Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN ĐỨC PHƯƠNG

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG TIẾN TRÌNH
CẢI CÁCH TƯ PHÁP

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân

HÀ NỘI – 2007


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
Ch­¬ng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
1.1. Vị trí, vai trò của tòa án.
1.1.1. Sự hình thành tòa án.
1.1.2. Vị trí, vai trò của tòa án ở nước ta.
1.2. Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của tòa án ở nƣớc ta
hiện nay.
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tòa án.


Ch­¬ng 2. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
2.1 Tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân theo pháp luật
hiện hành.
2.2 Những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và họat động của tòa án
nhân dân ở nƣớc ta hiện nay.
Ch­¬ng 3. PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN
NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cơ bản đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp.
3.1.2. Mục tiêu và yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án
nhân dân


3.2. Phƣơng hƣớng đổi mới tổ chức và họat động của Tòa án
nhân dân.
3.3. Các kiến nghị đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp.
3.3.1. Xác định lại thẩm quyền xét xử và thiết kế mới mô hình tổ
chức của các tòa án.
3.3.2. Nâng cao tính độc lập, nghiêm minh của hoạt động xét xử
3.3.3. Nâng cao năng lực, phẩm chất và địa vị pháp lý của thẩm
phán, hội thẩm nhân dân
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trƣớc nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nƣớc, trƣớc yêu cầu Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nƣớc và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm ở nƣớc ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng đƣợc thể hiện trong
nhiều văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tƣ pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về
chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, trong đó xác định nhiều nội dung
về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, trong đó có đổi mới
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, Nghị quyết nêu rõ:
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ
máy các cơ quan tƣ pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của TAND.
Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào
đơn vị hành chính lãnh thổ, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực đƣợc tổ chức ở một
hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ
yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa thƣợng thẩm
đƣợc tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; tòa án nhân dân tối
cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hƣớng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập
tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu
vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối cao theo hƣớng tinh gọn với đội ngũ thẩm
phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
1


Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án

quân sự theo hƣớng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự...
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng theo hƣớng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lƣợng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp.[9,tr.5].
Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản
Việt Nam cũng nêu rõ:
Xây dựng hệ thống cơ quan tƣ pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con ngƣời. Đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020. Cải cách tƣ pháp khẩn trƣơng,
đồng bộ, lấy cải cách họat động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công
tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm
Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tƣ pháp… [15,tr.126].
Nhƣ vậy, cả Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đều xác định
tòa án nhân dân phải tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động đáp ứng yêu cầu
cải cách tƣ pháp. Do đó, tòa án nhân dân phải chủ động chuẩn bị tất cả các
điều kiện để thực hiện thành công việc đổi mới tổ chức và hoạt động phù hợp
với tiến trình cải cách tƣ pháp. Đến đây hàng loạt các vấn đề về lý luận và
thực tiễn đƣợc đặt ra khi đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân đòi
hỏi phải đƣợc quan tâm nghiên cứu.
Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Đổi mới tổ chức và hoạt
động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp " để làm luận
văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật. Đây là vấn
đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài
viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của tòa án nhân
dân. Có thể phân loại thành hai nhóm nhƣ sau:
- Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc,
cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tƣ pháp
Việt Nam có liên quan đến tòa án nhân dân nhƣ: Đề tài khoa học cấp Nhà
nƣớc mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống
các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân". Luận án tiến
sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nƣớc và pháp luật "Đổi mới tổ chức và hoạt
động tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay " của tác giả Lê
Thành Dƣơng năm 2002. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà nội "Đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003. Luận án tiến sĩ luật học,
Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống
cơ quan tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền" của
tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005. Sách tham khảo: "Một số vấn đề về Hiến
pháp và bộ máy Nhà nước" của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông
vận tải năm 2002; "Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay"
của tập thể các tác giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội
năm 2002; "Góp bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay" của TS Ngô
Huy Cƣơng, Nxb Tƣ pháp năm 2005; "Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự
lãnh đạo của Đảng" của Luật sƣ Nguyễn Văn Thảo, Nxb Tƣ pháp năm 2006.
Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về lịch
sử ngành tòa án nhân dân.

3


- Nhóm thứ hai, là các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức

và hoạt động của tòa án nhân dân đƣợc đăng trên các tạp chí: "Cải cách tư
pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền" của TSKH
Lê Cảm, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2002; “Những vấn đề chủ yếu
của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm
2006; "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp " của tác giả Nguyễn Mạnh
Cƣờng, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002; "Cải cách tư pháp và
vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh Kháng, tạp chí Nhà nƣớc và
pháp luật số 10 ...
Tuy vậy các công trình bài viết trên chủ yếu đi sâu nghiên cứu chung
nhất về tổ chức quyền lực Nhà nƣớc, hoặc có công trình nghiên cứu về vấn đề
này nhƣng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật đƣợc những
vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, do đó nội dung không
còn mang tính thời sự nữa. Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân mới chính thức đƣợc đặt vấn đề khi Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị đƣợc ban hành vào giữa năm 2005 và mới đƣợc ghi nhận trong
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam
vào đầu năm 2006. Vì vậy, đến nay chƣa có công trình khoa học nào nghiên
cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này đƣợc chính thức công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là dƣới góc độ lý luận và lịch sử
Nhà nƣớc và pháp luật làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp, nhằm xây
dựng hệ thống tòa án trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao
hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án.
4


