Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Hình thành một số thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ lớp 3 tuổi trường mầm non Hoa Hồng - Phúc Yên - Vĩnh Phúc (KL07339)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.03 KB, 65 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NGUYỄN THỊ TUYẾT

HÌNH THÀNH MỘT SỐ THÓI QUEN
CHĂM SÓC BẢN THÂN CHO TRẺ
LỚP 3 TUỔI TRƢỜNG MẦM NON
HOA HỒNG - PHÚC YÊN - VĨNH PHÚC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp chăm sóc vệ sinh trẻ em

HÀ NỘI - 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NGUYỄN THỊ TUYẾT

HÌNH THÀNH MỘT SỐ THÓI QUEN
CHĂM SÓC BẢN THÂN CHO TRẺ
LỚP 3 TUỔI TRƢỜNG MẦM NON
HOA HỒNG - PHÚC YÊN - VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp chăm sóc vệ sinh trẻ em
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. Nguyễn Thị Việt Nga

HÀ NỘI - 2015




LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Trường ĐHSP Hà Nội 2, các
thầy, cô giáo trong Khoa Giáo dục Tiểu học, Khoa Sinh – KTNN đã giúp đỡ
em trong quá trình học tập tại trường và tạo điều kiện cho em hoàn thiện khóa
luận tốt nghiệp này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo Nguyễn Thị Việt Nga Người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình học tập và
nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cám ơn chân thành tới các cô giáo và các em học sinh
Trường Mầm non Hoa Hồng – Phúc Yên – Vĩnh Phúc đã tận tình giúp đỡ
em trong thời gian em thực tập ở trường. Trong quá trình nghiên cứu, không
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài của em được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Tuyết


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đề tài “Hình thành một số thói quen chăm sóc bản thân
cho trẻ lớp 3 tuổi Trường Mầm non Hoa Hồng – Phúc Yên – Vĩnh Phúc” là kết
quả mà em đã nghiên cứu qua đợt kiến tập hàng năm và đợt thực tập cuối năm.
Trong quá trình nghiên cứu em có sử dụng tài liệu của một số nhà nghiên cứu,
một số tác giả khác. Tuy nhiên, đó chỉ là cơ sở để em rút ra những vấn đề cần
tìm hiểu ở đề tài của mình. Đây là kết quả của riêng cá nhân em, hoàn toàn
không trùng với kết quả của các tác giả khác.

Em xin chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.
Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Tuyết


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ..................................................... 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 2
5. Giả thuyết khoa học ............................................................................. 2
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 3
7. Đóng góp của khóa luận ....................................................................... 3
NỘI DUNG............................................................................................. 4
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU ................................................................................ 4
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................ 4
1.1.1. Trên thế giới ............................................................................................ 4
1.1.2. Ở Việt Nam .................................................................................... 5
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu ................................................. 5
1.2.1. Đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ mầm non nói chung và của trẻ 3
tuổi nói riêng ................................................................................... 5
1.2.2. Thói quen vệ sinh .................................................................................... 8
1.2.3. Thói quen chăm sóc bản thân ............................................................... 11
1.2.4. Thực trạng rèn luyện thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ 3tuổi tại
Trường Mầm non Hoa Hồng - Phúc Yên - Vĩnh Phúc............................ 14
CHƢƠNG 2. QUY TRÌNH VÀ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH THÓI

QUEN CHĂM SÓC BẢN THÂN CHO TRẺ LỚP 3 TUỔI ......... 17
2.1. Các thói quen chăm sóc bản thân cần hình thành cho trẻ lớp 3 tuổi . 17
2.2. Quy trình hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ mầm non
lớp 3 tuổi ........................................................................................... 18
2.2.1. Xác định mục đích, yêu cầu cần đạt được ............................................ 18


2.2.2. Chuẩn bị ................................................................................................ 18
2.2.3. Tiến hành trên lớp ................................................................................. 19
2.2.4. Tổ chức luyện tập thường xuyên ........................................................... 19
2.3. Biện pháp hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ lớp
3 tuổi .................................................................................................... 20
2.3.1. Biện pháp............................................................................................... 20
2.3.2. Hoạt động hình thành các thói quen ..................................................... 21
CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM CÁC BIỆN PHÁP RÈN
LUYỆN THÓI QUEN CHĂM SÓC BẢN THÂN CHO TRẺ LỚP
3 TUỔI .......................................................................................... 49
3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm ...................................................... 49
3.2. Lựa chọn đối tượng thực nghiệm sư phạm ....................................... 49
3.3. Nội dung thực nghiệm ........................................................................ ….49
3.4. Tiến hành thực nghiệm ................................................................... 50
3.4.1. Xác định yêu cầu cần đạt ..................................................................... 50
3.4.2. Chuẩn bị thực nghiệm ........................................................................... 50
3.4.3. Tiến hành thực nghiệm .......................................................................... 50
3.4.4. Đánh giá ...................................................................................... 51
3.5. Kết quả thực nghiệm ...................................................................... 51
3.5.1. Đánh giá lần 1: Hình thành thói quen rửa mặt ................................... 51
3.5.2. Đánh giá lần 2: Hình thành thói quen rửa mặt .................................... 52
3.5.3. Đánh giá lần 3: Hình thành thói quen rửa mặt .................................... 53
KẾT LUẬN .......................................................................................... 55

PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT
CSBT: Chăm sóc bản thân
ĐHSP: Đại học Sư phạm
HTTQCSBT: Hình thành thói quen chăm sóc bản thân
KTNN: Kĩ thuật nông nghiệp
LHQ: Liên hợp quốc
TQCSBT: Thói quen chăm sóc bản thân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng nâng cao
đòi hỏi mỗi người cần phải hoàn thiện hơn. Để đáp ứng những yêu cầu phát
triển, hệ thống giáo dục cần chú trọng hơn đến chất lượng giáo dục và giảng dạy
cho học sinh ngay từ khi còn nhỏ. Trong công tác chăm sóc và giáo dục vệ sinh
cho trẻ mầm non cần hình thành cho trẻ một số thói quen tốt, rèn luyện những
thói quen vệ sinh và hành vi văn minh là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Việc hình thành kĩ năng tự chăm sóc bản thân là rất cần thiết đối với sự
phát triển của trẻ mầm non, cụ thể là với trẻ lớp 3 tuổi. Trẻ sẽ tích lũy được
nhiều kinh nghiệm sống, biết tự chăm sóc cho bản thân và hình thành tính tự lập,
giúp trẻ tự tin hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ trong các hoạt động học tập và
lao động trong các cấp học tiếp theo.
Ngay từ khi còn nhỏ, nếu như trẻ không được trang bị những kĩ năng và
thói quen cần thiết, trong đó có thói quen tự chăm sóc bản thân thì sẽ làm ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ sau này. Bởi thiếu thói quen tự chăm sóc bản
thân sẽ dẫn đến hệ lụy trẻ lười biếng, thụ động và khó khăn khi tham gia vào các

hoạt động. Trẻ luôn sống phụ thuộc vào người khác, luôn làm theo ý của người
khác, thiếu tự tin và thiếu tự lập. Trẻ sẽ gặp những khó khăn khi phải tự mình
thực hiện nhiệm vụ. Điều đó làm ảnh hưởng đến quá trình học tập và sinh hoạt
của trẻ ở các cấp học sau này.
Tuy nhiên, hiện nay ở các trường mầm non, việc rèn luyện thói quen tự
chăm sóc bản thân cho trẻ mầm non chưa được các giáo viên và các bậc phụ
huynh quan tâm chú ý.

1


Từ những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Hình thành một
số thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ lớp 3 tuổi - Trường Mầm non Hoa Hồng
- Phúc Yên - Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích nghiên cứu
Rèn luyện khả năng tự chăm sóc bản thân cho trẻ nhằm nâng cao kĩ năng
sống cho trẻ mầm non nói chung, trẻ lớp 3 tuổi nói riêng.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Trẻ mầm non lớp 3 tuổi ở Trường Mầm non Hoa Hồng – Phúc Yên – Vĩnh
Phúc.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Hoạt động rèn luyện kĩ năng tự chăm sóc bản thân của trẻ mầm non lớp 3
tuổi.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở nghiên cứu lý luận cho việc nghiên cứu thực trạng, từ đó
đi đến việc xây dựng quy trình rèn luyện thói quen tự chăm sóc bản thân cho trẻ
mầm non, trong đó có trẻ lớp 3 tuổi.
- Nghiên cứu thực trạng về việc rèn luyện thói quen tự chăm sóc bản thân
cho trẻ mầm non ở Trường Mầm non Hoa Hồng – Phúc Yên – Vĩnh Phúc.

- Xây dựng quy trình hình thành thói quen tự chăm sóc bản thân và thực
nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính khả thi, tính hiệu quả của quy trình.
- Tổ chức cho trẻ thực hiện quy trình hình thành thói quen tự chăm sóc bản
thân và thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính khả thi, tính hiệu quả của quy
trình.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được một quy trình hình thành thói quen tự phục vụ bản thân
cho trẻ mầm non thì có thể nâng cao kĩ năng sống nói chung cho trẻ mầm non,
đặc biệt là trẻ lớp 3 tuổi.
2


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp quan sát
Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động
7. Đóng góp của khóa luận
- Hệ thống hóa một số vấn đề: Thói quen, thói quen tự chăm sóc bản thân ở
mầm non.
- Làm rõ thực trạng giáo dục thói quen tự chăm sóc bản thân của trẻ và
việc hình thành thói quen tự chăm sóc bản thân cho trẻ mầm non.
- Đề xuất, xây dựng quy trình hình thành thói quen tự chăm sóc bản thân
cho trẻ mầm non.

3


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN

ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Từ lâu, việc chăm lo và bảo vệ sức khỏe trẻ em là mối quan tâm của cả
cộng đồng quốc tế và mỗi nước trên thế giới. Điều này được thể hiện ở quyền trẻ
em đã được thông qua ngày 20 – 11 – 1989 tại Đại Hội đồng LHQ và được phê
chuẩn ngày 2 – 9 – 1990. Các tư tưởng chỉ đạo của Công ước là “loài người
phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có, những lợi ích của trẻ
em phải được quan tâm đầu tiên, phải chú ý và ưu tiên trẻ em trong mọi vấn đề
có liên quan”. Điều này đã cho thấy công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em,
điển hình là việc HTTQCSBT là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Với mục tiêu giáo dục trẻ em ở trường mầm non là giúp trẻ học cách sống
và hòa nhập với môi trường một cách tích cực, có hiệu quả. Thông qua các hoạt
động mà trẻ được tham gia, được tự mình chăm sóc bản thân, tự rút ra những
kinh nghiệm cho bản thân. Trên thế giới đã có rất nhiều nước đưa hoạt động
CSBT vào chương trình giáo dục trẻ. Ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản
hay một số nước khác đã đưa hoạt động CSBT vào hoạt động học để giúp trẻ
hình thành cho mình TQCSBT, đồng thời rèn luyện cho trẻ tính tự lập ngay từ
khi còn nhỏ. Ở Nhật Bản việc thực hiện hoạt động giáo dục TQCSBT cho trẻ
được coi như là hoạt động chủ đạo, việc trẻ tự làm mọi công việc như tự mặc
quần áo, tự đi dép, tự xúc cơm, rót nước, hay tự đánh răng, rửa mặt,… các thao
tác CSBT đối với trẻ là một công việc mà trẻ em ở Nhật Bản thực hiện rất
nhanh. Vì được thực hiên thường xuyên và vì trẻ đã được trang bị nền tảng kiến
thức về các thao tác thực hiện các thói quen CSBT nên việc tự CSBT đối với trẻ
Nhật Bản là công việc mà trẻ có vốn kinh nghiệm nhiều nhất.

