Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

BÀI BÁO CÁO HỆ SINH THÁI ĐẤT NGẬP NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.41 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG

------------

HỆ SINH THÁI ĐẤT NGẬP NƯỚC
Chủ đề 18: Tìm hiểu về sông Mã

Giáo viên hướng dẫn:
Lê Tấn Lợi

Sinh viên thực hiện:
Trần Thị Ngọc Diệu

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................3
1.Giới thiệu chung về sông Mã.....................................................................................................4
1.1. Lịch sử hình thành sông Mã...............................................................................................4
1.2. Đặc điểm sông Mã.............................................................................................................4
2. Chức năng của sông Mã...........................................................................................................6
3. Tính Đa dạng sinh học của sông Mã.........................................................................................7
3.1. Đa dạng về động, thực vật.................................................................................................7
3.1.1. Khu Bảo tồn Thiên nhiên Sốp Cộp.............................................................................7
3.1.2. Rừng Quôc gia Bến Én................................................................................................8
3.2. Thảm thực vật...................................................................................................................9
3.3. Tính chất môi trường sông Mã........................................................................................10
3.3.1. Tính chất môi trường nước......................................................................................10


3.3.2. Tính chất môi trường đất.........................................................................................11
4. Một số đặc điểm khác của sông Mã.......................................................................................13
Tài liệu tham khảo........................................................................................................................1

2


MỞ ĐẦU
Sông Mã là một con sông của Việt Nam và Lào có chiều dài 512 km, trong đó phần
trên lãnh thổ Việt Nam dài 410 km và phần trên lãnh thổ Lào dài 102 km.
Hạ nguồn sông Mã, nơi hội tụ của các dòng sông chính của xứ Thanh Hóa để tạo
nên một châu thổ màu mỡ, cũng là nơi hội tụ của nhiều dòng văn hóa xuôi - ngược, Bắc Nam… để nảy sinh vùng văn hóa Hàm Rồng có nhiều nét riêng trên nền tảng chung của
văn hóa dân tộc. Một trong những hoa trái của vùng văn hóa này là sản phẩm của văn hóa
truyền thống, là nền nghệ thuật đồ đồng Đông Sơn, là các kiến trúc cổ (cả đá và gỗ) đậm
đà bản sắc dân tộc (theo Trần Việt Anh – 2012).
Theo dân gian, sông có tên gọi "Mã" vì dòng nước chảy xiết như ngựa phi. Tuy
nhiên, theo nghiên cứu về từ nguyên học thì Mã là âm một chữ Hán để ghi tên thật: "sông
Mạ", trong đó "mạ" là một từ tiếng Việt cổ còn lưu lại trong phương ngữ miền Trung có
nghĩa là "mẹ". Và tên gốc con sông có nghĩa là "sông lớn".
Ở Lào, sông Mã được gọi là nậm Mã với nậm nghĩa là sông thường dùng ở miền
Trung Lào.
Lịch sử Việt Nam còn gọi sông Mã là Lỗi Giang.