Nhiệm vụ của luận văn:

Qua phân tích những cơ sở lý luận cơ bản nhất về tổ chức quyền lực
Nhà nƣớc, quyền tƣ pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án
nhân dân trong bộ máy Nhà nƣớc, các quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt
động của tòa án nhân dân, yêu cầu của cải cách tƣ pháp đối với đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
+ Làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động tòa án nhân dân ở nƣớc ta hiện nay.
+ Đề xuất những phƣơng hƣớng cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp
luật, luận văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu của cải cách tƣ pháp,
nên đối tƣợng là những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân ở Việt Nam.
Luận văn chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân,
không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thể hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, quan điểm của Đảng và
Nhà nƣớc ta về lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật, về đổi mới tổ chức
và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp, những
thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phƣơng pháp đƣợc sử dụng là các phƣơng pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phƣơng pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, đồng
thời cũng sử dụng phƣơng pháp luật học so sánh, phƣơng pháp lý thuyết hệ
thống, phƣơng pháp thống kê …
5



6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng
nhƣ thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân
dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa
học, những ngƣời làm thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng đƣợc cho việc
nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng.
Ch­¬ng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN
1.1. Vị trí, vai trò của tòa án.
1.2. Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của tòa án ở nƣớc ta hiện nay.
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tòa án.
Ch­¬ng 2. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
2.1 Tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành.
2.2 Những vấn đề đặt ra đối với t chức và họat động của tòa án nhân dân ở
nƣớc ta hiện nay.
Ch­¬ng 3. PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ
3.1. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cơ bản đối với đổi mới tổ chức và hoạt
động của tòa án nhân dân
3.3. Các kiến nghị đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp.

6



7


Ch­¬ng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
1.1. Vị trí, vai trò của tòa án
1.1.1. Sự hình thành tòa án
Nhà nƣớc ra đời xem nhƣ một công cụ hữu hiệu trong tay giai cấp
thống trị. Nhờ có nhà nƣớc mà giai cấp thống trị về kinh tế đã trở thành giai
cấp thống trị về chính trị và nắm lấy quyền lực nhà nƣớc.
V.I.Lênin cho rằng: "… Sự tồn tại quyền lực nhà nước được thể hiện
thông qua đội ngũ quan lại, quân đội, bộ máy hành chính, tòa án… nếu bỏ
qua các bộ phận ấy thì quyền lực nhà nước chỉ là cái bóng, là sự tưởng tượng
hoặc là một tên gọi trống rỗng…"[29,tr.128]
Nhà nƣớc đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho
pháp luật đƣợc thực thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó không
đƣợc các giai cấp và tầng lớp khác tuân theo, pháp luật không đi vào đời sống
hàng ngày của dân cƣ. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào, luôn luôn có các cá
nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các điều luật của
nhà nƣớc, đi ngƣợc lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy giai cấp
thống trị đã tổ chức ra một hệ thống các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ
và bảo đảm cho pháp luật đƣợc thực thi nhƣ quân đội, cảnh sát... Nhƣng
không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm một cách tùy tiện,
bởi nhƣ thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ đó cần có một cơ quan
đƣợc lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem xét hành vi nào là đúng, là
sai. Cơ quan đó chính là tòa án, luôn tồn tại trong bất kỳ chế độ nhà nƣớc nào.
Theo V.I. Lênin " … Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động