4


1.1.2. Ở Việt Nam

Chăm sóc – giáo dục trẻ em ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc
sống là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự
nghiệp chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người tương lai
của đất nước. Trong xu thế đổi mới mạnh mẽ của giáo dục mầm non Việt Nam
hiện nay, với mục tiêu chủ yếu là phát triển năng lực chung cho trẻ, các hoạt
động giáo dục ở trường mầm non phải hướng tới việc dạy cho trẻ biết cách học
như thế nào, phát huy tối đa tính chủ động tích cực của trẻ trong tất cả các hoạt
động. Giáo dục trẻ TQCSBT được ra đời là nhằm đáp ứng các yêu cầu của đổi
mới giáo dục mầm non. Tuy nhiên, tổ chức cho trẻ mầm non rèn luyện TQCSBT
vẫn còn là một vấn đề mới. Tuy đã có một số trường mầm non bước đầu vận
dụng, tổ chức một số hoạt động cho trẻ tự CSBT, song trên bình diện lý luận
chưa có tài liệu nào trình bày cụ thể, đầy đủ quá trình tổ chức cho trẻ rèn luyện
TQCSBT. Trong thực tiễn, phần lớn các giáo viên mầm non cũng chưa biết rõ
phương pháp tổ chức cho trẻ rèn luyện TQCSBT như thế nào để có thể vận dụng
một cách đồng bộ vào các trường mầm non. Vì vậy “Hình thành một số thói
quen chăm sóc bản thân cho trẻ lớp 3 tuổi ” là một đề tài mới có ý nghĩa thiết
thực trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ, phù hợp với mục tiêu giáo dục
hiện nay.
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ mầm non nói chung và của trẻ 3
tuổi nói riêng
Trẻ em ở lứa tuổi mầm non có đời sống tâm- sinh lý rất đa dạng và phong
phú. Ở giai đoạn phát triển này, trẻ em có những đặc điểm, những quy luật phát
triển độc đáo, không giống bất cứ một giai đoạn nào sau này. Cụ thể, sự phát
triển hiện nay của trẻ mầm non 3 tuổi có một số đặc điểm sau:
Sự phát triển về cân nặng, chiều cao:

5



Sự tăng trưởng được biểu hiện ở dấu hiệu tăng kích thước cơ thể. Lúc sinh
ra trẻ nặng 3kg, tháng đầu tiên trẻ tăng từ 1 đến 1,5kg; cuối 1 tuổi trẻ nặng gấp
ba lần so với lúc mới sinh; chiều cao tăng 1,5 lần và vòng đầu tăng 35%... trọng
lượng não bộ tăng dần, mức độ tăng trưởng mạnh nhất là ở giai đoạn từ sơ sinh
đến 3 tuổi: Sơ sinh não bộ có trọng lượng là 380- 400g, 1 tuổi tăng 2 lần, 3 tuổi
tăng 3 lần, đến 6 tuổi não bộ của trẻ có trọng lượng là 1250g.
Cơ thể của trẻ 3 tuổi còn non nớt, nhạy cảm với tác động của thời tiết, dịch
bệnh, sức đề kháng của trẻ còn yếu. Do đó, trẻ hay bị mắc các bệnh thường gặp,
bệnh truyền nhiễm và một số bệnh khác. Trẻ dễ bị tai nạn và luôn cần sự giúp đỡ
của người lớn nhằm đảm bảo an toàn cho chúng. Khả năng vận động của trẻ
ngày càng khéo léo và thành thạo hơn. Trong mọi hoạt động trẻ đã biết phối hợp
nhịp nhàng giữa vận động của tay với vận động của chân, trẻ đã biết quan sát và
có thao tác thích hợp, chúng còn biết sử dụng sức mạnh tốt hơn và hiệu quả hơn
để đạt được mục tiêu [4].
Hoạt động chủ đạo của trẻ 3 tuổi:
Hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non được thay đổi theo từng độ tuổi: Ở trẻ
hài nhi (2-15 tháng) hoạt động chủ đạo là giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người
lớn, đến tuổi ấu nhi (15-36 tháng) hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo,
vào tuổi mẫu giáo (3- 6 tuổi) hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo mà trung
tâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề. Khi tham gia vào trò chơi đóng vai theo
chủ đề, trẻ được thỏa mãn nguyện vọng là sống và hoạt động như người lớn. Trò
chơi này mô phỏng lại hoạt động lao động của người lớn và những mối quan hệ
qua lại giũa họ trong xã hội. Qua trò chơi trẻ hiểu mỗi người trong xã hội đều có
nghĩa vụ và quyền lợi của mình.
Ở độ tuổi 3 tuổi, hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi đóng vai theo
chủ đề là hoạt động chủ đạo. Tuy nhiên vì mới được chuyển sang vị trí chủ đạo
nên hoạt động vui chơi chưa đạt tới dạng chính thức mà chỉ ở dạng sơ khai của

