Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi Nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.44 KB, 86 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng trong hệ
thống tài chính của mỗi quốc gia. Nhờ có ngân hàng thương mại mà một
lượng vốn nhàn rỗi lớn đã được chuyển dịch từ những người có vốn sang
những người cần vốn. Trong hoạt động của mình, các ngân hàng thương mại
luôn tìm cách để thu được lợi nhuận cao nhất có thế. Vì thế đôi khi có nhiều
rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đặc biệt là rủi ro
trong hoạt động cho vay – một hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho
các ngân hàng. Để hạn chế được rủi ro đó, trong quá trình thẩm định để đi đến
quyết định cho vay, các ngân hàng thường rất chú trọng đến công tác phân
tích tài chính khách hàng.
Một khách hàng có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn
cam kết là một trong những điều kiện tiên quyết để xem xét có cho vay hay
không. Điều kiện này vừa mang lại thuận lợi cho ngân hàng lẫn khách hàng.
Đối với khách hàng, có được khả năng tài chính tốt sẽ giúp cho khách hàng
an tâm hơn về khả năng trả nợ khi đến hạn, do đó giữ được uy tín, cam kết đối
với ngân hàng. Riêng đối với ngân hàng, việc xem xét khả năng tài chính của
khách hàng giúp ngân hàng có thể giảm thiểu được rủi ro, tránh đưa ra những
quyết định sai lầm: cho vay những khách hàng xấu và không cho vay những
khách hàng tốt.
Trong thời gian thực tập tại ngân hàng, cùng với sự giúp đỡ của các anh
chị cán bộ nhân viên ngân hàng và sự giúp đỡ của Th.S Hoàng Lan Hương
em đã có được những hiểu biết sâu hơn về công tác phân tích tài chính khách
hàng và tầm quan trọng của công tác này trong hoạt động cho vay của ngân
hàng vì thế em chọn đề tài:
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
1
Khoá luận tốt nghiệp
“Hoàn thiện công tác phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho
vay tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi Nhánh Hà Nội”.


Kết cấu Khoá luận tốt nghiệp của em gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về phân tích tài chính khách hàng
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính khách hàng trong
hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Sài Gòn.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác phân tích
tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng
TMCP Sài Gòn.
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận tập trung vào công tác phân tích tài
chính khách hàng ở đây chính là phân tích tài chính của doanh nghiệp vay
vốn.
Phương pháp sử dụng nghiên cứu là thu thập thông tin, phân tích và
phỏng vấn trực tiếp cán bộ tín dụng.
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
2
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH KHÁCH HÀNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Khái quát về hoạt động cho vay của các NHTM
1.1.1. Khái niệm và phân loại cho vay
 Khái niệm cho vay
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng trong đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định
theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thời hạn nhất định ở
đây chính là thời hạn cho vay.
Từ khái niệm trên có thể thấy bản chất của hoạt động cho vay là một giao
dịch bằng tiền trên cơ sở hoàn trả và có đặc trưng sau:
- Người đi vay chỉ được sử dụng tiền vay trong khoảng thời gian nhất
định theo thoả thuận và phải hoàn trả vô điều kiện khi đến hạn

- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác người cho vay ngoài khoản vốn gốc ban đầu sẽ được nhận một
khoản lãi do người đi vay trả.
 Phân loại cho vay:
Các ngân hàng cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng
với sự đa dạng trong mục đích vay vốn của khách hang - từ việc mua ô tô và
sửa sắm các phương tiện sinh hoạt, tài trợ cho quá trình học tập đến việc xây
dựng nhà ở, văn phòng… Chúng ta có thể sắp xếp danh mục các khoản vay
rất đa dạng của ngân hàng thành từng nhóm dựa vào một số tiêu thức nhất
định. Việc phân loại cho vay không những tạo tiền đề thiết lập một quy trình
cho vay thích hợp mà còn góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
Phân loại cho vay có thể căn cứ vào một số tiêu thức sau:
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
3
Khoá luận tốt nghiệp
Theo mục đích sử dụng vốn vay, có thể chia thành: cho vay phục vụ sản
xuất kinh doanh công thương nghiệp, cho vay tiêu dùng cá nhân, cho vay bất
động sản, cho vay nông nghiệp, cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
Theo thời hạn, có thể chia thành: cho vay ngắn hạn (loại cho vay có
thời hạn dưới 1 năm), cho vay trung hạn (loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5
năm), cho vay dài hạn (loại cho vay có thời hạn trên 5 năm).
Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, cho vay được chia thành
2 loại: cho vay không có bảo đảm, cho vay có bảo đảm
Dựa vào phương thức cho vay, theo tiêu chí này sẽ chia thành: cho
vay theo món và cho vay theo hạn mức.
Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay, cho vay được chia thành: cho
vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo
hạn, cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp, cho vay
trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ vào khả năng tài
chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá
trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu nhập chủ yếu của các ngân
hàng. Vì thế có thể thấy cho vay là một trong những nghiệp vụ quan trọng của
các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại luôn tìm cách tăng quy
mô cho vay của mình bằng nhiều cách thức khác nhau như: tăng quy mô của
ngân hang đặc biệt là tăng vốn chủ sở hữu, mở rộng mạng lưới chi nhánh, đa
dạng hoá các loại hình cho vay khác nhau, giảm lãi suất cho vay cũng như
cung cấp các điều kiện ưu đãi cho khách hàng…
Tuy nhiên có thể thấy cho vay là nghiệp vụ phức tạp và chứa đựng nhiều
rủi ro. Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh
mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
4
Khoá luận tốt nghiệp
thường phát sinh từ các khoản cho vay. Rủi ro tiềm ẩn trong toàn bộ dư nợ
cho vay của ngân hàng và gắn liền với khả năng khách hàng không trả nợ theo
hợp đồng. Cụ thể là luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời
của các ngân hàng có thể không hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và
thời hạn. Khi các ngân hàng càng cố gắng mở rộng cho vay với mọi thành
phần kinh tế thì khả năng xảy ra rủi ro càng nhiều mặc dù các ngân hàng
thường cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao
nhất. Tuy nhiên không một nhà kinh doanh ngân hàng nào có thể đoán chắc
được điều gì sẽ xảy ra với khả năng hoàn trả của khách hàng vì khả năng hoàn
trả tiền của khách hàng có thể bị thay đổi bởi nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, là những nguyên nhân bất khả kháng. Môi trường kinh tế có
ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người đi vay và thiệt hại hay thành
công của người cho vay. Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh,
lạm phát, thiểu phát ảnh hưởng đến lợi nhuận của người vay, dẫn tới việc
khách hàng không thanh toán gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Cơ chế

chính sách của nhà nước và các ngành chưa đầy đủ, môi trường pháp lý chưa
đồng bộ cũng sẽ tác động tới người vay làm khả năng trả nợ của họ bị giảm
sút.
Thứ hai, là những nguyên nhân từ phía khách hàng. Nhiều khách hàng
sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận lớn. Họ không tính toán
kỹ các bất trắc có thể xảy ra hoặc hoạch định không chính xác, không dự tính
hết được rủi ro trong kinh doanh, những khoản chi phí phát sinh mới làm ảnh
hưởng đến kế hoạch kinh doanh của mình dẫn đến không có đủ nguồn để trả
nợ cho ngân hàng. Cũng có trường hợp khách hàng cố tình lừa dối để chiếm
đoạt vốn của ngân hàng. Số lượng khách hàng như vậy không nhiều nhưng có
thể gây tổn thất lớn cho ngân hàng vì để đạt được mục đích họ sẵn sàng tìm
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
5
Khoá luận tốt nghiệp
mọi thủ đoạn để đối phó với ngân hàng như cung cấp sai thông tin, hay mua
chuộc cán bộ tín dụng.
Thứ ba, là nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng như:
- Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận nên khi
cho vay đã quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các
khoản cho vay lành mạnh. Ngoài ra, trong thể lệ cho vay có những sơ hở để
khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
- Cán bộ ngân hàng không tuân thủ chính sách, không chấp hành đúng quy
định cho vay, như không thẩm định đầy đủ chính xác về khách hàng trước khi
cho vay, cho vay không có dự án khả thi, cho vay khống, thiếu tài sản đảm
bảo, cho vay vượt tỷ lệ an toàn…Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh
doanh như thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả dối để vay vốn rồi vay
ké. Có thể nói, chất lượng cán bộ nhân viên là một trong những nguyên nhân
dẫn tới rủi ro trong hoạt động cho vay hiện nay tại các ngân hàng.
Những rủi ro trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại
phải đối mặt ngày càng phức tạp, đa dạng. Nhưng các ngân hàng không phải

vì thế mà hạn chế hoạt động cho vay vì cho vay là hoạt động mang lại lợi
nhuận lớn cho ngân hàng đồng thời nâng cao được uy tín của ngân hàng trên
thị trường.
Vì những nguyên nhân đó, vấn đề quan trọng các ngân hàng phải đặt ra
là làm thế nào để hạn chế các rủi ro trong hoạt động cho vay. Một trong
những giải pháp quan trọng là phải tiến hành phân tích chi tiết khách hàng
vay vốn bao gồm cả phân tích tài chính và phân tích phi tài chính. Tuy nhiên
việc xác định được khả năng trả nợ của khách hàng thông qua phân tích phi
tài chính là việc rất khó và chỉ mang tính định tính. Để đảm bảo an toàn và
hiệu quả cho những khoản vay, cần phải tiến hành phân tích tài chính của
khách hàng. Do đó, việc phân tích tài chính khách hàng không những là việc
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
6
Khoá luận tốt nghiệp
làm cần thiết mà phải là đòi hỏi bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại
khi đứng trước nhu cầu vay vốn của khách hàng.
1.2. Phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.2.1. Khái niệm và mục đích phân tích tài chính khách hàng
 Khái niệm:
Phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại các ngân
hàng thương mại là việc sử dụng các khái niệm, phương pháp và công cụ cho
phép xử lý thông tin kế toán và thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá hiện
trạng tài chính, dự báo về tài chính tương lai của khách hàng, lường trước
những khả năng có thể xảy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
 Mục đích :
Đối với các ngân hàng thương mại, việc tiến hành phân tích tài chính
khách hàng nhằm mục đích sau:
- Nhằm giúp các ngân hàng thương mại có quyết định đầu tư đúng
đắn.
- Góp phần xác định khả năng thanh toán của khách hàng, làm cơ sở

cho khả năng thu hồi lãi và vốn vay của các ngân hàng.
- Nhằm xác định rõ triển vọng quan hệ của ngân hàng với khách hàng
trong tương lai.
- Làm cơ sở cho việc đánh giá xếp loại tín dụng và có biện pháp trích,
phòng ngừa hợp lý.
1.2.2. Thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng.
 Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh tổng
quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị tài sản và nguồn hình
thành tài sản tại một thời điểm nhất định (cuối quý, cuối năm). Việc so sánh
giữa số liệu của hai thời điểm khác nhau trên bảng cân đối kế toán cũng có thể
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
7
Khoá luận tốt nghiệp
cho thấy sự biến động khái quát của tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp
trong kỳ. Căn cứ vào số liệu về tổng tài sản và kết cấu tài sản hiện có của
doanh nghiệp, ngân hàng đánh giá được một cách tổng quát quy mô tài sản,
năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tỷ lệ, kết cấu của từng
nguồn vốn trong tổng nguồn vốn hiện có phản ánh tính chất hoạt động, thực
trạng tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các tài
khoản kế toán và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân
đối kế toán được chia làm hai phần là phần tài sản và phần nguồn vốn.
Phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp
đến cuối kỳ kế toán đang tồn tại dưới các hình thái và trong tất cả các giai
đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Các khoản mục của bên tài sản được
sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống.
A. Phần nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành tài sản của
doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn được sắp
xếp theo từng nguồn hình thành tài sản của đơn vị (nguồn vốn của bản thân

doanh nghiệp - vốn chủ sở hữu, vốn đi vay, vốn chiếm dụng..).
 Báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh
tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một thời kỳ kế toán của
doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và các hoạt động kinh
doanh khác, tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản
phải nộp khác. Kết quả hoạt động kinh doanh gồm ba phần:
Phần I “Lãi, Lỗ” phản ánh tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Phần này có nhiều chỉ tiêu liên quan đến doanh thu, chi phí
của hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và các hoạt động bất
thường khác. Tất cả các chỉ tiêu trong phần này đều trình bày: tổng số phát
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
8
Khoá luận tốt nghiệp
sinh trong kỳ báo cáo, số liệu của kỳ trước để so sánh, số luỹ kế từ đầu năm
đến cuối kỳ báo cáo.
Phần II “Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước” phản ánh tình
hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về: thuế, phí, lệ phí và các khoản phải
nộp khác.
Phần III “Thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, thuế
GTGT được giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa”
Báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về tình
hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ
quản lý của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh cho phép ngân hàng có
thể dự tính được xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Nhìn
chung, các ngân hàng chỉ dựa chủ yếu vào phần I “Lãi, lỗ” của báo cáo kết
quả kinh doanh để tiến hành phân tích tài chính khách hàng.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc
hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh

nghiệp. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ cho thấy tiền tệ của doanh
nghiệp sinh ra từ đâu và sử dụng vào những mục đích gì. Từ đó, dự đoán
được lượng tiền trong tương lai của doanh nghiệp, nắm được năng lực thanh
toán hiện tại. Đồng thời thấy được quan hệ giữa lỗ, lãi ròng với luồng tiền tệ
cũng như hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính ảnh
hưởng tới mức độ nào, làm tăng hay giảm tiền tệ.
Nội dung của báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm 3 phần sau:
Phần I. Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh: Phản ánh toàn bộ
dòng tiền vào và chi ra chủ yếu của doanh nghiệp, có liên quan trực tiếp đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản thu bằng tiền như: tiền
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
9
Khoá luận tốt nghiệp
thu bán hàng, thu từ các khoản thu thương mại; chi phí bằng tiền như: tiền trả
cho nhà cung cấp, tiền thanh toán cho công nhân viên, chi phí khác bằng tiền.
Phần II. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư: Phản ánh toàn bộ dòng
tiền vào và chi ra chủ yếu của doanh nghiệp, có liên quan trực tiếp đến hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp gồm 2
phần: đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp, đầu tư vào
các đơn vị khác.
Phần III. Lưu chuyển từ hoạt động tài chính: Phản ánh toàn bộ dòng
tiền vào và chi ra chủ yếu của doanh nghiệp, có liên quan trực tiếp đến hoạt
động tài chính của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính bao gồm các nghiệp vụ
làm thay đổi quy mô và kết cấu nguồn vốn của doanh nghiệp như chủ doanh
nghiệp góp vốn, vay vốn, phát hành cổ phiếu trái phiếu…
 Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là một báo cáo kế toán tài chính tổng
quát nhằm mục đích giải trình và bổ sung, thuyết minh những thông tin về
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp
trong kỳ báo cáo, mà chưa được trình bày chi tiết, đầy đủ trong báo cáo tài

chính khác.
Trên thực tế, phân tích báo cáo tài chính là nội dung chủ yếu để tiến
hành phân tích tài chính khách hàng. Tuy nhiên, ngoài các báo cáo tài chính
cán bộ tín dụng của ngân hàng có thể phân tích tài chính khách hàng thông
qua các nguồn thông tin như: thông tin từ kết quả xếp hạng tín dụng của ngân
hàng cho vay, thông tin lưu giữ tại CIC, thông tin từ các cuộc điều tra, phỏng
vấn trực tiếp khách hàng (tham quan trực tiếp nhà xưởng, văn phòng, gặp trực
tiếp các lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp…), thông tin từ các
ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với khách hàng, thông tin từ các đối thủ
cạnh tranh.
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
10
Khoá luận tốt nghiệp
Nói chung thông tin phục vụ cho quá trình phân tích tài chính khách
hàng có được từ nhiều nguồn khác nhau, không phải chỉ từ các báo cáo tài
chính mà khách hàng cung cấp. Có những thông tin chính xác có những thông
tin không chính xác, vì thế cán bộ tín dụng cần sáng suốt, có trình độ chuyên
môn để nắm bắt, lựa chọn những thông tin tốt nhất phục vụ cho quá trình
phân tích. Việc có được những nguồn thông tin sạch là hết sức quan trọng đối
với cán bộ tín dụng nhằm tránh những rủi ro có thể cho ngân hàng.
1.2.3. Các phương pháp sử dụng để phân tích tài chính khách hàng
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc phân tích tình hình tài
chính khách hàng. Trong đó, có thể kể đến hai cách tiếp cận đó là dựa vào
mục đích và theo loại phân tích.
Hình 1.1 : Khuôn khổ phân tích tài chính dựa vào mục đích
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
Phân tích nhu cầu nguồn
vốn của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính
và khả năng sinh lợi của

doanh nghiệp.
Phân tích rủi ro kinh doanh
của doanh nghiệp
Quyết định nhu cầu
nguồn vốn của doanh
nghiệp
Thươn
g
lượng
với nhà
cung
cấp
11
Khoá luận tốt nghiệp
Hình 1.2 : Khuôn khổ phân tích tài chính dựa vào loại phân tích.
Trong khuôn khổ phân tích tài chính dựa vào loại phân tích, các cán bộ
tín dụng thường sử dụng phương pháp tỷ số, phương pháp so sánh…
 Phương pháp tỷ số
Phương pháp tỷ số là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến
trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Nó có tính hiện thực cao, giúp nhà
phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ
thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo giai đoạn.
Các tỷ số tài chính chủ yếu được phân thành các nhóm chỉ tiêu về khả
năng thanh toán – phản ánh khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp, nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn – phản ánh mức độ ổn
định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp,
nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động – phản ánh việc sử dụng tài nguyên, lao
động.., nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi – phản ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp.
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công

Phân tích tỷ số:
Tỷ số thanh khoản
Tỷ số nợ
Tỷ số chi phí tài chính
Tỷ số hoạt động
Tỷ số khả năng sinh lợi
Tỷ số tăng trưởng
Phân tích so sánh:
So sánh xu hướng
So sánh trong ngành
Phân tích cơ cấu
Phân tích chỉ số
Đo lường và đánh giá:
Tình hình tài chính.
Tình hình hoạt động của
doanh nghiệp
12
Khoá luận tốt nghiệp
Mỗi nhóm chỉ tiêu lại bao gồm những tỷ số riêng lẻ phản ánh từng bộ
phận của hoạt động tài chính. Trong mỗi trường hợp, tùy thuộc vào mục tiêu
phân tích tài chính mà ngân hàng sẽ chú trọng các chỉ tiêu khác nhau. Chẳng
hạn đối với những khoản vay ngắn hạn, ngân hàng đặc biệt chú ý đến khả
năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, với những khoản vay dài hạn
thì ngân hàng thường quan tâm nhiều đến khả năng hoạt động, hiệu quả sản
xuất – kinh doanh.
 Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để đánh
giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích.
Trong phân tích báo cáo tài chính, phương pháp so sánh thường được sử dụng
bằng cách so sánh ngang, so sánh dọc. So sánh nganh báo cáo tài chính là việc

so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên
từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài chính; còn so sánh dọc là việc sử dụng các
tỷ suất, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo
cáo tài chính và giữa các báo cáo để rút ra kết luận. Để áp dụng phương pháp
so sánh cần chú ý những điều kiện sau:
- Điều kiện so sánh được của chỉ tiêu: phải thống nhất về nội dung phản
ánh, về phương pháp tính toán, về thời gian và đơn vị đo lường.
- Gốc so sánh: việc xác định gốc so sánh tùy thuộc vào mục đích phân
tích. Gốc so sánh thường được xác định về mặt thời gian, không gian. Về mặt
thời gian có thể lựa chọn kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ này năm trước hay
lựa chọn các điểm thời gian (năm, tháng, ngày cụ thể)…Về mặt không gian
có thể lựa chọn các bộ phận của tổng thể, lựa chọn các đơn vị khác có cùng
điều kiện tương đương.
 Phương pháp Dupont
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
13
Khoỏ lun tt nghip
Ngoi hai phng phỏp trờn, phõn tớch ti chớnh khỏch hng, cỏn b
tớn dng cú th s dng phng phỏp Dupont. õy l phng phỏp phõn tớch
cỏc ch s ti chớnh da trờn t l so vi doanh thu. Phng phỏp ny c s
dng hiu qu ti cụng ty Dopont do ú c gi l phng phỏp Dupont.
Thc cht phng phỏp ny l tỏch mt t s cú mi quan h nhõn qu vi
nhau. iu ú cho phộp phõn tớch nh hng ca cỏc t s i s tng hp, t
ú cú th nhn bit c nguyờn nhõn dn n cỏc hin tng tt xu trong
hot ng ca doanh nghip.Vớ d: Phõn tớch T sut li nhun trờn tng ti
sn (ROA)
Hỡnh 1.3: Phõn tớch phng trỡnh Dupont
Hong Th Thu Thy Lp: Ti Chớnh Cụng
14
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu

Lợi nhuận
Doanh thu
thuần
Giá vốn
Thuế thu
nhp
Doanh thu
thuần
Tổng chi phí
Chi phí bán
hàng
Chi phí QLDN
Chi phí hoạt
động tài chính
Chi phí bất thư
ờng
Doanh thu
thuần
Tài sản ngắn hạn
Tiền
Đầu tư tài
chính ngắn hạn
Phải thu
Tồn kho
Tổng tài sản
bq
Tài sản dài hạn
Các khoản
phải thu dài
hạn