của tòa án là hình thức họat động của nhà nước... " [29, tr.197].
8


Hệ thống các cơ quan xét xử cũng dần dần đƣợc hoàn thiện và phát
triển theo tiến trình phát triển của lịch sử.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nhà vua nắm giữ tất cả
quyền lực, quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tƣ pháp. Quyền lực
nhà vua là tối thƣợng, nhà vua vừa ban hành các văn bản pháp luật, vừa tổ
chức thực hiện pháp luật lại vừa xét xử các hành vi vi phạm pháp luật. Ở giai
đoạn này việc xét xử cao nhất do nhà vua đảm nhiệm, với những vụ việc
không quan trọng thì đƣợc giao cho các quan lại cấp dƣới phụ trách việc xét
xử, cùng với việc quản lý địa giới hành chính trong phạm vi quan lại đó phụ
trách. Montexkio cho rằng "...Mọi thứ sẽ biến mất cả nếu chính một người
hay chính một tập đoàn các thân hào hay các quý tộc hay bình dân hành sự
cả ba quyền: Quyền làm luật, quyền thi hành các quyết định chung và quyền
xét xử các tội phạm hay các vụ tranh chấp giữa các tư nhân…" [22,tr.85].
Nhằm hạn chế quyền lực vô hạn của nhà vua, đồng thời cũng là mục tiêu của
cuộc cách mạng tƣ sản đánh đổ hoàn toàn chế độ phong kiến đã lỗi thời. Cách
mạng tƣ sản đã mở ra một con đƣờng mới trong việc phát triển và bảo đảm
hơn các quyền tự nhiên của con ngƣời. "… Chủ quyền nhân dân chỉ có thể
được thực hiện trên thực tế bằng sự phân công quyền lực như là một nguyên
tắc tổ chức Nhà nước quan trọng nhất vì tính tối cao của chủ quyền nhân dân
là điều kiện cơ bản cho tự do và bình đẳng của tất cả các công dân trong một
Nhà nước…" [21,tr.98].
Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không đƣợc phân biệt với quyền
lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử đƣợc sáp nhập vào quyền lập
pháp thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét xử đƣợc nhập vào quyền hành
pháp thì thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức. PGS.TS Nguyễn Đăng
Dung cho rằng "… việc tách, phân biệt tư pháp ra khỏi hành pháp và lập

pháp là một thành công lớn trên con đường phát triển của nhân loại …"
9


[24,tr.482]. Việc phân công giữa các nhánh quyền lực không phải là làm cho
chúng yếu đi mà làm cho chúng có sự kiểm tra giám sát lẫn nhau và ngày
càng phát triển, PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng“...Việc phân công quyền
lực trước hết phải được tiến hành trên cơ sở để hợp tác giữa các nhánh quyền
lực để mỗi nhánh quyền lực có phạm vi và lĩnh vực thực hiện đã được xác
định của mình và được cân bằng một cách hợp lý...” [37,tr.4].
Tuy nhiên, vai trò của tòa án cũng phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm tƣ
tƣởng chỉ đạo của giai cấp cầm quyền trong Nhà nƣớc tƣ sản, ở nhà nƣớc nào
nguyên tắc phân quyền không rõ ràng thì tòa án chịu sự lấn át của lập pháp và
hành pháp, còn những nhà nƣớc nào áp dụng triệt để học thuyết phân quyền
thì vai trò của tòa án mới thực sự đƣợc đề cao, đó mới thực sự là một nhà
nƣớc dân chủ.
Việc xét xử của tòa án ban đầu chỉ là việc xét xử về hình sự mà đối
tƣợng không phải là đội ngũ quan lại mà là các thần dân, chỉ có các thần dân
mới vi phạm pháp luật, còn quan lại đƣợc coi là những ngƣời mẫu mực,
không có hành vi vi phạm pháp luật, về sau qua sự phát triển của lịch sử đòi
hỏi mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý bất kể ngƣời đó là ai ,
làm gì , Đối tƣợng xét xử của Tòa án cũng đƣợc mở rộng dần, từ việc xét xử
về hình sự đến các việc tranh chấp khác trong đời sống xã hội của cá nhân,
hoặc các cơ quan, tổ chức "... Không ai được phép dựa vào quyền thế để làm
trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải bị xử lý, bất cứ ai vi phạm đều đưa ra
xét xử, không được làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì
xử theo lễ…" [12,tr.87].
1.1.2. Vị trí, vai trò của tòa án ở nước ta
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nƣớc Việt nam dân chủ cộng hoà. Tuyên ngôn độc lập là


10


một văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng, là cơ sở để hàng loạt các thiết chế
của một nhà nƣớc mới đƣợc thành lập.
Ngay sau khi giành đƣợc độc lập, mặc dù chính quyền cách mạng còn
non trẻ, đứng trƣớc một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nhƣng Đảng và Bác Hồ
hết sức quan tâm đến vấn đề tổ chức và họat động của bộ máy nhà nƣớc ta
nhƣ thế nào để tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân. Nhà nƣớc ta
đƣợc tổ chức theo chế độ tập quyền, "... quyền lực Nhà nước là thống nhất,
không phân chia, bắt nguồn từ quan điểm, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân, nhân dân là chủ thể cội nguồn của quyền lực Nhà nước. Hơn
nữa, Đảng ta là Đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân,
nông dân, của dân tộc, là điều kiện bảo đảm và cần thiết để thực hiện quyền
lực Nhà nước thống nhất…" [26,tr.102].
Trong bộ máy nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, hệ thống tòa án
cũng tồn tại nhƣ một tất yếu, khách quan. Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất
không phân chia nhƣng có sự phân công phân nhiệm phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện ba quyền (Lập pháp, Hành pháp, Tƣ pháp).
Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tƣ pháp, là cơ quan thực hiện
chức năng xét xử. Ngay từ buổi đầu của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng
hòa, tòa án đã chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử
những hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nƣớc ta. Thông qua việc xét
xử, tòa án đã đóng góp một phần rất quan trọng vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ chính quyền non trẻ.
Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác
nhau, do những yêu cầu đặt ra khác nhau, tổ chức và họat động của tòa án
nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên nó cũng
chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng, "...là cơ quan xét xử của nước

cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.... Trong phạm vi chức năng của mình có
11


nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ của nhân dân ; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân…” [1,tr.71].
Hiện nay, Đảng và nhà nƣớc ta chủ trƣơng xây dựng nhà nƣớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền XHCN, của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong nhà nƣớc pháp quyền tòa án có vai trò
vô cùng quan trọng, “...Tòa án phải là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư
pháp, nơi mà các kết quả của họat động điều tra, công tố, bào chữa, giám
định được sử dụng một cách công khai thông qua các thủ tục tố tụng để đưa
ra những phán xét cuối cùng mang tính quyền lực Nhà nước. Hơn thế, tòa án
phải là nơi thể hiện công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả mối
quan hệ, là nơi thể hiện chất lượng họat động và uy tín của hệ thống tư
pháp…" [34,tr.30], và TSKH.PGS Lê Cảm cũng đánh giá vai trò của tòa án
trong nhà nƣớc pháp quyền là "... Góp phần khẳng định thắng lợi huy hoàng
của chính nghĩa đối với tàn bạo, của công lý đối với bất công, của cái thiện
đối với cái ác và góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của
nhà nước pháp quyền vào đời sống thực tế ... " [20,tr.316].
Với vị trí và vai trò hết sức quan trọng nhƣ vậy, cho nên yêu cầu đặt ra
phải đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải
cách tƣ pháp, để phù hợp với việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. TS
Ngô Huy Cƣơng đã viết, “...Khi nói tới nhà nước pháp quyền người ta không
thể không nhắc tới tư pháp độc lập và sự giám sát bằng tư pháp đối với các
cơ quan nhà nước. Chúng là một trong những yêu cầu quan trọng của nhà
nước pháp quyền. Chừng đó đã đủ cho thấy vị trí to lớn của tư pháp (Tòa án)
trong hệ thống quyền lực nhà nước và trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền...”[23,tr.505]. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng "...Xét xử là

phương thức, là hình thức thể hiện quyền lực nhà nước. Đó là họat động của
12


cơ quan (Tòa án) được nhân danh quyền lực nhà nước đưa ra một phán quyết
cuối cùng có hiệu lực bắt buộc đối với một tranh chấp cụ thể (hình sự, dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính ...) Đó là sự biểu thị thái độ trực tiếp của nhà
nước về các vụ việc cụ thể ... " [25,tr.37]
1.2 Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nƣớc ta
hiện nay.
Tòa án nhân dân là một bộ phận của bộ máy Nhà nƣớc, nên nó cũng
đƣợc tổ chức và họat động theo những nguyên tắc chung, nguyên tắc hiến
định nhƣ: nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên
tắc pháp chế ... Đây là những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho họat động
của bộ máy nhà nƣớc ta. Các nguyên tắc này tuy không quy định cụ thể đối
với tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án nhƣng có sự ảnh hƣởng lớn đến
việc tổ chức và hoạt động của tòa án. Hệ thống tòa án nhân dân hoạt động có
những nét đặc thù so với các hệ thống cơ quan nhà nƣớc khác. Do vậy nó
cũng có những nguyên tắc hoạt động riêng biệt bên cạnh những nguyên tắc
chung nêu trên, đó là:
Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Đây là nguyên tắc "... là tiền đề nền tảng của tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền ..." [34,tr.32]. Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án ra những quyết
định, bản án đúng pháp luật, thật sự công bằng và khách quan. Đây là nguyên
tắc rất quan trọng trong hoạt động tố tụng của tòa án. Theo nguyên tắc này khi
xét xử, thẩm phán không bị ràng buộc bởi bất cứ cơ quan hoặc cá nhân nào để
xét xử khách quan, công bằng và nghiêm minh. Thẩm phán phải chịu trách
nhiệm đối với quyết định của mình.
Thẩm phán độc lập cũng có nghĩa là không một cơ quan, tổ chức nào
đƣợc phép can thiệp trái pháp luật vào họat động xét xử của Tòa án, sự độc

lập này cũng gắn liền với sự tuân thủ pháp luật. Khi xét xử các thành viên của
13