Hình 1: Ngược xuôi sông Mã

3


1.Giới thiệu chung về sông Mã
1.1. Lịch sử hình thành sông Mã

Theo Đào Duy Anh (1964) ông lấy dẫn chứng lịch sử và cho rằng dòng chính của
sông Mã bị thay đổi vào thời nhà Nguyễn. Theo nhận định này ngoài cửa Sung, sông Mã
còn đổ ra biển bằng cửa chính là Lạch Trường với dòng chính là sông Tào Xuyên ngày
nay (sử cũ gọi là dòng Ngu giang). Đầu đời Nguyễn, một trận lũ lớn đánh đắm một bè gỗ
lim ở cửa vào sông Ngu, bè ấy bị phù sa lấp mà chẹn nghẽn đường sông, thì sông ấy mới
dần dần bị hẹp lại. Sau khi dòng sông Ngu bị hẹp lại thì sông Mã trổ rộng ra ngách sông
nhỏ trước kia ở giữa núi Hàm Rồng và núi Châu Phong, đổ ra cửa biển Lạch Hới như
ngày nay.
Một đoạn sông Mã từ ngã ba Bông đến cửa sông Nhà Lê ở thành phố Thanh Hóa từ
thế kỷ X đã được Vua Lê Đại Hành tổ chức khơi thông tạo tuyến kênh Nhà Lê là tuyến
giao thông đường thủy nối từ kinh đô Hoa Lư tới biên giới Đèo Ngang thời Tiền Lê.
1.2. Đặc điểm sông Mã
- Sông Mã có tổng chiều dài 512 km, trong đó đoạn chảy trên tỉnh Điện Biên dài 58
km (11%), đoạn chảy qua tỉnh Sơn La dài 82 km (16%), đoạn chảy qua tỉnh Hủa Phăn
(Lào) dài 102 km (20%), đoạn chảy qua tỉnh Thanh Hóa dài 270 km (53%). Diện tích lưu
vực sông Mã là 28.400 km2, phía bắc lưu vực sông Mã giáp lưu vực sông Đà và sông
Bôi, phía tây là lưu vực sông Mê Kông, phía nam là lưu vực sông Hiếu và sông Yên, phía
đông là biển Đông. Trong 28.400 km2 diện tích của lưu vực sông Mã, phần diện tích của
các địa bàn như sau: tỉnh Điện Biên: 2.150 km2 (7,5%), tỉnh Sơn La: 4.600 km2 (16,2%),
tỉnh Hủa Phăn (Lào): 10.310 km2 (36,3%), tỉnh Hòa Bình: 1.790 km2 (6,3%), tỉnh Thanh
Hóa: 8.900 km2 (31,3%), tỉnh Nghệ An: 650 km2 (2,28%). Lưu lượng 52,6 m³/s (theo Vũ
Trường Giang 2011).
- Theo Viện Quy hoạch thủy lợi (2005) thì:
+ Sông Mã có 39 phụ lưu lớn và 2 phân lưu. Lưới sông Mã phát triển theo dạng cành
cây phân bố đều trên 2 bờ tả và hữu. Các chi lưu quan trọng của sông Mã là: Nậm Lệ,
Suối Vạn Mai, sông Luồng, sông Lò, sông Bưởi, sông Cầu Chày, sông Hoạt, sông Chu.

4



+ Dòng chảy năm trung bình nhiều năm trên lưu vực sông Mã 18 tỷ m3 nước tương
ứng với lưu lượng trung bình nhiều năm là 570 m3/s, mô số dòng chảy năm trung bình là
20 l/s.km2. Trong đó phần dòng chảy sản sinh tại Việt Nam là 14,1tỷ m3 với mô số 25,3
l/s.km2 và tại Lào 3,9.tỷ m3 với mô số trung bình 11,4 l/s.km2
+ Lưu vực sông Mã có hướng dốc chính Tây Bắc- Đông Nam, cao độ biến đổi từ
2.000 m đến 1,0 m. Địa hình đa dạng, có thể chia địa hình sông Mã thành 3 dạng chính là
địa hình núi cao, địa hình gò đồi, địa hình đồng bằng.

Hình 2: Sông Mã chảy qua địa bàn huyện Cẩm Thuỷ - Tỉnh Thanh Hoá
- Sông Mã có hai nguồn chính, nguồn thứ nhất từ phía Nam tỉnh Điện Biên (núi
Tuần Giáo) chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam qua huyện Sông Mã của tỉnh Sơn La rồi
qua lãnh thổ Lào, nguồn thứ hai bắt đầu từ sườn phía Bambusao, hai nguồn này đều đổ
vào Thanh Hóa qua địa phận tỉnh Sầm Nưa. Tại Thanh Hóa, sông tiếp tục giữ hướng Tây
Bắc - Đông Nam chảy qua các huyện phía Bắc của tỉnh, hội lưu với sông Chu rồi đổ ra
vịnh Bắc Bộ theo 2 nhánh sông (nhánh phía Nam vẫn gọi là sông Mã, nhánh phía Bắc gọi
là sông Lèn) ở Lạch Hới (cửa Hới) nằm giữa huyện Hoằng Hóa và thị xã Sầm Sơn cùng
Lạch Sung (cửa Sung) nằm giữa huyện Hậu Lộc và Nga Sơn.
- Hệ thống sông Mã có 90 sông nhánh: 40 sông nhánh cấp I; 33 nhánh sông cấp II;
16 nhánh sông cấp III; và 1 nhánh sông cấp IV. Trong 40 sông nhánh cấp I có 5 sông diện
tích lưu vực từ 1.000 km2 trở lên là: Nậm Khoai, Nậm Lương (sông Luồng), sông Lò,
sông Bưởi và sông Chu. Tổng lượng nước của hệ thống sông Mã là 20,1 km3/năm (theo
Vũ Trường Giang 2011).
5


- Lưu vực của sông Mã rộng 28.400 km², phần ở Việt Nam rộng 17.600 km², cao
trung bình 762 m, độ dốc trung bình 17,6%, mật độ sông suối toàn lưu vực 0,66 km/km².
Lưu lượng nước trung bình năm 52,6 m³/s.
- Sông Mã chủ yếu chảy giữa vùng rừng núi và trung du. Phù sa sông Mã là nguồn
chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ ba ở Việt Nam.

- Hệ thống sông Mã gồm dòng chính là sông Mã và 2 phụ lưu lớn là sông Chu, sông
Bưởi. Hệ thống sông này có tổng chiều dài là 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756
km², trong đó có 17.520 km² nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Tổng lượng nước trung bình
hàng năm của toàn bộ hệ thống sông là 19,52 tỉ m³.
- Các phụ lưu lớn của sông Mã là sông Chu, sông Bưởi, sông Cầu Chày đều hợp lưu
với sông Mã trên địa phận Thanh Hóa. Ngoài ra còn có các phụ lưu nhỏ như sông Lũng,
sông Sơn Trà, sông Nậm Soi.
- Tiềm năng thủy điện lý thuyết của hệ thống sông Mã là 12 tỷ kW, tiềm năng có thể
khai thác là 4.732 triệu kW và tiềm năng kinh tế là 2,43 tỷ kW. Cùng với nhiệm vụ phát
điện, hệ thống này còn có nhiệm vụ thủy lợi: cấp nước cho nông nghiệp, chống lũ hạ du.
Sông Mã có độ dốc nhỏ, các công trình thủy điện chủ yếu tập trung vào phụ lưu của nó là
sông Chu.

Hình 3: Sông Mã đoạn qua thị trấn Sông Mã
2. Chức năng của sông Mã
- Là nguồn nước tưới rất cần thiết với phát triển nông nghiệp, đặc biệt là nền nông
nghiệp lúa nước.
- Là nguồn giúp người dân khai thác cát.
6


- Sông Mã có hàm lượng phù sa lớn chính đó là nguồn phân bón tự nhiên rất tốt bồi
đắp cho đồng bằng càng thêm màu mỡ. Đồng thời phù sa sông ngòi còn có giá trị bồi đắp
cho đồng bằng làm cho đồng bằng ngày càng mở rộng thêm về phía biển. Nhờ vậy mà
nhân dân ta có thể tiến hành quai đê lấn biển mở rộng thêm diện tích trồng trọt.
3. Tính Đa dạng sinh học của sông Mã
3.1. Đa dạng về động, thực vật
Theo sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa thì Hệ sinh thái lưu
vực sông Mã bao gồm : hệ sinh thái trên cạn và dưới nước
-Hệ sinh thái lưu vực sông Mã mang đặc trưng của cả hệ sinh thái vùng Đông Bắc

và Bắc Trung Bộ. Rừng thường xanh là loại rừng đặc trưng cho rừng tự nhiên của lưu
vực; loại rừng thường xanh vùng đất thấp chỉ còn tồn tại ở một vài nơi thuộc Vườn quốc
gia Bến Én.
Các khu Bảo tồn
- Có 4 khu Bảo tồn, bao gồm Vườn Quốc gia, Khu Bảo tồn thiên nhiên đã được
Chính phủ công nhận.
- Chỉ số diện tích khu bảo tồn của lưu vực là 5.56%, ở mức trung bình thấp so với
các lưu vực khác. Chỉ số này thể hiện giá trị bảo tồn và tài sản môi trường trong lưu vực ở
mức trung bình thấp.
3.1.1. Khu Bảo tồn Thiên nhiên Sốp Cộp
Vị trí, diện tích, nguồn nước:
Diện tích :27,886 ha
- Khu Bảo tồn thiên nhiên nằm ở địa phận huyện Sông Mã- thuộc vùng núi Tây Bắc
Việt Nam. Địa hình dốc, nhiều dãy núi nhỏ, với độ cao 450-1940 m. Hệ sinh thái và lớp
thảm thực vật được nuôi dưỡng và thoát nước bởi các sông nhánh của sông Mã.
- Rừng tự nhiên đã bị tàn phá nặng nề thay thế là các bụi cây, bụi rậm. Tuy nhiên,
rừng thường xanh vẫn còn tồn tại một vài nơi có địa hình cao.
- Trước đây khu hệ động vật rất phong phú, có tính đa dạng sinh học cao với nhiều
loài động vật có vú lớn, như loài tê giác đã xuất hiện vào những năm 1950. Tuy nhiên,
tính đa dạng sinh học nơi đây đã bị suy giảm trong những năm gần đây.
7