6



nó. Chính vì vậy mà hoạt động vui chơi ở độ tuổi mẫu giáo bé có những đặc
điểm sau:
Do vốn sống của trẻ còn quá ít ỏi nên việc mô phỏng lại đời sống xã hội
của người lớn còn rất bị hạn chế.
Nét đặc trưng của trò chơi đóng vai theo chủ đề là ở chỗ trẻ phải hoạt động
cùng nhau để mô phỏng lại những mối quan hệ của người lớn trong xã hội.
Nhưng ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ chưa quen phối hợp hoạt động với nhau. Tuy trẻ
đã biết bắt chước một số hành động phối hợp với nhau trong sinh hoạt của người
lớn, nhưng việc vui chơi đó vẫn còn mang tính chất của việc chơi một mình.
Phải đến cuối tuổi mẫu giáo bé, nhất là vào tuổi mẫu giáo nhỡ, thì trò chơi đóng
vai theo chủ đề mới ở vào dạng chính thức, và lúc đó nó mới thực sự đóng vai
trò chủ đạo và giữ vị trí trung tâm trong hoạt động của trẻ. Sở dĩ trò chơi đóng
vai theo chủ đề giữ vai trò chủ đạo ở lứa tuổi mẫu giáo, đó là vì trước hết nó
giúp cho trẻ thiết lập những mối quan hệ với nhau (quan hệ thực với quan hệ
chơi) [7].
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non diễn ra với tốc độ nhanh:
Giai đoạn từ 0 - 5 tháng tuổi còn gọi là giai đoạn tiền ngôn ngữ của trẻ.
Khoảng 3 tháng tuổi trẻ đã biết “hóng chuyện”, trẻ đã phát ra những chuỗi âm
liên tục không rõ ràng. Đến giai đoạn 6 - 12 tháng tuổi trẻ phát âm bập bẹ, bi bô
như “bà bà, bố bố, măm măm…”. Từ 12 - 18 tháng tuổi vốn từ của trẻ đã phát
triển lên đến 20-30 từ. Ở thời kì này trẻ hiểu nghĩa và sử dụng chủ động các từ
quen thuộc như đi, ăn, ngủ,…. Và biết làm theo sự hướng dẫn của người lớn.
Đến 2 tuổi trẻ đã có vốn từ khoảng 200 - 300 từ, các từ thường dùng là danh từ
và động từ, các từ gần gũi với cuộc sống của trẻ. Giai đoạn này trẻ tiếp thu ngôn
ngữ một cách trực quan, gắn liền với các hình ảnh, đồ vật, hiện tượng mà trẻ có
thể nhìn thấy và sờ thấy, chơi cùng trong các hoạt động hàng ngày. Sang giai
đoạn 2 - 3 tuổi, đây là thời kì ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh nhất và nhanh
nhất, được gọi là “thời kì phát cảm ngôn ngữ”. Khả năng sử dụng câu của trẻ
7



cũng có những tiến bộ đáng kể. Nếu như đầu năm trẻ chỉ nói được câu có 2 từ,
ví dụ “bà bế” thì đến lúc này trẻ đã nói được câu đầy đủ hơn, ví dụ như “bà ơi bế
con với, con ăn cơm rồi ạ…”. Trẻ hay đặt các câu hỏi “tại sao?”, trẻ thường hay
hỏi “đây là cái gì, cái này dùng để làm gì?,..”. Ở độ tuổi này trẻ nói nhiều hơn và
từ ngữ của trẻ cũng phát triển hơn, vì thế từ xưa đã có câu nói “trẻ lên ba cả nhà
học nói”. Ở các độ tuổi tiếp theo ngôn ngữ của trẻ dần hoàn thiện hơn, trẻ có
thể diễn đạt được những điều mà trẻ mong muốn, cấu trúc câu cũng trở nên
chính xác và hoàn thiện hơn.
Các quá trình tâm lý cùng các phẩm chất tâm lý cá nhân phát triển và
ngày càng hoàn thiện:
Trí tuệ và khả năng nhận thức của trẻ ngày càng phát triển. Trong cuộc
sống hàng ngày trẻ đã tiếp thu được một lượng tri thức đáng kể về thế giới xung
quanh do trẻ trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy và sờ thấy hoặc là người lớn kể lại
qua các câu chuyện, phim ảnh. Đến tuổi mẫu giáo, tư duy của trẻ có một bước
ngoặt rất cơ bản, đó là việc chuyển từ kiểu tư duy trực quan - hành động sang
kiểu tư duy trực quan - hình tượng.
Bước vào tuổi mẫu giáo, ý thức bản ngã được xác định rõ ràng cho phép trẻ
thực hiện các hành động một cách chủ tâm hơn, nhờ đó các quá trình tâm lý
mang tính chủ định rõ rệt. Ở trẻ 3 tuổi, “cái tôi” xuất hiện kèm theo “khủng
hoảng của tuổi lên ba” [7].
Trẻ mẫu giáo rất ham học hỏi, tìm tòi và có năng lực sáng tạo. Vì vậy giáo
viên cần tổ chức cho trẻ hoạt động nhiều để giúp trẻ phát triển. Cần tạo ra môi
trường phong phú và lành mạnh, kích thích trẻ tích cực hoạt động để giáo dục trí
tuệ cho trẻ [1].
1.2.2. Thói quen vệ sinh
1.2.2.1. Khái niệm thói quen
Theo tác giả Ngô Công Hoàn: “Thói quen thường chỉ những hành vi ứng
xử của cá nhân được diễn ra trong những điều kiện ổn định trong không gian và