Hội đồng xét xử cũng độc lập với nhau trong khi đánh giá các tình tiết, chứng
cứ, xác định tội danh, loại mức hình phạt cụ thể cũng nhƣ các quyết định
khác, “...Các thẩm phán độc lập và có chuyên môn là nền tảng của một hệ
thống tòa án công bằng, vô tư và được hiến pháp bảo đảm, hệ thống đó chính
là các cơ quan tư pháp. Sự độc lập này không có nghĩa là thẩm phán có thể
đưa ra các quyết định theo thiên ý riêng của mình mà đúng hơn là họ được tự
do đưa ra những quyết định hợp pháp, ngay cả khi những quyết định này mâu
thuẫn với chính phủ hoặc các bên rất mạnh trong một vụ kiện. Ở các nền dân
chủ, độc lập không chịu những áp lực chính trị từ các quan chức và cơ quan
lập pháp đảm bảo sự vô tư của các thẩm phán. Những phán quyết của cơ
quan tư pháp vô tư, dựa trên thực tế của vụ việc, hành động của cá nhân, các
lập luận pháp lý và luật liên quan, và không chịu bất cứ hạn chế hay ảnh
hưởng không đúng đắn nào của các bên liên quan ..." [16,tr.21]. Hoạt động
độc lập chỉ tuân theo pháp luật của các thẩm phán nhằm mục đích bảo đảm
quyền con ngƣời của mọi công dân, quyền bình đẳng của con ngƣời trƣớc
pháp luật, tránh mọi sự lợi dụng chức quyền mà đàn áp dân chúng. Trong họat
động xét xử của mình, các thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên
tắc xét xử. Chính sự tuân thủ nguyên tắc xét xử này cũng là nhằm mục đích
bảo vệ quyền con ngƣời của công dân, nhất là việc bảo vệ công lý cho xã hội,
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tránh mọi sự lợi dụng quyền lực của
của chính thẩm phán, cũng nhƣ để cho chính thẩm phán tránh đƣợc mọi áp
lực từ phía các quan chức nhà nƣớc.
Tính độc lập của thẩm phán và hội đồng xét xử là một tất yếu khách
quan đƣợc quy định bởi đặc trƣng của việc thực hiện quyền tƣ pháp, xét xử
các vụ án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự, ra bản án, quyết định và thi
hành các bản án, quyết định liên quan đến số phận sinh mạng pháp lý của

công dân, tổ chức. Do đó, để các bản án, quyết định đƣợc công bằng, đúng
14


pháp luật, không làm oan, làm sai cho ngƣời dân thì trong từng hoạt động,
từng giai đoạn của quá trình tố tụng, các cá nhân có thẩm quyền phải khách
quan, vô tƣ, độc lập và tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật. Các tòa án khi tiến
hành hoạt động xét xử chỉ đƣợc làm những gì pháp luật cho phép, làm và phải
làm theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định. Không ai,
không cơ quan nào đƣợc can thiệp, tác động để buộc thẩm phán và hội đồng
xét xử làm trái pháp luật.
Giữa tính độc lập, khách quan và yêu cầu chỉ tuân theo pháp luật có mối
quan hệ biện chứng. Chữ "chỉ" giúp hình dung rõ khuôn khổ, phạm vi, ý
nghĩa của sự độc lập. Đây không phải là sự độc lập chung chung, không
hƣớng đích mà là độc lập để tuân theo pháp luật. Tuân thủ pháp luật là cơ sở,
là bảo đảm để các chức danh tố tụng độc lập thực hiện đúng đắn, đầy đủ trách
nhiệm của mình, không phụ thuộc vào sự tác động của các cơ quan, cá nhân
khác. Các Mác đã từng khẳng định về tính độc lập của thẩm phán "…Đối với
thẩm phán thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp. Thẩm phán có
trách nhiệm giải thích luật pháp trong việc vận dụng vào từng trường hợp cá
biệt, đúng như ông ta hiểu luật pháp khi xem xét nó một cách có lương tri...
Thẩm phán độc lập không thuộc về chính phủ... Thẩm phán xem xét hành
động của tôi trên cơ sở một đạo luật nhất định…" [17,tr. 137].
Trong xét xử, ngƣời thẩm phán phải biết vƣợt lên trên tất cả sự tác động
từ nhiều phía và nhiều khi vƣợt lên trên cả chính mình để "chỉ tuân theo pháp
luật". Khác với chức năng lập pháp thƣờng gắn với một loại hoạt động có tính
khái quát hóa, vĩ mô, chức năng tƣ pháp gắn liền với công việc cụ thể, với
một sự kiện, hành vi pháp lý cụ thể, với từng con ngƣời cụ thể trong một tình
huống cụ thể, có khi rất đặc thù riêng biệt. Trong bối cảnh cụ thể đó, đòi hỏi
một thái độ đối xử vô tƣ, khách quan là điều không dễ dàng, vì con ngƣời cụ

thể có những mối quan hệ chằng chịt từ nhiều phía. Trong hoạt động tố tụng,
15


từng ngƣời ở từng khâu đoạn, vị trí của mình đều cố gắng đi tìm sự thật đúng
nhƣ nó đã xuất hiện và từng tồn tại. Đây cũng chính là một trong những lý do
giải thích vì sao nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trở thành một
nhu cầu tự nhiên của hoạt động tố tụng và thể hiện rõ nhất, có tính tiêu biểu
trong hoạt động xét xử của ngƣời thẩm phán. Trên con đƣờng tìm đến, tái
hiện sự thật khách quan đó, thẩm phán, theo vị trí chức năng của mình, là
ngƣời duy nhất có điều kiện, có thẩm quyền kiểm tra, xác minh, đối chất,
kiểm chứng lại tại phiên toà toàn bộ các chứng cứ, tình tiết vụ án đã thu thập
đƣợc từ các giai đoạn tố tụng trƣớc đó hoặc bổ sung tại phiên tòa. Trƣớc mắt
ngƣời thẩm phán sự thật vốn đã từng xảy ra, tồn tại trong quá khứ hiển hiện
dần lên một cách sống động. Từ đó, có thể thấy chỉ có ngƣời thẩm phán với vị
trí tố tụng đƣợc pháp luật tố tụng tạo ra có khả năng đẩy đủ nhất để xem xét,
đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ bản chất pháp lý của hành vi, sự kiện
pháp lý. Yêu cầu lớn nhất đƣợc đặt ra lúc này chính là tạo ra, bảo đảm một
môi trƣờng khách quan với các điều kiện chuyên môn, kỹ thuật và cả tâm lý - xã
hội để ngƣời thẩm phán độc lập đối mặt với các sự kiện, hành vi pháp lý. Phải
dành cho ngƣời thẩm phán một môi trƣờng không có bất kỳ sự can thiệp nào
ngoài sự chỉ đạo của pháp luật và niềm tin nội tâm hình thành từ sự đánh giá,
phán xét toàn bộ các thông tin, các tình tiết, sự kiện, hành vi pháp lý làm cơ sở
cho việc vận dụng pháp luật để đi đến một phán quyết nhân danh nhà nƣớc.
Nguyên tắc bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đây
cũng là một nguyên tắc hiến định (Điều 52 - Hiến pháp 1992). Trong hoạt
động xét xử ngƣời tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt
động, xác minh điều tra, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật phải đúng đắn,
không vì bất cứ lý do gì mà thiên vị bất cứ ai, bất cứ đƣơng sự nào trong vụ
án, không phân biệt địa vị, trình độ, giới tính, đảng phái. Đảm bảo mọi hành


16


vi vi phạm, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và Nhà
nƣớc đều bị xử lý công bằng nghiêm minh đúng pháp luật.
Trong hoạt động xét xử hình sự các bên buộc tội và gỡ tội, các bên
đƣơng sự trong vụ án dân sự đều có quyền tố tụng ngang nhau trong việc thu
thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, trong việc tranh luận, trình bày quan điểm
của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức hay Nhà
nƣớc. Nói cách khác, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật
trong hoạt động xét xử chính là cơ sở bảo đảm cho việc thực hiện tranh tụng
bình đẳng, một nguyên tắc cơ bản đảm bảo tính công bằng, dân chủ, khách
quan trong hoạt động tƣ pháp mà biểu hiện cao độ, tập trung là tranh tụng
trƣớc Tòa án, đây chính là biểu trƣng của công lý.
Nguyên tắc việc xét xử của tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham
gia theo quy định của pháp luật .(Điều 129 Hiến pháp 1992 và Điều 4 Luật tổ
chức TAND)
Nhà nƣớc ta là nhà nƣớc của dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mọi
công việc của nhà nƣớc đều cần để dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm
tra. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia
công việc của nhà nƣớc và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội,
tổ chức đời sống xã hội. Quy định hội thẩm nhân dân tham gia vào họat động
xét xử của tòa án nhân dân là một trong những cơ sở tạo điều kiện cho công
dân tham gia vào công việc nhà nƣớc.
Thực tiễn công tác xét xử của tòa án chứng minh rằng sự tham gia của
hội thẩm vào việc xét xử của tòa án là rất cần thiết, giúp cho tòa án xét xử
công minh, chính xác, khách quan, phù hợp, phát huy tác dụng giáo dục của
phiên tòa, giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm

chỉnh pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật. Mặt khác hội thẩm nhân dân là
17


những ngƣời lao động, công tác ở cơ sở, thay mặt nhân dân lao động, tham
gia hoạt động xét xử của tòa án, làm cho việc xét xử vừa đúng pháp luật, vừa
phù hợp với tâm tƣ nguyện vọng của nhân dân.
Nguyên tắc tòa án xét xử công khai (Điều 131 Hiến pháp 1992 và Điều
7 Luật tổ chức TAND 1992).
Nguyên tắc này đảm bảo nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia
phiên tòa xét xử. Một mặt đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền kiểm tra
giám sát đối với hoạt động xét xử của tòa án, mặt khác phát huy đƣợc tác
dụng giáo dục của phiên tòa, với quần chúng nhân dân.
Việc xét xử công khai của tòa án có thể đƣợc tiến hành ở trụ sở của tòa
án, hoặc bằng phiên tòa lƣu động. Trong cả hai trƣờng hợp này, tòa án cần
phải thông báo rõ ràng thời gian, địa điểm xét xử. Với các vụ án điển hình cần
phải thông báo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng để nhân dân biết.
Tuy nhiên, không phải mọi phiên tòa đều xét xử công khai mà theo
Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức tòa án nhân dân thì tòa án có thể xét xử kín. Đó
là những trƣờng hợp để giữ gìn bí mật của Nhà nƣớc, thuần phong mỹ tục của dân
tộc hoặc để giữ bí mật của các đƣơng sự theo yêu cầu chính đáng của họ …
Cho dù là xét xử công khai hay xử kín, thì quyết định hoặc bản án của
tòa án cần phải đƣợc đọc công khai để mọi ngƣời biết, nắm rõ đƣợc nội dung
sự việc, qua đó mới có tác dụng giáo dục răn đe phòng ngừa tội phạm, đồng
thời ngƣời dân cũng tránh đƣợc các sự loại việc tƣơng tự.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 132 Hiến pháp 1992 và Điều 9 Luật tổ
chức TAND).
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử của
tòa án, bảo đảm cho bị can, bị cáo không bị thiệt hại về quyền và những lợi