- Rừng của Khu bảo tồn Sốp Cộp có vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ nguồn
nước sông, suối cho cộng đồng để cấp nước tưới cho nông nghiệp và sinh hoạt.
3.1.2. Rừng Quôc gia Bến Én
Vị trí, diện tích, nguồn nước
Diện tích: 16,634 ha
- Vườn Quốc gia Bến Én thuộc địa phận huyện Như Thanh và Như Xuân, Thanh
Hóa, nằm trong vùng đồi núi thấp bao quanh hồ nước. Cao độ từ 20-497 m, đa phần dưới

200 m. Hồ ở độ cao 50 m trên mực nước biển với diện tích 2281 ha. Địa chất của Vườn
quốc gia chủ yếu là đá trầm tích, cá biệt là đất đá. Một số nơi là đá vôi, và vùng đệm ở
phía đông bắc Vườn quốc gia còn thấy các hang động đá vôi huyền ảo
- Hệ sinh thái nằm trong vùng lõi của Vườn quốc gia được nuôi dưỡng bởi sông
Mực, còn vùng mở rộng theo dự kiến được nguồn nước sông Chang nuôi dưỡng
- Vườn Quốc gia Bến Én có tính đa dạng sinh học ở mức trung bình. Nó góp phần
bảo vệ một số vùng hiếm hoi rừng thường xanh vùng đất thấp của Bắc Trung Bộ Việt
Nam. Tuy vậy, rừng đã bị triệt phá trước đây bởi mục đích thương mại, và kết quả là chỉ
còn những cây không tán lá che bóng mát và phổ biến là bụi cây thấp như tre nứa. Vì thế,
kể từ khi cấm khai thác gỗ vì mục đích thương mại, chất lượng rừng đã trở nên tốt hơn.
- Có 870 loài thực vật bậc cao, 375 loài động vật bao gồm: lưỡng cư, bò sát (trăn, kỳ
đà, rắn, tê tê,...), động vật có vú (bò rừng, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, voọc, chồn,
nhím,...) và chim (gà rừng, lôi, trĩ, công, vẹt, cò bợ...) (2004), trong đó, nhiều loài thực
vật và động vật có vú có tên trong danh sách các loài có nguy đe doạ ở mức toàn cầu.

Hình 4: Đa dạng sinh học trên lưu vực sông Mã
8


3.2. Thảm thực vật
Thảm thực vật tự nhiên
- Rừng kín lá rộng xanh nhiệt đới ẩm với cấu trúc nhiều tầng là loại rừng tự nhiên,
có độ che phủ rất lớn (kín) còn tồn tại ở Cóc phương, Thường Xuân, Quan Sơn, Sông
Mã, Lạc Sơn, Tân Lạc...
- Rừng thứ sinh là loại rừng phổ biến trên lưu vực có tán dày, phủ kín nhưng không
nhiều tầng và thấp.
- Rừng tre nứa nhiệt đới ẩm là loại rừng phân bố khắp nơi, nhưng chủ yếu ở Thanh
Hoá.
- Rừng nứa thứ sinh phân bố rất nhiều nơi trên lưu vực, là loại rừng đang được phục
hồi sau nhiều kỳ khai thác.

- Rừng hỗn giao có độ che phủ kín là loại rừng cây lá rộng, lá kim xen kẽ tre nứa và
cây bụi có chỗ 1 tầng, có chỗ 2 - 3 tầng phân bố nhiều nơi.
- Rừng lá kim (chủ yếu là thông), độ che phủ thấp là loại rừng tái sinh, phân bố chủ
yếu trên các đồi núi thấp.
- Rừng hỗn giao cây lá rộng và lá kim có độ che phủ lớn còn rất ít trên núi cao.
- Trảng bụi cỏ thứ sinh nhiệt đới ẩm phân bố đan xen rừng tre nứa thứ sinh phát triển
rộng khắp.
- Trảng bụi cỏ thứ sinh á nhiệt đới phân bố trên núi cao, có cấu trúc thưa, thấp. Trảng bụi cỏ thứ sinh á nhiệt đới trên đá vôi, thấp thưa xen với đá lộ.
Thảm thực vật trồng
- Lúa nước và hoa màu: Phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng, vùng trũng giữa các
khe núi và thung lũng.
- Rừng trồng: phân bố rải rác trên các đồi núi và đồng bằng.
- Nương rẫy: phân bố chủ yếu trên các đồi núi thấp, sườn núi....
9