Tài sản cố
định
Cáckhoản
ĐTTCDH
khác
Tài sản dài
hạn khác
Vòng quay toàn bộ vốn
Tài sản ngắn
hạn khác
Chia
(:)
(: )
+
Trừ
(-)
ROA
Khoá luận tốt nghiệp
 Mô hình điểm số:
Ở một số ngân hàng, người ta còn sử dụng phương pháp điểm số hay
còn gọi là xếp hạng doanh nghiệp để phân tích tài chính doanh nghiệp. Mô
hình này được thiết lập dựa vào các chỉ tiêu tài chính qua trọng phản ánh từ số
liệu thống kê trong lịch sử. Tầm quan trọng của các chỉ tiêu sẽ xác định trọng
số của chúng trong mô hình ứng dụng của từng doanh nghiệp, mô hình điểm
số sẽ cho một kết quả nhất định. Nếu điểm số này của doanh nghiệp lớn hơn
điểm chuẩn thì tình hình tài chính của doanh nghiệp có thể chấp nhận được,
còn nếu nhỏ hơn điểm số chuẩn thì tình hình tài chính của doanh nghiệp
không thể chấp nhận được.
Mô hình điểm số được áp dụng nhiều nhất là mô hình Zeta, cụ thể như
sau:

Dựa theo số liệu thống kê của doanh nghiệp sản xuất mô hình điểm số
có phương trình như sau:
Z = 0.012X + 0.014Y + 0,033E + 0.006F + 0.999G
Với = Tài sản lưu động thuần/ Tổng tài sản
= Lãi chưa phân phối/ Tổng tài sản
= Lợi nhuận trước thuế và lãi/ Tổng tài sản
= Giá trị thị trường của tổng vốn CSH/ Giá trị sổ sách của tổng số
nợ
= Doanh thu/ Tổng tài sản
Nếu doanh nghiệp có điểm số Z < 1.81 thì thuộc loại doanh nghiệp có
tình hình tài chính không tốt. Ngược lại doanh nghiệp có điểm số Z > 2.29 thì
thuộc loại doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt. Nếu Z trong khoảng từ 1.81
– 2.99, doanh nghiệp thuộc loại tình hình tài chính chưa xác định được là tốt
hay không tốt.
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
15
Khoá luận tốt nghiệp
Có thể thấy, tùy vào từng tình hình khách hàng, các cán bộ tín dụng có
thể sử dụng một phương pháp phân tích hoặc sử dụng tổng hợp các phương
pháp khác nhau để đạt được hiệu quả cao nhất trong phân tích tài chính khách
hàng.
1.2.4. Quy trình phân tích tài chính khách hàng.
Phân tích tài chính khách hàng là công việc hết sức phức tạp và đòi hỏi
phải được chuẩn hóa một cách khoa học và chặt chẽ để từ đó có thể thẩm định
và đánh giá chính xác về năng lực tài chính của khách hàng vay vốn. Vì thế
các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tài chính khách hàng như sau:
Thứ nhất, thu thập và xử lý thông tin về khách hàng vay vốn. Ngân hàng
phải thu thập và xử lý thông tin liên quan bao gồm: năng lực sử dụng vốn vay
và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu tài sản
và các điều kiện kinh tế khác liên quan đến người vay.

Thứ hai, Phân tích tình hình tài chính khách hàng.
 Phân tích trước khi vay:
Khái quát tình hình tài chính của khách hàng vay vốn. Chủ yếu tập
trung phân tích dựa vào báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp (phân tích
các khoản mục trên bảng cân đối, phân tích luồng tiền); phân tích tình hình
thực hiện các chỉ tiêu tài chính của khách hàng.
Kết quả phân tích trước khi cho vay cho thấy được một phần tình hình
tài chính của khách hàng trong quá khứ và hiện tại. Đây là giai đoạn quan
trọng để ngân hàng ra quyết định có cho vay hay không và cho vay ở mức
như thế nào. Tuy nhiên, việc tiến hành phân tích trước khi vay không thể là
một bảo đảm cho khả năng có thể trả nợ của khách hàng vì trong quá trình
kinh doanh trong tương lai có rất nhiều những dự đoán có thể không chính
xác. Do đó, nếu chỉ dừng lại ở việc phân tích trước khi vay là không đủ, đòi
hỏi các ngân hàng phải tiến hành phân tích ở các giai đoạn tiếp theo để có
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
16
Khoá luận tốt nghiệp
những biện pháp giảm thiểu rủi ro, đảm bảo khoản vay được sử dụng đúng
mục đích và mang lại hiệu quả.
 Phân tích trong khi cho vay:
Sau khi quyết định cho khách hàng vay và tiến hành giải ngân cho
khách hàng, ngân hàng vẫn tiến hành phân tích tài chính khách hàng theo định
kỳ. Việc phân tích này giúp ngân hàng thấy được vốn vay được sử dụng có
đúng mục đích hay không, hiệu quả của việc đầu tư thế nào, có những dấu
hiệu gì ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng không. Có thể nói đây
là giai đoạn thu thập thêm thông tin về khách hàng vay vốn. Nếu thông tin
theo chiều hướng tốt thì chất lượng tín dụng sẽ được đảm bảo nhưng nếu
thông tin theo chiều hướng xấu thì tùy tình hình, ngân hàng sẽ có những biện
pháp thích hợp như: có thể thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, yêu cầu
cung cấp thêm tài sản đảm bảo…

 Phân tích sau khi vay:
Nhiều cán bộ tín dụng cho rằng: khi khoản vay đã được giải ngân rồi
thì không cần phải phân tích tài chính của khách hàng vay nữa. Điều này là
không đúng vì sau khi đã tiến hành giải ngân cho khách hàng và khách hàng
vẫn chưa trả hết nợ cho ngân hàng thì rủi ro đối với khoản vay vẫn còn lớn.
Vì thế việc phân tích sau khi vay giúp ngân hàng xác định được nguyên nhân
đối với những khoản vay không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ và đúng
hạn, từ đó kịp thời đưa ra những quyết định mới liên quan đến sự an toàn của
khoản vay.
1.2.5. Nội dung phân tích tài chính khách hàng
Tình hình tài chính khách hàng lành mạnh là một trong những điều kiện
để xem xét cho doanh nghiệp vay vốn. Về phía doanh nghiệp, do biết được
điều này nên khi lập hồ sơ vay vốn, doanh nghiệp luôn thể hiện tình hình tài
chính của mình lành mạnh và có khả năng tài chính đảm bảo tốt cho việc trả
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
17
Khoá luận tốt nghiệp
nợ. Thế nhưng tình hình tài chính của doanh nghiệp có tốt thực sự hay không
cần phải phân tích và thẩm định mới đánh giá được. Để phân tích tài chính
khách hàng cần tập trung vào các nội dung sau: thẩm định mức độ tin cậy của
các báo cáo tài chính, phân tích báo cáo tài chính, các tỷ số tài chính, đánh giá
chung tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.2.5.1. Thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính bao gồm có Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài
chính. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy, không phải tất cả các doanh nghiệp
đều có đủ năng lực để lập được tất cả các báo cáo trên. Vì thế khi doanh
nghiệp vay vốn tại ngân hàng, các ngân hàng thường chỉ yêu cầu có bảng cân
đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh và thuyết minh báo cáo tài chính của
hai kỳ gần thời điểm vay nhất.

Các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi cho ngân hàng là những
thông tin cung cấp ra bên ngoài, với mục đích vay vốn, vì thế nên mục tiêu
soạn thảo báo cáo tài chính có thể khác biệt so với mục tiêu soạn thảo báo cáo
tài chính cho nội bộ doanh nghiệp. Vì vậy mức độ tin cậy về số liệu của các
báo cáo tài chính của khách hàng cung cấp chưa đảm bảo. Do đó, việc thẩm
định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính là cần thiết đối với một cán bộ
tín dụng. Tuy nhiên vấn đề là thẩm định như thế nào để có thể đánh giá chính
xác độ tin cậy của báo cáo tài chính lại là một vấn đề không dễ dàng đối với
các ngân hàng.
Đối với những khoản vay có giá trị lớn của những khách hàng lớn, vì
tính chất quan trọng của các khoản vay, ngân hàng có thể yêu cầu doanh
nghiệp cung cấp báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Khi đó, công ty kiểm
toán sẽ giúp ngân hàng đánh giá và chịu trách nhiệm về mức độ tin cậy của số
liệu trong các báo cáo tài chính.
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
18
Khoá luận tốt nghiệp
Tuy nhiên, thực tế thấy rằng, việc yêu cầu khách hàng cung cấp báo cáo
đã được kiểm toán là khó khăn vì hiện nay ở nước ta chưa có một quy định
bắt buộc các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm toán. Do đó, thẩm định độ tin
cậy của các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là việc làm cần thiết và
thường xuyên của các cán bộ tín dụng trước khi tiến hành công tác phân tích
báo cáo tài chính của khách hàng. Thực hiện việc đánh giá mức độ tin cậy của
báo cáo tài chính, nhân viên tín dụng có thể thực hiện các bước sau:
- Nghiên cứu số liệu của báo cáo tài chính.
- Sử dụng kiến thức kế toán tài chính và kỹ năng phân tích để phát hiện
những điểm đáng nghi ngờ hay những bất hợp lý trong các báo cáo tài chính.
- Xem xét bảng thuyết minh để hiểu rõ hơn về những điểm đáng nghi
ngờ trong báo cáo tài chính.
- Có thể gặp trực tiếp khách hàng để trao đổi, thảo luận về những điểm

đáng nghi ngờ mà cán bộ tín dụng phát hiện được.
- Đến thăm doanh nghiệp để quan sát và nếu cần tận mắt xem lại tài liệu
kế toán và chứng từ gốc làm căn cứ lập báo cáo tài chính.
- Kết luận sau cùng về mức độ tin cậy của báo cáo tài chính do danh
nghiệp cung cấp.
Một lưu ý khi thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính là nhân
viên tín dụng thường đứng trước khó khăn phải làm việc và đối phó với kế
toán trưởng hoặc nhân viên kế toán giỏi. Vì thế, trang bị cho cán bộ tín dụng
kiến thức về kế toán tài chính là hết sức cần thiết. Thêm vào đó, các cán bộ tín
dụng phải không ngừng nâng cao đúc rút kinh nghiệm thực tiễn để có được
những đánh giá chính xác.
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
19
Khoá luận tốt nghiệp
1.2.5.2. Phân tích báo cáo tài chính.
Khi tiến hành phân tích báo cáo tài chính của khách hàng, cán bộ tín dụng sẽ
tiến hành phân tích từng báo cáo một với việc chú ý đến những khoản mục có
ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng.
a, Bảng cân đối kế toán:
Cán bộ tín dụng xem xét số liệu trong bảng cân đối kế toán để so sánh
sự tăng giảm về số tuyệt đối, tương đối giữa các năm, chủ yếu phân tích tập
trung vào những nội dung sau:
Thứ nhất, với danh mục tài sản: cán bộ tín dụng cần chú ý đến:
- Loại tài sản mà doanh nghiệp sở hữu và giá trị của chúng.
- Sự luân chuyển tài sản của doanh nghiệp, chú ý đến sự thay đổi của
các khoản mục:
+ Dự trữ tiền mặt và các khoản có thể chuyển đổi thành tiền.
+ Trên cơ sở bảng kê chi tiết các khoản phải thu do khách hàng cung
cấp, phân tích tình trạng các khoản phải thu, đánh giá các khoản phải thu có
giá trị lớn, khoản phải thu khó đòi, dự phòng khoản phải thu khó đòi, vòng