ích hợp pháp. Bằng những chứng cứ thực tế, bị can, bị cáo có thể chứng minh
18


trƣớc tòa án về những hành vi của mình là vô tội hoặc có tội nhƣng có tình
tiết giảm nhẹ. Để thực hiện quyền bào chữa của mình, bị cáo có thể tự mình
thực hiện hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa. TS Nguyễn Mạnh Kháng đã viết
"…Buộc tội là nhiệm vụ của người bị hại, tiếp đó là công tố viên, bào chữa là
nhiệm vụ của bị can, bị cáo và tiếp đó là người bào chữa cho họ. Phán quyết
là trách nhiệm của tòa án. Người buộc tội có nghĩa vụ chứng minh bị cáo có
tội, người bào chữa chứng minh sự vô tội của bị cáo…" [35,tr.32].
Không thể đƣợc thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có
đối trọng là chức năng bào chữa.
Công dân khi đứng trƣớc cơ quan nhà nƣớc cảm thấy mình vô cùng nhỏ
bé, bằng những lời nói hành động của họ có thể ở trạng thái lo sợ, mất bình
tĩnh. Nhƣ vậy việc bảo đảm quyền bào chữa của họ cũng là một nguyên tắc
bảo đảm quyền con ngƣời và quyền công dân trong nhà nƣớc pháp quyền.
Nguyên tắc này cũng đảm bảo cho việc xét xử đƣợc đúng đắn khách quan.
Đây là nguyên tắc rất cơ bản trong mọi nền tƣ pháp dân chủ. Nguyên
tắc này đảm bảo cho bị can, bị cáo, các đƣơng sự và những ngƣời có quyền và
lợi ích liên quan đến vụ việc thực hiện quyền tự mình hoặc thông qua sự giúp
đỡ, hỗ trợ của luật sƣ, ngƣời bào chữa, ngƣời đại diện hợp pháp đƣa ra các
chứng cứ cần thiết giúp cho việc làm sáng tỏ các tình tiết, sự thật của vụ án,
bày tỏ thái độ, lập luận của mình trong quá trình tố tụng, đặc biệt là tại tòa án,
qua đó giúp cho các cơ quan tƣ pháp giải quyết, xử lý đúng ngƣời, đúng việc,
đúng pháp luật.
Các bản Hiến pháp, các luật tổ chức của các cơ quan tố tụng cũng nhƣ
các văn bản pháp luật tố tụng ở nƣớc ta đều ghi nhận nguyên tắc cơ bản này.
Trong những trƣờng hợp theo luật định, các cơ quan tiến hành tố tụng phải
chỉ định ngƣời bào chữa cho bị can, bị cáo (là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời

có nhƣợc điểm về thể chất, tinh thần, ngƣời bị khởi tố về tội có khung hình
19


phạt cao nhất là tử hình). Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ
của các đƣơng sự phải đƣợc thực hiện trong toàn bộ quá trình tố tụng, do vậy
về nguyên tắc và theo luật định thì luật sƣ, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ
quyền, lợi ích cho các đƣơng sự đƣợc quyền tham gia từ những giai đoạn đầu
của quá trình tố tụng, cụ thể là từ sau khi có quyết định khởi tố trong vụ án hình
sự và từ khi khởi kiện đối với vụ án dân sự. Trách nhiệm của cơ quan điều tra,
kiểm sát, tòa án là phải tạo điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo, các đƣơng sự
và ngƣời bào chữa, ngƣời đại diện của họ đƣợc thực hiện quyền của mình.
Nguyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 11 Luật tổ
chức TAND).
Nguyên tắc này một mặt đảm bảo sự kiểm tra, giám sát, khiếu nại của
chính các đƣơng sự, bị cáo, ngƣời bị hại đối với bản án, quyết định sơ thẩm
của tòa án thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, mặt khác, tạo ra công cụ tự kiểm tra, giám sát của hệ
thống tƣ pháp - thông qua quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân hoặc
của Tòa án cấp trên đối với quyết định, bản án sơ thẩm của tòa án cấp dƣới.
Theo nguyên tắc này, Tòa án xét xử theo hai cấp - sơ thẩm và phúc
thẩm. Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn
luật định phải đƣợc xét xử phúc thẩm; bản án, quyết định phúc thẩm là cuối
cùng (chung thẩm), có hiệu lực thi hành. Giám đốc thẩm, tái thẩm không phải
là các cấp xét xử tiếp theo của phúc thẩm mà chỉ là các thủ tục đặc biệt để
xem xét lại bản án trong những trƣờng hợp đặc biệt theo quy định của pháp
luật. Nguyên tắc tòa án thực hiện hai cấp xét xử đòi hỏi việc tổ chức, sắp xếp
hệ thống tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra một cách hợp lý để đảm bảo
tính chuyên môn hóa và hiệu quả cao của từng cấp xét xử.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của tòa án.


20


Công lý chỉ đƣợc khôi phục và duy trì, các quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà nƣớc, tổ chức, công dân chỉ đƣợc bảo đảm trên thực tế khi bản án,
quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật đƣợc thi hành. Nguyên tắc bảo
đảm hiệu lực của bản án, quyết định của tòa án là nguyên tắc hiến định (Điều
136 Hiến pháp năm 1992, Điều 12 Luật tổ chức TAND) và đƣợc khẳng định
tại các luật tố tụng. Nguyên tắc này đòi hỏi:
Các cơ quan tƣ pháp, đặc biệt là các cơ quan thi hành án, tòa án, kiểm
sát phải tổ chức và phối hợp họat động đảm bảo thi hành kịp thời, đúng pháp
luật, có hiệu quả các bản án, quyết định của tòa án.
Các cá nhân (ngƣời bị kết án, các đƣơng sự …), các cơ quan, tổ chức có
nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của tòa án phải thực hiện nghiêm
chỉnh nghĩa vụ của mình.
Các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và mọi công dân đều có nghĩa vụ
tôn trọng bản án, quyết định của tòa án, phối hợp theo chức năng với cơ quan
thi hành án để tổ chức, giám sát việc thi hành án tại địa bàn thuộc phạm vi
quản lý của cơ quan, tổ chức.
1.3 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tòa án ở nƣớc ta.
Ở nƣớc ta cùng với quá trình phát triển của cách mạng, ở mỗi một
giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác nhau, hệ thống tòa án
nhân dân cũng đƣợc tổ chức và hoạt động phù hợp với nhiệm vụ và mục
tiêu của thời kỳ đó.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công để bảo vệ thành quả
cách mạng, bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia
trên nền tảng dân chủ, Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số 33/SL ngày 13
tháng 9 năm 1945 về việc thiết lập các Tòa án quân sự.
Theo Sắc lệnh này, ở nƣớc ta sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Hà Nội,

Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Mỹ
21


Tho. Các Tòa án quân sự đã đƣợc thành lập với thẩm quyền xét xử sơ thẩm,
đồng thời chung thẩm tất cả những ngƣời phạm vào một việc gì có phƣơng
hại cho nền độc lập của nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Những bản án
của Tòa án quân sự có hiệu lực ngay, bị cáo và các đƣơng sự không có quyền
chống án, trừ trƣờng hợp ngƣời bị kết án tử hình sẽ đƣợc đƣa ra thi hành, khi
có quyết định bác đơn xin ân giảm của Chủ tịch nƣớc.
Để giữ vững kỷ luật trong quân đội, phục vụ tốt cho yêu cầu chiến đấu,
ngày 23/8/1945 Chính phủ đã ra sắc lệnh số 163/SL về việc thành lập tòa án
xét xử các quân nhân, sĩ quan phạm tội.
Đó là những văn bản pháp lý đầu tiên, là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt
động của tòa án sau này.
Để nâng cao hiệu lực của Bộ máy Nhà nƣớc cũng nhƣ để hoàn thiện về
mặt tổ chức của tòa án, ngày 24/1/1946 Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số
13/SL quy định về tổ chức, hoạt động tòa án và ngạch thẩm phán. Đây là Sắc
lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ, cụ thể tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền
hạn của các ngạch thẩm phán.
Theo Sắc lệnh này, Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp có quyền bổ nhiệm thẩm
phán tòa án sơ cấp. Chủ tịch nƣớc bổ nhiệm thẩm phán tòa án đệ nhị cấp.
Thẩm phán đƣợc chia thành hai dạng là thẩm phán xét xử và thẩm phán công
tố. Việc bổ nhiệm thẩm phán đòi hỏi phải có một số tiêu chuẩn nhất định nhƣ:
phải có quốc tịch Việt Nam, đủ 21 tuổi trở lên, có bằng cử nhân luật khoa và
đã trúng tuyển kỳ thi tuyển.
Cũng theo Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946, hệ thống tòa án bao gồm:
tòa thƣợng thẩm (cấp kỳ), tòa đệ nhị (cấp tỉnh), tòa án sơ cấp (cấp huyện). Bên
dƣới là mạng lƣới các Ban tƣ pháp xã, đƣợc thành lập gồm có Chủ tịch, Phó
chủ tịch và thƣ ký. Hệ thống này chịu sự quản lý và chỉ đạo của Bộ Tƣ pháp.


22


×