- Các quần thể khác rất nhỏ lẻ trong vườn tạp, hàng rào.. phân bổ khắp trong các khu
dân cư.
Thảm thực vật trên lưu vực rất phong phú về kiểu, loại được hình thành do phân hoá
của khí hậu, địa hình và do sự tác động của con người.
Địa hình lưu vực chiếm vai trò rất quan trọng trong việc hình thành lớp phủ thực vật
trên lưu vực: địa hình núi cao thường gắn với việc hình thành các loại thảm phủ rừng kín
lá rộng xanh nhiệt đới ẩm, trảng bụi cỏ... Địa hình núi thấp hình thành các rừng kín lá
rộng xanh nhiệt đới ẩm, trảng bụi cỏ thứ sinh, tre nứa.. Địa hình vùng đồng bằng là thảm
phủ cây nông nghiệp lúa nước, cây ăn quả, hoa màu...
Trong các kiểu thảm thực vật, kiểu thực vật thứ sinh, thực vật trồng là chủ yếu.
Thảm thực vật tự nhiên nguyên sinh còn rất ít ở nơi khó khai thác, khó vận chuyển (theo
Hoàng Ngọc Quang 2008).
3.3. Tính chất môi trường sông Mã
3.3.1. Tính chất môi trường nước

-Trên toàn lưu vực sông Mã hiện có hơn 1800 công trình thủy lợi. Trong đó đáng kể
nhất là hồ chứa đa mục tiêu Cửa Đạt có dung tích 1,45 tỷ m3 nước nhằm giảm nhẹ lũ
sông Chu, cấp nước tưới ổn định cho 87000 ha, phát điện với công suất lắp máy 97 MW
và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt, công nghiệp. Hệ thống đập dâng Bái Thượng được xây
dựng từ thời Pháp thuộc có nhiệm vụ tưới cho hơn 50.000 ha. Ngoài 2 công trình lớn trên,
còn có 2 hệ thống trạm bơm lớn Hoàng Khánh, Nam sông Mã và một số hồ chứa có dung
tích khá lớn như: hồ Thung Bằng, hồ Tây Trác, Đồng Ngư, Cống Khê, Bai Manh, Bai
Lim, Minh Sơn, hồ sông Mực, hồ Yên Mỹ,... và đầu tư nâng cấp nhiều công trình đầu
mối, kênh mương đã hỗ trợ đắc lực cho cấp nước phát triển nông nghiệp.
-Để bảo vệ sản xuất, trên lưu vực sông Mã đã xây dựng được khoảng hơn 500km đê
sông, đê biển, hình thành một mạng lưới khép kín. Các cửa lấy nước và nhận nước trên
các triền sông đều có cống khống chế. Hệ thống cống dưới đê khá ổn định về kết cấu để
chống lũ, các cánh cống đều kín nước. Tuy nhiên mặt cắt các đê còn chưa đủ theo tiêu
chuẩn thiết kế, chưa đủ cơ đê và các cống dưới đê đều ngắn hơn mặt cắt đê. Các tuyến đê
Sông Mã, sông Chu và các sông nhánh đều phần lớn nằm sát với khu dân cư nên khả

10


năng tôn cao và mở rộng mặt cắt đê vẫn có thể thực hiện được nhưng khó khăn (theo
Viện Quy hoạch thủy lợi).

3.3.2. Tính chất môi trường đất
So với toàn quốc, lưu vực sông Mã có 40/60 loại đất được xếp thành 11 nhóm chính
(Hình 5):
1)Đất cát ven biển có tên là: Arennosols: có khoảng 16.000 - 17.000 ha, chủ yếu ở
Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, thị xã Sầm Sơn và Quảng Xương thích hợp cho việc
trồng cây chịu hạn, cây công nghiệp ngắn ngày.
Loại đất này thường có địa hình sóng lượn, xen kẽ giữa vùng địa hình cao và vùng
trũng, khó thoát nước, đất có màu xám trắng, nâu hoặc vàng nhạt với thành phần cơ giới:

cát pha, cát thô tơi xốp, nghèo dinh dưỡng, dễ tiêu, chua vừa đến chua ít: pH = 5,5 - 7,0.
2) Nhóm đất nhiễm mặn hay đất Salic Fuvisols: có khoảng 12.000 - 13.000 ha chủ
yếu ở vùng ven biển cửa sông Mã như: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương,
thị xã Sầm Sơn. Đất có nhiều mùn do phù sa tạo nên, mầu đen hoặc xám nhạt, có độ đạm
cao thích hợp cho việc nuôi trồng thuỷ sản và trồng cói.
3) Nhóm đất nhiễm phèn: có khoảng 6.700 ha vừa bị mặn vừa bị chua. Loại đất này
tập trung chủ yếu ở cửa sông và được sử dụng cấy lúa nhưng năng suất không cao, cần
được cải tạo.
4) Đất phù sa hay đất Fluvisol: chiếm 79% tổng diện tích đất nông nghiệp Thanh
Hoá và 50% tổng diện tích đất nông nghiệp của lưu vực sông Mã (142.259 ha) được phân
bố chủ yếu ở vùng đồng bằng châu thổ. như: Đông Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc, Hoằng Hoá,
Thiệu Hoá, Yên Định, Nga Sơn, Quảng Xương. Loại đất này có nguồn gốc từ phù sa của
sông Mã và sông Yên, nhưng chủ yếu là sông Mã.
5) Đất lầy và than bùn: có khoảng 10.595 ha, phân bố chủ yếu ở trung du và miền
núi của Thanh Hoá có địa hình dạng thung lũng do dốc tụ.
6) Nhóm đất xám bạc màu: có khoảng 32.000 ha, bị bạc màu, độ phì kém phân bố
chủ yếu ở các huyện miền núi Hoà Bình và Thanh Hoá.

11


7) Nhóm đất đen: có khoảng 17.000 ha, tập trung ở miền núi Thanh Hoá, có nhiều
hàm lượng: Mg, Ca, CaO và các vi lượng khác.
8) Đất đỏ vàng: chiếm khoảng 80% diện tích đồi núi (tại Thanh Hoá có khoảng
637.000 ha), tầng đất dày và phần lớn là rừng và rừng tái sinh.
9) Đất mùn vàng đỏ trên núi: chủ yếu ở độ cao từ 700 ÷ 1.500m, thuộc vùng thượng
nguồn sông Mã, sông Chu và sông Bưởi, địa hình dốc đứng và hầu hết còn rừng che phủ.
Tại Thanh Hoá, loại đất này có khoảng 87.000 ha.
10) Đất thung lũng: chiếm tỷ lệ nhỏ và phân bố ở hầu hết các huyện miền núi,
thượng nguồn sông. Đất thường xuyên có nước ngầm làm sình lầy, độ phì cao và bị chua.

Tại Thanh Hoá, loại đất này có khoảng 6.884 ha.
11) Đất xói mòn trơ sỏi đá: chiếm khoảng 5% diện tích lưu vực, có nguồn gốc từ đá,
cát do bị rửa trôi xói mòn mạnh, tầng canh tác mỏng dưới 30 cm. Loại đất này tập trung
chủ yếu ở vùng trung du và miền núi.
Trong 11 loại đất ở lưu vực, phần thuộc Thanh Hoá có 8 loại: đất cát ven biển, đất
mặn, đất phù sa, đất lầy Glêy, đất đen, đất xám bạc màu, đất đỏ và đất mòn trơ sỏi đá.
Trong 8 loại đất ở thanh Hoá, đất phù sa là loại đất chủ yếu ở vùng đồng bằng và loại đất
quan trọng tạo nên một nền nông nghiệp bền vững ở địa phương (theo Hoàng Ngọc
Qunag 2008).

Hình 5: Bản đồ phân bố đất lưu vực sông Mã

12


4. Một số đặc điểm khác của sông Mã
- Hàng năm, sông Mã tải ra biển một lượng phù sa khoảng 5,17 triệu tấn/năm,
khoảng 18,4 tấn/km2. Trong đó, 90% được chuyển trong mùa lũ, còn mùa kiệt chỉ chiếm
khoảng 10%.
- Nền văn hoá trên lưu vực sông Mã là nền văn minh lúa nước các cộng đồng người
Việt di cư và định cư trước hết là ven sông để trồng lúa. Điển hình văn hoá cổ trên lưu
vực là văn hoá Đông Sơn và văn hoá Mường Hoà Bình, Mường Cẩm Thuỷ. Nền văn
minh lúa nước trên lưu vực sông Mã đã duy trì, tồn tại và phát triển đến ngày nay.
- Ven dòng sông Mã, những nếp nhà sàn các bản làng người dân tộc Thái, Mường
nối nhau trong nắng sáng thật yên bình.

13


Tài liệu tham khảo

/>%20dong%20song%20cho%20phu%20sa%20van%20hoa.pdf
/> />%20truong%20nen%20cac%20luu%20vuc%20song.pdf
/>
1



×