quay các khoản phải thu. Đây là chỉ tiêu quan trọng cần được phân tích cẩn
thận vì chúng có thể là nguồn trả nợ chủ yếu chi trả các khoản vay ngắn hạn
của khách hàng.
+ Trên cơ sở bảng kê chi tiết các hàng tồn kho: phân tích tình trạng
hàng tồn kho, hàng tồn kho kém phẩm chất, dự phòng giảm giá hàng tồn kho,
vòng quay hàng tồn kho. Giá trị của hàng tồn kho phụ thuộc lớn vào phương
pháp định giá. Có nhiều phương pháp định giá hàng tồn kho. Nhưng loại tài
sản này nên được định giá ở mức thấp nhất giữa giá trị nguyên giá và giá trị
thị trường.
+ Đối với tài sản cố định, thông thường ngân hàng không quan tâm đến
việc bán tài sản cố định để tài trợ cho các khoản vay nhưng nếu tài sản cố
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
20
Khoá luận tốt nghiệp
định được dùng làm tài sản đảm bảo cho những khoản vay thì giá trị của tài
sản cố định lại là một chỉ tiêu đáng quan tâm. Giá trị này thường phụ thuộc
vào phương pháp khấu hao và cán bộ tín dụng cần đi kiểm tra trực tiếp để có
sự tham khảo giá trị thị trường.
Thứ hai, với danh mục nguồn vốn, cán bộ tín dụng chú ý đến các vấn
đề sau:
- Về tình trạng nguồn vốn của doanh nghiệp: Khi xem xét nợ phải trả của
khách hàng, vấn đề ngân hàng đặt ra là kiểm tra số tiền và kỳ hạn trả nợ. Nợ
phải trả được chia làm hai loại: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Nợ ngắn hạn là các khoản nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong
thời gian ngắn sắp tới thường là 1 năm hay một chu kỳ kinh doanh. Nợ ngắn
hạn bao gồm các khoản vay và nợ ngắn hạn, khoản phải trả,chi phí chưa thanh
toán, thuế và các khoản phải nộp nhà nước, nợ dài hạn đến hạn trả.
Các khoản vay ngắn hạn phản ánh tổng số tiền mà doanh nghiệp vay
ngắn hạn của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng khác. Cán bộ tín dụng cần
có một danh sách về các giấy nợ ghi rõ số tiền vay và tài sản đảm bảo cho

khoản vay đó để tránh tình trạng doanh nghiệp sử dụng một tài sản đảm bảo
cho nhiều khoản vay ở nhiều ngân hàng khác nhau.
Đối với nợ dài hạn, chú ý đến số tiền vay và thời hạn các khoản nợ dài
hạn. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng thường không quan tâm nhiều như nợ ngắn
hạn nhất là đối với mục đích cho doanh nghiệp vay ngắn hạn. Các khoản nợ
dài hạn sẽ không gây khó khăn khi có nguồn tiền đầy đủ sẵn sàng để trả nợ
dài hạn.
Ngoài ra, ngân hàng còn quan tâm đến vị trí của mình trong danh sách
các chủ nợ của khách hàng. Nếu ngân hàng giữ vị trí quan trọng nhất thì khả
năng thu hồi nợ khi doanh nghiệp bị phá sản sẽ được ưu tiên hơn.
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
21
Khoá luận tốt nghiệp
Đối với vốn chủ sở hữu, đây là một khoản mục được chủ các ngân hàng
quan tâm. Việc tăng vốn chủ sở hữu là một biểu hiện của sự tiến bộ về tài
chính của doanh nghiệp. Số vốn chủ cần thiết để cho vay an toàn sẽ biến đổi
phụ thuộc vào đặc điểm và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, sự đầy đủ
của các luồng tiền, tài sản đảm bảo và các nhân tố khác. Một số ngân hàng
cho rằng doanh nghiệp cần có vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn lớn hơn nợ
vay. Tuy nhiên trong một số ngành đặc biệt mang tính thời vụ, quy tắc này có
thể không phù hợp.
Thứ ba, nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Cán bộ tín dụng nhận xét
xem cơ cấu nguồn vốn và tài sản có hợp lý, phù hợp với loại hình doanh
nghiệp hay không? Để tiến hành phân tích nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn,
cán bộ tín dụng có thể sử dụng bảng kê nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Để
lập được bảng kê nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn, cán bộ tín dụng cần tổng
hợp sự thay đổi của các khoản mục trong bảng cân đối kế toán giữa hai thời
điểm là đầu kỳ và cuối kỳ. Mỗi một sự thay đổi của từng khoản mục trong
bảng cân đối kế toán đều được xếp vào một cột diễn biến nguồn vốn hoặc sử
dụng vốn theo cách thức sau:

- Tăng các khoản nợ phải trả, tăng vốn chủ sở hữu, cũng như sự giảm tài
sản của doanh nghiệp chỉ ra sự diễn biến của nguồn vốn và được xếp vào cột
diễn biến nguồn.
- Tăng tài sản của doanh nghiệp, giảm các khoản nợ và vốn chủ sở hữu
được xếp vào cột sử dụng vốn.
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
22
Khoá luận tốt nghiệp
Bảng 1.4: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn
Đơn vị tính:……….
STT CHỈ TIÊU
ĐẦU
NĂM
CUỐI
KỲ
SỬ
DỤNG
VỐN
NGUỒN
VỐN
I Tài sản
1 Tiền và tương đương tiền
2 Các khoản phải thu
3 Dự trữ
4 Tài sản lưu động khác
5 Tài sản cố định
6 Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
7 Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
8
Các khoản ký quỹ, ký cược dài

hạn
II Nguồn vốn
1 Nợ ngắn hạn
2 Nợ dài hạn
3 Nợ khác
4 Nguồn vốn và quỹ
5 Nguồn kinh phí khác và quỹ khác
Bảng kê nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn là một cơ sở và công cụ để
các nhà quản trị tài chính hoạch định tài chính cho kỳ tới bởi lẽ mục đích
chính của nó là trả lời cho câu hỏi: vốn được hình thành từ đâu và được sử
dụng vào việc gì? Thông qua việc thiết lập bảng kê trên, cán bộ tín dụng có
thể thấy được những trọng điểm đầu tư vốn của doanh nghiệp và những
nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư. Từ đó xác định được hướng sử
dụng vốn và mức độ hợp lý của các khoản tài trợ của doanh nghiệp.
Thứ tư, cán bộ tín dụng có thể tiến hành phân tích vốn lưu động ròng
(VLĐR). Vốn lưu động ròng được xác định bằng hiệu giữa tài sản lưu động
và nguồn vốn ngắn hạn. VLĐR= TSLĐ – NVNH = NVDH - TSCĐ
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
23
Khoá luận tốt nghiệp
Nếu VLĐR > 0, doanh nghiệp đang áp dụng chính sách tài trợ bảo thủ,
nghĩa là dùng toàn bộ nguồn ngắn hạn và một phần nguồn dài hạn để đầu tư
vào tài sản lưu động. Như vậy doanh nghiệp sẽ tài trợ cho các khoản vay ngắn
hạn bằng cách bán tài sản lưu động, khi đó khả năng thanh toán của doanh
nghiệp được đảm bảo nhưng khả năng sinh lời của doanh nghiệp giảm sút vì
lãi tiền vay dài hạn thường cao hơn lãi tiền vay ngắn hạn cho nên sẽ làm tăng
chi phí của doanh nghiệp.
Nếu VLĐR < 0, doanh nghiệp sử dụng chính sách tài trợ mạnh dạn,
nghĩa là dùng một phần nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động và một
phần nguồn dài hạn tài trợ cho tài sản cố định. Trong trường hợp này sẽ tạo

điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí sử dụng vốn, khả năng sinh
lời cao nhưng khả năng thanh toán sẽ giảm.
Nếu VLĐR = 0, doanh nghiệp đang áp dụng chính sách tài trợ trung
hòa, nghĩa là dùng toàn bộ nguồn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động và
toàn bộ nguồn dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định. Với chính sách này thì
doanh nghiệp vừa đảm bảo được khả năng thanh toán nợ ngắn hạn vừa đảm
bảo khả năng sinh lời. Tuy nhiên rất ít doanh nghiệp áp dụng chính sách này.
Nhìn chung thì các ngân hàng thường đồng ý cho vay đối với các
doanh nghiệp có vốn lưu động ròng (VLĐR) bằng 0 hoặc lớn hơn 0 để đảm
bảo an toàn cho các khoản vay.
b, Báo cáo kết quả kinh doanh:
Để kiểm soát các hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp, cán bộ tín dụng cần xem xét tình hình biến động trong các
khoản mục của báo cáo kết quả kinh doanh. Khi phân tích cần tính ra và so
sánh mức và tỷ lệ biến động giữa các kỳ phân tích so với kỳ gốc trên từng chỉ
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
24
Khoá luận tốt nghiệp
tiêu. Bên cạnh đó cần phải so sánh tình hình biến động của từng chỉ tiêu với
doanh thu thuần. Cụ thể là:
- So sánh các khoản chi phí với doanh thu thuần để biết được để có 1 đơn
vị doanh thu thuần thì phải hao phí bao nhiêu đơn vị chi phí tương ứng. Mức
hao phí tính ra càng lớn so với kỳ gốc thì hiệu quả kinh doanh càng giảm và
ngược lại.
- So sánh các khoản lợi nhuận với doanh thu thuần. Cách so sánh này
cho biết một đơn vị doanh thu thuần thì đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu
đơn vị lợi nhuận. Giá trị lợi nhuận đem lại càng lớn so với kỳ gốc, chứng tỏ
hiểu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
c, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng biết

được tiền tệ của doanh nghiệp sinh ra từ đâu và sử dụng vào những mục đích
gì. Từ đó, dự đoán được lượng tiền trong tương lai của doanh nghiệp, nắm
được năng lực thanh toán hiện tại cũng như biết được sự biến động của từng
chỉ tiêu, từng khoản mục trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đồng thời, cán bộ tín
dụng sẽ thấy được quan hệ lỗ (lãi) ròng với luồng tiền tệ cũng như các hoạt
động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính ảnh hưởng tới tiền tệ ở
mức độ nào, làm tăng hay giảm tiền tệ.
Khi phân tích cán bộ tín dụng phải xem xét sự vận động của dòng tiền.
Sự vận động đó được thể hiện ở ba bộ phận: dòng tiền từ hoạt động sản xuất
kinh doanh, dòng tiền từ hoạt động đầu tư, dòng tiền từ hoạt động tài chính.
Cán bộ tín dụng có thể tính ra tỷ trọng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh so
với tổng lượng tiền lưu chuyển trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo
tiền từ hoạt động kinh doanh so với các hoạt động trong kỳ là cao hay thấp.
Giá trị của chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ khả năng tạo tiền từ hoạt động
Hoàng Thị Thu Thủy Lớp: Tài Chính Công
25

×