Chánh Thanh tra tỉnh Hòa Bình.
+ Các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm thi hành quyết định.
+ Các hộ ông Bùi Văn Hà và hộ ông Bùi Văn Nga có quyền khởi kiện vụ kiện
hành chính tại Tòa án nhân dân nếu hộ ông Bùi Văn Hà và hộ ông Bùi Văn Nga không
đồng ý với quyết định của UBND tỉnh.
+ Ưu điểm: Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực của hoạt động
quản lý Nhà nớc ở địa phơng; giải quyết dứt điểm, triệt để vấn đề khiếu nại của công dân

cũng nh vấn đề khác có liên quan; đợc chính quyền cơ sở, nhân dân địa phơng đồng tình
ủng hộ, giữ đợc sự ổn định tại địa phơng.
+ Khó khăn: Bị thu hồi đất trả lại cho ngời khác nên hộ ông Bùi Văn Nga có
thể không chấp hành quyết định và tiếp tục khiếu nại, khởi kiện đề nghị giải quyết.
Trong 3 phơng án trên, tôi thấy phơng án 3 là phơng án có tính khả thi nhất,
đảm bảo trọn vẹn các yêu cầu của hoạt động quản lý Nhà nớc, đảm bảo quyền và lợi
ích chính đáng của công dân.
5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phơng án đã chọn:
- UBND tỉnh ban hành quyết định về việc giải quyết vụ việc.
- Nếu các hộ không khởi kiện vụ án hành chính, không tự nguyện thi hành
trong thời gian nhất định thì lập kế hoạch, tổ chức cỡng chế thi hành quyết định theo
quy định về trình tự, thủ tục hành chính. Nếu phải cỡng chế phải lập kế hoạch và tổ
chức thực hiện một cách chặt chẽ, cụ thể là: trớc khi tiến hành cỡng chế phải làm đầy
đủ các thủ tục pháp lý cần thiết (căn cứ để quyết định cỡng chế; thành lập đoàn cỡng
chế), đề ra các phơng án, khả năng có thể phát sinh để có sự chuẩn bị thích hợp, chủ
động (về tài chính, thời gian, con ngời, trang thiết bị phơng tiện chuyên môn, hỗ trợ...).
III. Kết luận, Kiến nghị:
Các vấn đề liên quan đến đất đai đã, đang và sẽ luôn là một trong những vấn đề
nhạy cảm và phức tạp của đời sống xã hội nói chung. Đất đai đối với ngời dân ở nông thôn
12


lại có những quan hệ gắn bó máu thịt riêng, có nhiều nét riêng biệt nên việc giải quyết các
tranh chấp về đất đai ở nông thôn cần phải nắm bắt đợc những yêu cầu nhất định. Khi phát
sinh các tranh chấp về đất đai các cơ quan quản lý Nhà nớc ở địa phơng phải có trách
nhiệm, nghĩa vụ giải quyết một cách dứt điểm trên cơ sở pháp luật sao cho mọi quyền lợi
chính đáng, hợp pháp của mọi công dân về đất đai đợc tôn trọng, đảm bảo, tránh phát sinh
những điểm nóng nh đã từng xẩy ra tại Tây Nguyên và một số tỉnh miền Nam trong thời
gian qua, gây ảnh hởng đến trật tự xã hội, an ninh quốc gia và phát triển của đất nớc. Khi
giải quyết các vấn đề về đất đai đòi hỏi những cơ quan và ngời có trách nhiệm phải thực sự

công tâm, phải nắm vững và áp dụng một cách chính xác, khoa học các quy định của pháp
luật về đất đai; quá trình điều tra, xác minh, thu thập tài liệu, tìm hiểu vụ việc tranh chấp
một cách đầy đủ, toàn diện.
Bằng những kiến thức về quản lý Nhà nớc qua chơng trình bồi dỡng chuyên
viên, những kiến thức, kinh nghiệm của bản thân và qua xem xét, nghiên cứu tình
huống giải quyết việc tranh chấp quyền sử dụng đất của hai hộ gia đình trên, tôi thấy
để tránh phát sinh và giải quyết những tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực đất đai cần:
Trớc hết phải khẩn trơng xây dựng một nền hành chính thực sự dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả tuân
theo nguyên tắc Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dới sự lãnh đạo của Đảng; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong hoạt động quản lý Nhà nớc phải có phẩm chất
đạo đức, có trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển
chung của đất nớc, quá trình hội nhập quốc tế. Kiện toàn bộ máy và đẩy mạnh cải cách
hành chính trong quản lý đất đai, nâng cao năng lực công tác và trách nhiệm của các cơ
quan quản lý Nhà nớc về đất đai, thờng xuyên tham mu đề xuất kịp thời các giải pháp
với các cấp chính quyền để từng bớc giải quyết dứt điểm những tồn tại, vớng mắc trong
quản lý đất đai.
Rà soát, ban hành mới và sửa đổi các văn bản luật, các quy định pháp luật khác
về lĩnh vực đất đai để xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai thống
nhất, bảo đảm mọi quan hệ trong lĩnh vực đất đai phát sinh trong đời sống xã hội đều
đợc pháp luật điều chỉnh một cách đúng đắn, khoa học và triệt để, đảm bảo lợi ích của
Nhà nớc, của tập thể và công dân, đặc biệt là những căn cứ pháp lý cho việc áp dụng
giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất cha đợc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, một vấn đề phức tạp trong việc giải quyết tranh chấp đất hiện nay. Tạo ra một
hệ thống pháp luật vững chắc là cơ sở pháp lý thống nhất cho cơ quan quản lý Nhà nớc
áp dụng để thực hiện công tác quản lý Nhà nớc về lĩnh vực đất đai trong đời sống xã
hội một cách có hiệu quả.
Cần sớm hoàn thiện công tác quy hoạch tổng thể về đất đai, kế hoạch sử dụng
đất, đặc biệt là khắc phục tình trạng quy hoạch treo, rà soát quỹ đất hiện có; có biện
pháp để đẩy nhanh tiến độ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ thể

sử dụng đất.
13


Tăng cờng công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, ý thức pháp
luật về lĩnh vực đất đai một cách thờng xuyên đối với cán bộ, công chức làm công tác
quản lý Nhà nớc về lĩnh vực đất đai và phổ biến rộng rãi đến nhân dân khắp các vùng
miền trên cả nớc.
Tăng cờng công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về đất đai.
Quá trình giải quyết các quan hệ tranh chấp đất đai phải tuân thủ triệt để các quy định
của pháp luật về lĩnh vực đất đai, và những quy định pháp luật khác có liên quan; bảo
đảm nguyên tắc xuyên suốt là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nớc thống nhất
quản lý. Những vi phạm, tội phạm liên quan đến lĩnh vực đất đai phải đ ợc phát hiện,
điều tra và xử lý một cách nghiêm minh, nhất là đối với cán bộ, công chức lợi dụng
chức vụ để tham nhũng, trục lợi gây thiệt hại cho Nhà nớc, qua đó góp phần lập lại trật
tự, kỷ cơng trong lĩnh vực quản lý đất đai vốn đang bị buông lỏng ở một số địa phơng.
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp về đất đai cần quán triệt quan điểm
lấy dân làm gốc, dựa vào dân, bàn bạc dân chủ, phát huy tinh thần đoàn kết tơng trợ
trong nội bộ nhân dân; đề cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể trong công tác hòa giải,
giải quyết tranh chấp về đất đai.

XáC NHậN CủA CƠ QUAN, ĐƠN Vị

Ngày 20 tháng 9 năm 2014
Ngời viết tiểu luận

Bùi Văn Dim

14




×