Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

LÍ TƯỞNG THẨM mĩ của CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC THỂ HIỆN QUA TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO của NHÀ văn NAM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.77 KB, 11 trang )

CHUYÊN ĐỀ
LÍ TƯỞNG THẨM MĨ CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC THỂ
HIỆN QUA TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO CỦA NHÀ VĂN
NAM CAO
Tổ Văn – trường THPT chuyên
Bắc Kạn
1. Chủ nghĩa hiện thực ra đời từ thế kỉ XIX ở phương Tây. Trào
lưu văn học hiện thực xuất hiện sau và có sự khác biệt với trào lưu
văn học lãng mạn trước hết ở lí tưởng thẩm mĩ.
Lí tưởng thẩm mĩ là hình ảnh về các giá trị thẩm mĩ mong
muốn, cần phải có. Lí tưởng thẩm mĩ là tiêu chuẩn cao nhất để
đánh giá thẩm mĩ, cho phép đối chiếu một cách tự giác hoặc không
tự giác các hiện tượng đời sống với lí tưởng thẩm mĩ. Nếu các
quan niệm thẩm mĩ (của các nghệ sĩ và các nhà lí luận) biểu hiện
dưới khái niệm trừu tượng thì lí tưởng thẩm mĩ không tách rời hình
thức biểu hiện cụ thể - cảm tính, bởi nếu không có hình thức ấy thì
không thể ghi nhận hình ảnh của cái đẹp cần phải có. Lí tưởng
thẩm mĩ có sự tương quan với các lí tưởng xã hội, chính trị, đạo
đức…nhưng vẫn có tính độc lập của nó. Lí tưởng thẩm mĩ phát
hiện các phẩm chất của cái đẹp, nó biểu hiện cái đẹp tâm hồn
người, cái cao cả của tinh thần nhân dân, nhân loại. Lí tưởng thẩm
mĩ của người nghệ sĩ thể hiện qua các yếu tố của tác phẩm như: sự
thể hiện các nhân vật chính diện, cảm hứng chủ đạo…nhưng nhìn
chung cần phải xác định lí tưởng thẩm mĩ thông qua toàn bộ cơ cấu


nghệ thuật của một tác phẩm, toàn bộ cơ cấu nghệ thuật của một
nghệ sĩ.
Lịch sử văn học cho thấy chủ nghĩa hiện thực này sinh trước
hết là từ cái hiện có chứ không phải là cái cần có. Chủ nghĩa hiện
thực không áp đặt những lí tưởng của mình cho thực tại mà lấy nó


từ chính thực tại. Cảm hứng của chủ nghĩa hiện thực, cơ sở thống
nhất tư tưởng của nó, nền tảng lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện
thực là tư tưởng vĩ đại của chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng tự do và
độc lập của nhân cách con người, sự thừa nhận quyền con người.
Chủ nghĩa nhân đạo là cơ sở lí tưởng thẩm mĩ của nghệ thuật
hiện thực. Khi định nghĩa bản chất của nó, nhà dân chủ nhân văn vĩ
đại của Nga Belinxki đã viết: “Niềm kính trọng đối với tên tuổi
con người, tình yêu bao la đối với con người chỉ vì rằng anh ta là
con người, không có bất kì quan hệ nào đối với nhân cách, dân tộc,
tôn giáo, thứ bậc, thậm chí cả phẩm giá hay không phẩm giá của
riêng anh ta”. Do đó, ta có thể chứng minh rằng không một lập
trường, quan điểm triết học, chính trị xã hội và các quan điểm khác
có thể ngăn cách Seecxpia và Xecvantec, Ban – dắc và X-tăng –
đan…tất cả họ đều có chung tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa là “nỗi
đau về con người”(Dobroliabop) mà với mức độ khác nhau, nó
thúc đẩy sự khám phá đặc điểm bi kịch của sự sống con người
trong những điều kiện xã hội có áp bức, bóc lột.


Xuất phát từ lí tưởng nhân đạo nêu trên, lí tưởng thẩm mĩ của
chủ nghĩa hiện thực có liên quan chặt chẽ với nhiệm vụ trung tâm
của nó – tái hiện một cách nghệ thuật chân lí cuộc sống. Đối với
nhà hiện thực, cái đẹp trong nghệ thuật là cuộc sống được phản ánh
một cách trung thực. Thiếu sự thật, nói chung sẽ không có cái đẹp
trong nghệ thuật. Cái đẹp trong cuộc sống được miêu tả một cách
sai lệch sẽ làm mất vẻ đẹp trong nghệ thuật và có thể trở thành què
quặt. Cái đẹp trong nghệ thuật hiện thực là chân lí của cuộc sống
được tái tạo dưới dạng nghệ thuật hoàn chỉnh, phù hợp “Bởi vì đối
tượng của thơ ca là chân lí, cho nên vẻ đẹp vĩ đại nhất chính là ở
chân lí, ở sự giản dị, còn tính chân thực và tự nhiên tạo điều kiện

cần thiết cho một sáng tác nghệ thuật chân chính” (Plekhanop).
Như vậy, mĩ học hiện thực chủ nghĩa chú trọng tính khách
quan của sự thể hiện nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện thực cố gắng tái
hiện thực tế một cách toàn vẹn, chân thực lịch sử - cụ thể và nhìn
thấy ý nghĩa, tác dụng xã hội của nghệ thuật trong tính đúng đắn
của sự miêu tả, trong tính chân thực đầy sự thuyết phục của hình
tượng được sáng tạo. Lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực đã
quy định các nguyên tắc tái hiện đời sống, đó là:
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể (xem xét sự vật trong một hoàn cảnh
cụ thể, nhìn sự vật bao giờ cũng từ quá trình phát sinh, phát triển,
chuyển hóa);


-Nguyên tắc miêu tả đời sống bằng hình tượng tương ứng với bản
chất của đời sống chứ không bóp méo;
- Nguyên tắc chú trọng mối quan hệ biện chứng giữa tính cách điển
hình và hoàn cảnh điển hình;
- Nguyên tắc biểu hiện khách quan để sự vật, hiện tượng tự bộc lộ.
Có thể nói, chính lí tưởng thẩm mĩ và các nguyên tắc sáng tác
của chủ nghĩa hiện thực nêu trên đã giúp các nhà văn hiện thực
phát hiện được những mâu thuẫn của thực tế, khám phá bản chất
của các mối quan hệ sâu hơn bất kì nghệ sĩ nào thuộc các trào lưu
trước. Nhân vật của Ban-dắc thấy trong xã hội đương thời “đồng
tiền là điểm tựa cho trí thông minh” và những suy tưởng, trầm tư
về triết học, về “tồn tại hay không tồn tại” trở thành “có lợi tức hay
không có lợi tức”. Tình yêu trong tác phẩm hiện thực cũng chịu sự
chi phối của hoàn cnahr xã hội như mọi quan hệ khác. Các nhà
hiện thực cũng chấm dứt cả sự lí tưởng hóa nông thôn trong văn
học lãng mạn. Trong tác phẩm của Ban –dăc, nông thôn sôi sục
đấu tranh giai cấp. Do biểu hiện được bản chất và quy luật của

thực tế, các tác phẩm hiện thực có giá trị nhận thức hết sức to lớn
và chính giá trị nhận thức ấy đã hướng con người muốn vươn tới
một xã hội tốt đẹp hơn.
2. Văn học hiện thực phê phán Việt Nam ra đời sau phương Tây
hàng thế kỉ. Với sự tiếp thu, kế thừa có sáng tạo, văn học hiện thực
1930-1945 ở nước ta đã đạt được những thành tựu khá nổi bật,


không thể không nhắc đến trong tiến trình phát triển của văn học
dân tộc. Chỉ trong vòng 15 năm, trào lưu văn học hiện thực phê
phán Việt Nam đã để lại nhiều tên tuổi lớn như Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phung, Nguyên Hồng… và đỉnh cao
là nhà văn Nam Cao.
Nam Cao đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc cùng trên các đề
tài mà các nhà văn lớp trước đã đào xới kĩ, song vì biết “khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” nên ông
đã có dược những thành công nổi bật. Trong sự nghiệp sáng tác
của ông, trước hết ta phải kể đến kiết tác Chí Phèo.
Truyện ngắn Chí Phèo in lần đầu tiên vào năm 1941. Với tác
phẩm này, Nam Cao đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật hiện thực.
Trong Trăng sáng (1943), Nam Cao đã phát biểu tuyên ngôn
nghệ thuật của mình: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh
trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể
là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Theo
Nam Cao, người cầm bút không được trốn tránh sự thực, mà hãy
“cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động
của cuộc đời…”. Rõ ràng, lí tưởng thẩm mĩ của Nam Cao chính là
lí tưởng thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực: cái đẹp trong nghệ thuật
là cuộc sống được phản ánh một cách trung thực.
Thật vậy, trong kiệt tác Chí Phèo, cuộc sống được phản ánh

một cách trung thực ấy là xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách


mạng tháng Tám 1945. Các nhân vật, sự kiện của tác phẩm hầu
như được Nam Cao lấy từ nguyên mẫu cuộc đời thực. Đó là những
con người, những sự việc của làng Đại Hoàng quê hương ông mà
trong tác phẩm là làng Vũ Đại. Đã là người, có mấy ai chẳng yêu
quý và gắn bó với mảnh đất quê hương mình? Song điều đó không
thể ngăn ông chỉ ra hiện thực tàn nhẫn trên mảnh đất ấy. Có thể
nói, chính tình cảm với những người nông dân chất phác ở quê
hương đã khiến Nam Cao phải viết về hiện thực cuộc sống tối tăm
của họ dưới ách áp bức bóc lột của bọn địa chủ cường hào, để từ
đó góp thêm tiêng nói tố cáo gay gắt xã hội thực dân nửa phong
kiến.
Không gian nghệ thuật của tác phẩm rất nhỏ hẹp: làng Vũ
Đại, một làng quê ở vùng đồng chiêm trũng, xa phủ, xa tỉnh. Thế
nhưng, nó lại điển hình cho bức tranh làng quê Việt Nam trước
Cách mạng. Có thể nói, nó như một xã hội nông thôn Việt Nam thu
nhỏ dưới chế độ thực dân. Ở đó có bọn cường hào, địa chủ ác bá.
Dưới chế độ xã hội đương thời, quan chức được mua bằng tiền nên
bọn chức dịch trong làng rất đông. Chúng chia năm bè bảy cánh.
Một mặt chúng kết lại để hà hiếp, bóc lột nông dân. Mặt khác,
chúng muốn cưỡi lên đầu lên cổ nhau, muốn cho nhau “ăn bùn”.
Thực chất, chúng là một đàn cá tranh mồi. Cũng vì miếng ăn, mỗi
kẻ đều tìm cho mình một mánh khóe sống. Nam Cao đã xây dựng
được một nhân vật điển hình về bọn cường hào ác bá ấy là Bá Kiến


“khôn róc đời”. Hắn có đầy đủ mánh khóe của một con cáo già:
“thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “một

người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng” và biết “nắm thằng có
tóc chứ không ai nắm thằng chọc đầu”, “lấy thằng đầu bò trị thằng
đầu bò”…Đã có nhiều bè cánh, trong làng lại có một “tiên chỉ
làng” như Bá Kiến, thử hỏi người nông dân nào còn ngóc đầu lên
được?
Người nông dân trong tác phẩm ấy có cuộc sống thật bần
cùng, tối tăm. Cuộc sống của Thị Nở, bà cô thị, tự Lãng…đâu có
thể gọi là sống mà chỉ là tồn tại. Viết về nỗi khổ của người nông
dân, trước Nam Cao đã có chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố,
anh Pha trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan…vậy mà
những con người ấy đâu đã khổ nhất. Với hình tượng nhân vật Chí
Phèo, Nam Cao còn phát hiện ra con người “cùng hơn cả dân
cùng” trong xã hội ấy. Sự thối nát của xã hội nông thôn Việt Nam
trước Cách mạng là mảnh đất màu mỡ sản sinh ra những con người
như Chí Phèo. Bởi Chí Phèo sinh ra đâu đã phải là kẻ lưu manh?
Anh vốn là người lương thiện, thưở nhỏ sống trong tình yêu
thương đùm bọc của dân làng, lớn lên sống lương thiện bằng sức
lao động của mình và rất có lòng tự trọng. Ngòi bút hiện thực của
Nam Cao đã chỉ ra tính cách rất người của anh “hai mươi tuổi,
người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt”. Chí
Phèo thấy nhục khi bị bà ba Bá Kiến gọi đế để đấm lưng hay bóp


chân gì đó…Như vậy, trước khi là một kẻ lưu manh, một con quỷ
dữ, Chí Phèo là một Con Người. Chính xã hội thối đã đẩy Chí
Phèo vào con đường lưu manh hóa. Chỉ vì ghen, Bá Kiến ngấm
ngầm đẩy Chí Phèo vào tù mà bản thân Chí không rõ lí do gì. Và
nhà tù thực dân ấy đã nhào nặn Chí từ một con người trở thành tên
lưu manh, thành con quỷ dữ. Trước đây hắn hiền lành, lương thiện,
tự trọng là thế, giờ chuyên nghề đâm thuê, chém mướn, rạch mặt

ăn vạ. Trước đây người làng quý hắn là thế, giờ thấy hắn là tránh
mặt, không ai coi hắn là một con người. Hỏi nỗi khốn cùng nào
hơn? Có thể nói, hình tượng người nông dân bị tha hóa, lưu manh
hóa là hình tượng nói lên được nỗi đau khổ ghê gớm nhất của
những con người bé nhỏ. Với phương châm “nghệ thuật không
phải là ánh trăng lừa dối”, Nam Cao đã vạch trần cái xấu xa mục
nát của xã hội đương thời, nhằm giúp người đọc nhận thức được
bản chất của xã hội ấy mà muốn vươn tới một xã hội tươi sáng
hơn. Lí tưởng thẩm mĩ ấy của Nam Cao thật nhân đạo.
Cũng xuất phát từ lòng nhân đạo mà ông còn phát hiện ra bản
chất Người không thể mất của người nông dân như Chí Phèo. Tình
yêu thương chân thành của người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”
dành cho Chí đã cảm hóa được một tâm hồn tội lỗi. Song một lần
nữa Nam Cao chỉ ra rằng muốn làm người trong xã họi ấy thật khó
biết bao. Ước mơ lương thiện, cuộc sống có vợ có chồng của Chí
bị dập tắt. Người ta không coi Chí Phèo là một con người, lời nói


của bà cô Thị Nở chính là tiêu biểu cho định kiến của xã hội với
Chí Phèo. Trong cơn phẫn uất, Chí xách dao đến nhà Bá Kiến giết
kẻ thù và tự kết thúc cuộc đời mình. Câu hỏi “Ai cho tao lương
thiện?” chính là lời kết tội đanh thép chế độ xã hội đương thời.
Hiện tượng Chí Phèo đâu phải là cá biệt? Trước chí Phèo đã có
Năm Thọ, Binh Chức vốn hiền như cục đất trở thành lưu manh.
Chí Phèo chết, biết đâu lại chẳng có một Chí Phèo con cũng vẫn có
cuộc đời như thế nếu như cái xã hội thối nát ấy vẫn tồn tại? Bi kịch
bị cự tuyệt quyền làm người của Chí gợi ở người đọc nỗi thương
cảm xót xa, đồng thời cũng giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp
tâm hồn của người lao động. Trong giông bão cuộc đời, bản chất
lương thiện của họ không dễ bị triệt tiêu. Chí Phèo chỉ có thể ác

trong những cơn say. Chí phải uống say để tự biến mình thành một
con sói. Bởi trong xã hội đầy hùm beo hổ báo ấy, nếu là một con
cừu hiền lành thì sao có thể tồn tại? Nhưng khi tỉnh rượu, ý thức
được cuộc đời mình, lại thêm sự chăm sóc của Thị Nở điều đầu
tiên Chí khao khát có được là hạnh phúc giản dị, lương thiện. Khao
khát ấy là minh chứng cho phần Người không thể mất trong Chí
Phèo. Ở đây Nam Cao không chỉ thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông,
chia sẻ với bi kịch của người nông dân mà còn tỏ thái độ bênh vực
họ, thể hiện niềm tin của nhà văn vào bản chất tốt đẹp vốn có của
người lao động.


Qua truyện ngắn Chí Phèo, một tác phẩm tuyệt với của văn
học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945, ta thấy rõ ràng cái
đẹp của nghệ thuật đâu phải chỉ có ngợi ca, mơ mộng. Nó phải
được xuất phát từ cuộc sống, gắn với cuộc sống. Cái đẹp của nghệ
thuật không chỉ là nhìn thấy và ngợi ca vẻ lung linh, huyền ảo, thơ
mộng mà còn là phát hiện cái đẹp khuất lấp sau những lấm lem,
cát bụi của cuộc đời. Cái đẹp của nghệ thuật là phải làm cho con
người ta nhận thức sâu sắc về cuộc sống, giúp con người sống tốt
hơn, thôi thúc, khích lệ con người có suy nghĩ, hành động nhằm
hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh
hơn. Lí tưởng thẩm mĩ ấy mới thật cao cả vì cuộc đời là nơi xuất
phát cũng là nơi đi đến của văn học.
3. Chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu văn học tiến bộ, mang tính
dân chủ và nhân dân sâu sắc. Với tinh thần khám phá sâu sắc bản
chất của hiện thực đời sống trên nền tảng tư tưởng tiến bộ của mọi
nền nghệ thuật trong mọi thời đại là chủ nghĩa nhân đạo, lí tưởng
thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực không bao giờ cũ. Nó luôn hướng
tới chân giá trị vĩnh hằng của con người và cuộc đời; thể hiện khát

vọng vươn tới sự hài hòa giữa con người và môi trường sống, giữa
sự phát triển chân chính của mỗi cá nhân với gia đình, cộng đồng
và nhân loại. Chính điều đó là một trong những cơ sở chắc chắn
để đảm bảo cho trào lưu văn học này còn tồn tại và phát triển trong
văn học thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng.


Trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945
phát triển mạnh mẽ, để lại nhiều tên tuổi, nhiều kiệt tác văn
chương và những điển hình nghệ thuật bất hủ, đem lại vinh quang
cho nền văn học nước ta. Lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp của chủ nghĩa
hiện thực đã được nhiều cây bút của văn học thời kì đổi mới như
Nguyễn Minh Châu, Lưu Quang Vũ, Phạm Thị Hoài…kế thừa và
phát huy mạnh mẽ.



×