8


quan hệ xã hội rất cụ thể”. Theo tác giả, nội dung của thói quen gồm: Trật tự các
thao tác hành vi hợp lý; hệ thống thái độ tương ứng với trật tự, thao tác hành vi
ổn định, bền vững của cá nhân; thói quen hành vi thường gắn với nhu cầu cá
nhân [2].
Tác giả Hoàng Thị Phương: “Thói quen thường để chỉ những hành động
của cá nhân được diễn ra trong những điều kiện ổn định về thời gian, không gian
và quan hệ xã hội nhất định. Thói quen có nội dung tâm lý ổn định và thường
gắn với nhu cầu cá nhân. Khi đã trở thành thói quen, mọi hoạt động tâm lý trở
nên cố định, cân bằng và khó loại bỏ” [4]. Tác giả còn cho rằng: “Thói quen vệ
sinh được hình thành từ các kĩ xảo”, mà dựa trên những nghiên cứu về vận động
có chủ định của Sechênôp và Paplôp “kĩ xảo được coi là kết quả tự động hóa của
các hành động trong một hoạt động nào đó”. “Trong cuộc sống có những hành
động vừa là kĩ xảo vừa là thói quen, nhưng không phải lúc nào cũng trùng hợp
như vậy”. Do vậy để cho các kĩ xảo trở thành thói quen cho trẻ cần phải luyện
tập một cách thường xuyên trong cuộc sống hành ngày và phải đảm bảo những
điều kiện nhất định.
Tác giả Nguyễn Thị Thư khi nghiên cứu về các điều kiện hình thành kĩ
năng và thói quen, cho rằng: “Thói quen cũng như kĩ năng là các hành động một
phần được tự động hóa. Nhưng khác với kĩ năng, thói quen không chỉ là khả
năng thực hiện hành động mà còn đảm bảo chính sự kiện hoàn thành hành động
đó” [ 5].
“Thói quen” – theo Đại từ điển tiếng Việt – Nguyễn Như Ý (chủ biên) là
“lối sống hay hành động do lặp đi lặp lại lâu ngày trở thành nếp rất khó thay
đổi” [8, tr. 33]. Theo định nghĩa này thì thói quen được hiểu theo nghĩa rất rộng,
bao gồm toàn bộ những hành động hay những lối sống được lặp lại từ ngày này
sang ngày khác mà trở thành thói quen mà rất khó bỏ. Như vậy thói quen có thể
được hình thành theo chủ định hoặc ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày vì

ngày qua ngày cứ lặp đi lặp lại những hành động hay một lối sống nào đó. Điều
9


đó cho thấy để hình thành nên thói quen phải có điều kiện và sự lặp lại lâu ngày
một hành động hay lối sống nào đó của một cá nhân.
Từ những quan niệm trên, ta có thể kết luận: Thói quen là những hành động
của cá nhân, đã được tự động một phần trên cơ sở hình thành các định hình động
lực bền vững (thực chất là các phản xạ có điều kiện) trên vỏ não nhờ quá trình
lặp lại thường xuyên có hệ thống. Thói quen có nội dung tâm lý ổn định bao
gồm hệ thống trật tự các thao tác hành vi hợp lý, hệ thống thái độ tương ứng với
trật tự thao tác hành vi và gắn liền với nhu cầu của cá nhân.
Thói quen được hình thành từ nhiều con đường khác nhau, trong đó có con
đường tự phát. Thói quen mang tính chất nhu cầu, nếp sống của con người và có
tính bền vững cao, nó bắt rễ vào hoạt động và hành vi của con người sâu hơn.
Cho nên thay đổi, sửa chữa thói quen rất khó khăn.
1.2.2.2. Quy trình hình thành thói quen
Việc hình thành thói quen tiến hành qua các giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn hiểu biết cách làm: Trong giai đoạn này trẻ biết
phải làm được những thao tác nào? Các thao tác diễn ra theo thứ tự như thế nào?
Cách tiến hành mỗi thao tác ra sao?
- Giai đoạn 2: Hình thành kĩ năng: Trẻ biết vận dụng tri thức vào một hoạt
động chăm sóc bản thân nào đó. Tuy nhiên việc tiến hành mỗi loại hành động
chăm sóc bản thân đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý, phải nỗ lực ý chí và biết
vượt khó.
- Giai đoạn 3: Hình thành kĩ xảo: Biến các hành động có ý chí thành các
hành động tự động hóa, bằng cách rèn luyện hàng ngày.
- Giai đoạn 4: Hình thành thói quen:Từ kĩ xảo, để trở thành thói quen cần
được củng cố một cách bền vững.
Đối với trẻ càng nhỏ tuổi thì mức độ hình thành thói quen phụ thuộc rất

nhiều vào biện pháp tổ chức và hướng dẫn của giáo viên.
Các điều kiện hình thành thói quen cho trẻ
10


Trong quá trình giáo dục vệ sinh cho trẻ mẫu giáo các thói quen cần được
củng cố nhiều lần để hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ. Nghĩa là
trở thành nhu cầu được hành động theo một cách nhất định (nhu cầu đánh răng
hàng ngày, tắm rửa, ngủ nghỉ đúng giờ,…). Để hình thành các nhu cầu chăm sóc
bản thân ở trẻ cần có các động cơ kích thích trẻ hành động. Đối với trẻ nhỏ động cơ
phải có giá trị thiết thực cụ thể, có như vậy mới tạo được hứng thú, phấn khởi ở trẻ,
để khi cần trẻ sẽ cố gắng nỗ lực để hành động có kết quả.
Như vậy để các thói quen được củng cố một cách bền vững, nghĩa là hình
thành thói quen chăm sóc bản thân ở trẻ cần có các điều kiện sau:
- Trẻ phải hiểu được sự cần thiết của các thói quen chăm sóc bản thân.
- Trẻ phải được luyện tập các thói quen chăm sóc bản thân.
- Phải có sự gương mẫu của người lớn (cô giáo, cha mẹ, người thân,…).
- Phải sử dụng các biện pháp thưởng phạt phù hợp.
1.2.3. Thói quen chăm sóc bản thân
1.2.3.1. Khái niệm thói quen chăm sóc bản thân
“Thói quen chăm sóc bản thân” là những hành động hướng tới chăm sóc,
phục vụ của cá nhân, đã được tự động một phần trên cơ sở hình thành các định
hình động lực bền vững (thực chất là phản xạ có điều kiện) trên vỏ não nhờ quá
trình lặp lại thường xuyên có hệ thống các hành động vệ sinh cá nhân. Thói quen
chăm sóc bản thân có nội dung tâm lý ổn định bao gồm hệ thống trật tự các thao
tác chăm sóc bản thân hợp lý, hệ thống thái độ phù hợp với các thao tác chăm
sóc bản thân và gắn liền với nhu cầu cá nhân. Thói quen chăm sóc bản thân diễn
ra trong những điều kiện ổn định về không gian, thời gian và những mối quan hệ
nhất định.
Theo từ điển tiếng Việt, “hình thành” là “luyện tập nhiều trong thực tế để

đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng, thông thạo” [9, tr. 44].
Như vậy theo định nghĩa này thì hình thành chính là sự luyện tập, sự thực
hiện lặp đi lặp lại để củng cố một phẩm chất hay một hành động, kĩ năng, kĩ xảo,
11


thói quen nào đó của cá nhân trong thực tế làm cho nó trở nên thuần thục, bền
vững và có thể thực hiện thông thạo trong những điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau. Việc hình thành thói quen được tiến hành thường xuyên, liên tục và có hệ
thống nhất định.
Từ đó, có thể hiểu khái nệm “Hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho
trẻ 3tuổi” là quá trình luyện tập các thói quen chăm sóc bản thân của trẻ trong
thực tế để đạt tới trình độ vững vàng thông thạo.
Như vây, việc hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ chính là sự
luyện tập, sự thực hiện lặp đi lặp lại các thói quen chăm sóc bản thân của mỗi cá
nhân trẻ trong cuộc sống hàng ngày để củng cố làm cho chúng trở nên thuần
thục, bền vững và cá nhân có thể thực hiện trong những điều kiện cụ thể khác
nhau. Trên thực tế, khi cá nhân thực hiện các hành động chăm sóc bản thân bao
giờ cũng thể hiện thái độ với công việc đó. Do vậy, hình thành thói quen chăm
sóc bản thân không chỉ dừng lại ở việc luyện tập, củng cố cho trẻ về mặt kĩ năng
mà còn phải luyện tập, củng cố cho trẻ cả về mặt thái độ khi thực hiện chúng,
phải làm cho nó trở thành nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày.
Như vậy, hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ 3tuổi là quá trình
giáo viên tổ chức cho trẻ luyện tập nhằm củng cố và phát triển ở trẻ những kĩ
năng, thái độ đúng đắn đối với việc chăm sóc bản thân luôn mạnh khỏe, sạch sẽ,
thoải mái. Đặc biệt việc hình thành thói quen chăm sóc bản thân làm cho các
thói quen chăm sóc bản thân trở nên bền vững đối với trẻ và thực sự trở thành
nhu cầu cần thiết, không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Vì thế cần
hình thành cho trẻ các thói quen chăm sóc bản thân sau: Thói quen tự mặc quần
áo, thói quen tự xúc cơm, thói quen tự rót nước, thói quen tự rửa mặt, thói quen

tự rửa tay, thói quen tự đánh răng, thói quen tự chải tóc, thói quen tự cất đồ chơi
ngay ngắn sau khi chơi, thói quen tự đi dép và thói quen ngủ đúng giờ.
1.2.3.2. Vai trò của việc hình thành thói quen chăm sóc bản thân đối
với trẻ 3tuổi
12


Thói quen chăm sóc bản thân là một loại thói quen lao động tự phục vụ đơn
giản. Việc hình thành các thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ là để giữ gìn, bảo
vệ sức khỏe, giúp trẻ phòng tránh được nhiều bệnh tật.
Cũng như giáo dục lao động, thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ có ý
nghĩa quan trọng trong việc giáo dục con người mới phát triển toàn diện. Trong
khi trẻ lao động thì mọi quá trình xảy ra trong cơ thể trẻ như hô hấp, tuần hoàn
máu, trao đổi chất… đều được tăng cường. Trẻ cảm thấy vui hơn khi tự mình
làm được một điều gì đó, ngay cả khi việc đó chỉ là tự phục vụ bản thân trẻ.
Trong quá trình tiến hành, dần dần ở trẻ hình thành sự hiểu biết về mục đích
công việc, rèn luyện ở trẻ tính kiên trì, cố gắng thực hiện công việc định làm,
hiểu biết lợi ích công việc đối với mình cũng như đối với người khác. Khi tiến
hành các hoạt động chăm sóc bản thân, trẻ được sử dụng trực tiếp những dụng
cụ khác nhau cùng với nhiều tri thức đã được học thông qua lao động tự phục
vụ, trẻ nắm được những hình thức sơ đẳng của hoạt động lao động, những kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen cần thiết cho mỗi công việc. Dần dần tập cho
trẻ áp dụng những tri thức đã có, đồng thời dạy cho trẻ vượt khó khăn, phát huy
sáng kiến. Trẻ trở lên thông minh khéo léo, phát triển hứng thú và năng lực nhận
thức của trẻ.
Việc hình thành thói quen chăm sóc bản thân là một trong những nhiệm vụ
quan trọng, được tiến hành trong quá trình chăm sóc – giáo dục trẻ, nhằm củng
cố, bảo vệ sức khỏe của trẻ và giúp trẻ phát triển toàn diện.
Hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ mầm non có ý nghĩa quan
trọng đối với việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho trẻ. Vì ở lứa tuổi này, các cơ

quan và hệ cơ quan trong cơ thể đang phát triển mạnh mẽ nhưng chưa hoàn
thiện về cấu tạo nên trẻ rất dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn lây truyền. Do đó, nếu
không được chăm sóc, giữ gìn vệ sinh cẩn thận thì tỷ lệ trẻ mắc bệnh sẽ rất cao.
Chính vì vậy hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ là vô cùng cần
thiết và quan trọng vì nó sẽ củng cố cho trẻ những kỹ năng tự chăm sóc bản
13


thân: tự mặc quần áo, tự xúc cơm, tự rót nước, tự rửa tay, rửa mặt, tự đánh răng,
tự chải tóc, tự cất đồ chơi ngay ngắn sau khi chơi, tự đi dép và thói quen đi ngủ
đúng giờ.
1.2.4. Thực trạng rèn luyện thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ 3tuổi
tại Trƣờng Mầm non Hoa Hồng - Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Qua hai kì thực tập (12 tuần) tại trường mầm non Hoa Hồng, thị xã Phúc
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Bản thân tôi thấy được thực trạng việc rèn luyện thói quen
chăm sóc bản thân cho trẻ 3tuổi ở Trường Mầm non Hoa Hồng nói riêng và với
độ tuổi 3tuổi nói chung như sau:
Trường Mầm non Hoa Hồng được thành lập ngày 30/7/1994, tiền thân của
trường là nhà trẻ liên cơ thuộc UBND huyện Mê Linh cũ.
Ngày đầu thành lập, trường chỉ có 15 cán bộ, giáo viên, trong đó có 4 giáo
viên là đảng viên; gần 100 trẻ thuộc 5 nhóm, lớp.
19 năm xây dựng và trưởng thành, nhà trường đã có đầy đủ trang thiết bị
đảm bảo cho công tác nuôi dạy, chăm sóc, giáo dục trẻ. Toàn trường hiện có 37
cán bộ, giáo viên, nhân viên đều là nữ; 390 trẻ ở 11 nhóm, lớp. Chi bộ nhà
trường có 19 đảng viên, trực thuộc Đảng bộ phường Trưng Trắc. Trường mầm
non Hoa Hồng là trường trọng điểm chất lượng cao của bậc học mầm non thị xã
Phúc Yên.
Cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường đều cố gắng học tập
nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống.
Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện cho cán bộ, giáo viê n,

nhân viên đi học nâng chuẩn, 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà
trường đã đạt trình độ trên chuẩn. Các cô giáo còn tích cực tham gia
học các lớp Tiếng Anh, âm nhạc, tin học,… để phục vụ công tác giảng
dạy. Trong thời đại công nghệ thông tin, đội ngũ cán bộ, giáo viên,
nhân viên nhà trường đã tích cực học các lớp bồi dưỡng tin học, 100%
giáo viên, nhân viên có trình độ tin học A, B.
14


Thực trạng của việc thực hiện rèn luyện thói quen vệ sinh
cho trẻ 3 tuổi của Trường Mầm non Hoa Hồng:
Việc thực hiện rèn luyện thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ toàn trường
nói chung và trẻ 3tuổi nói riêng luôn được chú trọng và quan tâm. Ban Giám
hiệu nhà trường cùng toàn thể giáo viên trong trường ý thức được tầm quan
trọng của việc hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ trong tất cả các
hoạt động trong ngày của trẻ. Việc rèn luyện thói quen chăm sóc bản thân cho
trẻ đạt được những ưu, nhược điểm sau:
- Ưu điểm:
Trước tiên, các giáo viên trong nhà trường rất yêu nghề, yêu trẻ, nhiệt
huyết với nghề, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Ý thức về việc giáo dục
thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ được các giáo viên nhận thức và áp dụng
một cách khoa học.
Về cơ sở vật chất, nhà trường đã trang bị đầy đủ trang thiết bị cho lớp trong
việc chăm sóc giáo dục thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ như: xà phòng đủ
cho trẻ dùng, khăn mặt có kí hiệu riêng đủ cho mỗi trẻ một chiếc, cốc uống nước
đủ cho trẻ,…
Về nhận thức của phụ huynh và mối quan hệ giữa gia đình và trường. Do
địa bàn trường nằm trong khu vực thị xã nên hầu hết gia đình trẻ có điều kiện
chăm lo cho trẻ và quan tâm đến việc giáo dục thói quen chăm sóc bản thân cho
trẻ. Đa số phụ huynh có nhận thức đúng về mục đích, yêu cầu của công tác giáo

dục thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ, tin tưởng và phối hợp tốt với giáo viên
và nhà trường rèn luyện thói quen cho trẻ. Mối quan hệ giữa gia đình và trường
luôn được quan tâm, chú trọng.
- Hạn chế:
Bên cạnh những ưu điểm thì còn có những hạn chế nhất định trong việc
thực hiện rèn luyện thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ. Ví dụ như, do công
việc và hoạt động trong ngày của trẻ là rất nhiều và không thể cố định giờ giấc
15


theo ý muốn nên đôi khi không thực hiện được tất cả các hoạt động chăm sóc
bản thân theo kế hoạch đã định. Đôi khi rửa tay trước khi ăn mà không sử dụng
xà phòng, hay rửa mặt không đủ các bước,… Tuy nhiên hầu hết các hạn chế, các
tồn tại là do điều kiện khách quan đem lại. Về cơ bản, việc thực hiện giáo dục
thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ trong nhà trường vẫn được thực hiện tốt.

16


CHƢƠNG 2
QUY TRÌNH VÀ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH THÓI QUEN CHĂM SÓC
BẢN THÂN CHO TRẺ LỚP 3 TUỔI
2.1. Các thói quen chăm sóc bản thân cần hình thành cho trẻ lớp 3 tuổi
Thói quen chăm sóc bản thân là rất quan trọng và cần thiết đối với trẻ mầm
non nói chung, trẻ 3 tuổi nói riêng. Vì vậy, cần hình thành cho trẻ những thói
quen chăm sóc bản thân cơ bản sau:
- Thói quen vệ sinh thân thể, bao gồm các thói quen sau:
+ Thói quen tự rửa mặt: trẻ biết rửa mặt đúng lúc, đúng quy trình.
+ Thói quen tự rửa tay: Trẻ biết rửa tay một cách thành thạo và đúng quy
trình.

+ Thói quen tự đánh răng: Trẻ biết cách và có thói quen đánh răng
hàng ngày.
+ Thói quen tự chải tóc: Trẻ biết tự chải tóc và giữ đầu tóc luôn gọn gàng.
+ Thói quen tự mặc quần áo: Trẻ biết tự mặc quần áo, biết chọn quần áo
phù hợp với thời tiết.
+ Thói quen tự đi dép: Trẻ biết đi dép đúng chân, không đi dép trái.
- Thói quen ăn uống có vệ sinh, ngủ nghỉ hợp lý, bao gồm các thói
quen sau:
+ Thói quen tự xúc cơm: trẻ xúc cơm không bị rơi vãi, ăn hết suất của
mình.
+ Thói quen tự rót nước: Trẻ biết tự rót nước để uống khi khát nước, biết
rót vừa đủ, không làm đổ nước ra ngoài.
+ Thói quen ngủ đúng giờ: Trẻ ngủ đúng giờ, ngủ đủ giấc.
- Thói quen hoạt động có văn hóa: Thể hiện hành vi của trẻ khi tham gia
vào các hoạt động: học tập, vui chơi, lao động, và các hoạt động khác. Cụ thể là

17


cần hình thành cho trẻ thói quen cất đồ chơi gọn gàng đúng nơi quy định sau khi
chơi.
2.2. Quy trình hình thành thói quen chăm sóc bản thân cho trẻ mầm
non lớp 3 tuổi
2.2.1. Xác định mục đích, yêu cầu cần đạt đƣợc
Về kiến thức:
- Trẻ có một số hiểu biết về bản thân mình.
- Trẻ biết được tên của các thói quen chăm sóc bản thân.
- Trẻ biết được ý nghĩa của những thói quen chăm sóc bản thân.
- Cung cấp biểu tượng mới và rèn luyện các thói quen chăm sóc bản thân.
Về kĩ năng:

- Trẻ có một số kĩ năng vận động để sử dụng một số đồ dùng trong sinh
hoạt hàng ngày như đánh răng, rửa mặt, rửa tay, cầm thìa xúc cơm, chải tóc.
- Trẻ thực hiện được các thao tác của các thói quen chăm sóc bản thân.
- Rèn luyện kĩ năng quan sát, chú ý, ghi nhớ có chủ đích.
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ mở rộng vốn từ.
Về thái độ:
- Biết coi trọng và làm theo các quy định chung của gia đình và của lớp học.
- Biết kiên trì luyện tập, thực hiện đúng nề nếp, quy định của nhà
trường, lớp học.
- Trẻ biết yêu quý bản thân và chăm sóc cho mình luôn mạnh khỏe.
2.2.2. Chuẩn bị
Giáo viên xây dựng hệ thống các bài luyện tập phù hợp với trẻ:
- Để hình thành cho trẻ các thói quen chăm sóc bản thân như: thói quen tự
mặc quần áo, tự xúc cơm, tự rót nước, tự rửa tay, rửa mặt, tự đánh răng, tự chải
tóc, biết cất đồ chơi đúng nơi quy định sau khi chơi, biết tự đi dép, và có thói
quen đi ngủ đúng giờ, thì trước tiên cô giáo phải giới thiệu về các hoạt động cho

18


×