Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.35 KB, 2 trang )
Soạn bài nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
I. Gợi ý trả lời câu hỏi
Câu 1. Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai
câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng của tác giả như thế nào?
Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện như một lão nông thực thụ với “Một mai, một cuốc, một cần câu”. Cách sử
dụng số từ “một…, một…, một…” cho ta thấy tác giả đã chuẩn bị sẵn sàng cho công việc và có sử chủ động
(mai để đào đất, cuốc để xới đất và cần câu để câu cá) chứ hoàn toàn không phải là hành động của một
phút cao hứng. Cách nhắt nhịp 2/2/3 tạo cho câu thơ sự thảnh thơi, nhàn nhã.
Câu thơ thứ hai càng nêu bật sự nhàn nhã trong cuộc sống của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Thơ thẩn dầu
ai vui thú nào”. Mặc kệ “ai” với những thú vui nào, cụ Trạng vẫn thơ thẩn với cuộc sống ruộng vườn của
mình, không lo toan, không vướng bận. Câu thơ toát lên phong thái của một bậc danh sĩ ẩn cư nơi ruộng
vườn, ngày ngày vui thú với cảnh nông thôn.
Câu 2. Anh / chị hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn” như
thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4?
Cách nói hóm hỉnh song qua đó toát lên quan niệm nhân sinh của tác giả. Cụ Trạng tự nhận mình là “dại”,
chấp nhận tiếng dại của “miệng thế” chê bai để “tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho “Người khôn, người đến chốn lao
xao”. Câu thơ sử dụng cách nói ngược nghĩa. Tuyết Giang Phu Tử với sự thâm trầm, trải đời đã tận hiểu sự
đua chen, trói buộc của vòng danh lợi, bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Tự
nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng
danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”.
Nghệ thuật đối: “ta” đối với “người”, “dại” đối với “khôn”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Ta tìm nơi
vắng vẻ tức tìm đến sự tĩnh lặng của tự nhiên, tìm đến sự yên tĩnh trong tâm hồn, không bon chen, không
cầu canh; còn người tìm đến chốn lao xao là tìm đến chốn quan trường, tuy sang trọng, quyền quý, song
phải bon chen, đối chọi, cảnh giác… Nghệ thuật đối tạo sự so sánh giữa hai cách sống, qua đó khẳng định
triết lí sống của tác giả.
Câu 3. Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ cho thấy
cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? (Quê mùa, khổ cực? Đạm bạc mà thanh cao? Hòa hợp với
tự nhiên?)
Cuộc sống ẩn cư ở nông thông của cụ Trạng tuy đạm bạc mà không kham khổ, đạm bạc mà thanh cao:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá