Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Hoạt động giám sát của đại biểu quốc hội và đoàn đại biểu quốc hội ở việt nam hiện nay qua thực tiễn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.55 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI MẠNH KHOA

HO¹T §éNG GI¸M S¸T CñA §¹I BIÓU QUèC HéI
Vµ §OµN §¹I BIÓU QUèC HéI ë VIÖT NAM HIÖN NAY
- QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ MINH THÔNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Bùi Mạnh Khoa


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI .......... 9
1.1.

Hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
quốc hội tỉnh ..................................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát............................................................. 9
1.1.2. Phân biệt giám sát với hoạt động thanh tra, kiểm tra trong quản
lý nhà nước ....................................................................................... 13
1.2.

Địa vị pháp lý của Đại biểu quốc hội và Đoàn đại biểu quốc
hội trong hoạt động giám sát.......................................................... 19

1.2.1. Vị trí của đại biểu Quốc hội .............................................................. 19
1.2.2. Vị trí, vai trò của Đoàn đại biểu Quốc hội ........................................ 25
1.3.


Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát ............................. 26

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH
THANH HÓA ................................................................................. 30
2.1.

Khái quát về hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa....................................... 30

2.1.1. Tổng quan về Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Thanh Hóa khóa XII và XIII ............................................................. 30


2.1.2. Đặc điểm địa kinh tế, chính trị tỉnh Thanh Hóa tác động đến hoạt
động giám sát của Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa ...................... 33
2.1.3. Tổng quan về thực trạng hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu
Quốc hội tỉnh Thanh Hóa khóa XII và XIII ...................................... 34
2.2.

Thực trạng triển khai các hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tại Thanh Hóa .................... 36

2.3.

Thực trạng công tác phối hợp giữa Đoàn đại biểu Quốc hội
với các cơ quan hữu quan .............................................................. 54

2.4.


Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn hoạt động giám sát của đại
biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa ...................................................................................... 56

2.4.1. Tạo điều kiện cho đại biểu Quốc hội chủ động thực hiện quyền
và trách nhiệm giám sát .................................................................... 56
2.4.2. Xác định đối tượng và phạm vi nội dung giám sát ............................ 56
2.4.3. Lập đoàn giám sát và triển khai hoạt động giám sát .......................... 57
2.4.4. Việc phối hợp giữa Đoàn đại biểu Quốc hội với các cơ quan hữu quan ....... 57
2.4.5. Việc xây dựng Kết luận giám sát và triển khai kết luận giám sát ...... 58
2.4.6. Giám sát hậu giám sát và giao trách nhiệm cho Hội đồng nhân
dân tiếp tục giám sát ......................................................................... 58
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH ............... 60
3.1.

Phương hướng ................................................................................ 60

3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát ......... 60
3.1.2. Đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Đại biểu Quốc hội, Đoàn
Đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát ..................................... 61
3.1.3. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh ......................................... 63


3.1.4. Nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả trong hoạt động giám
sát của Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội .......................... 72
3.2.


Giải pháp ......................................................................................... 74

3.2.1. Tạo điều kiện để Đại biểu Quốc hội độc lập, tự chủ trong hoạt
động giám sát ................................................................................... 74
3.2.2. Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp triển khai hoạt
động giám sát ................................................................................... 76
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa Đoàn đại biểu Quốc hội với Hội
đồng nhân dân, các cơ quan chuyên môn và đoàn thể ở địa
phương ............................................................................................. 78
3.2.4. Nâng cao chất lượng xây dựng kết luận giám sát và giám sát việc
thực hiện các kết luận giám sát ......................................................... 81
3.2.5. Công khai hóa các hoạt động giám sát và phát huy vai trò của
truyền thông...................................................................................... 81
3.2.6. Đổi mới sự phối hợp giữa Đoàn đại biểu Quốc hội với các Đoàn
giám sát tối cao của Quốc hội tại địa bàn tỉnh ................................... 82
3.2.7. Nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy giúp việc cho Đoàn đại
biểu Quốc hội tỉnh ............................................................................ 83
KẾT LUẬN ................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 88


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐBQH:

Đại biểu Quốc hội

HĐDT:


Hội đồng dân tộc

HĐND:

Hội đồng nhân dân

QH:

Quốc hội

UBMTTQ:

Ủy ban mặt trận tổ quốc

UBND:

Ủy ban nhân dân

UBTVQH:

Ủy ban thường vụ Quốc hội


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang


Bảng 1.1: Phân biệt sự khác nhau giữa giám sát và thanh tra,
kiểm sát

15

Bảng 2.1: Số chất vấn của đại biểu Quốc hội thuộc Đoàn đại
biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đê tài
Cùng với tiến trình xây dựng và hoàn thiện của bộ máy nhà nước, Quốc
hội Việt Nam ngày càng được hoàn thiện cả về tổ chức và phương thức hoạt
động. Thông qua các hoạt động của mình, Quốc hội khẳng định được vị trí,
vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan duy nhất có quyền
lập hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Chức năng giám sát là một trong những chức năng cơ bản của Quốc
hội, giám sát là việc Quốc hội sử dụng các phương tiện và công cụ của mình
để tìm hiểu chính sách, pháp luật do Quốc hội ban hành được thực thi ra sao,
các cơ quan Nhà nước thực hiện như thế nào, trên cơ sở đó để bảo vệ lợi ích
của đất nước, của nhân dân và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của nhà nước, thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, bảo đảm tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Như
vậy, có thể khẳng định vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội là vô cùng to
lớn, làm cho Quốc hội hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Theo quy định của
pháp luật, chủ thể hoạt động giám sát của Quốc hội bao gồm: Đại biểu Quốc
hội; Đoàn đại biểu Quốc hội; Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội;

Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Quốc hội.
Việc nghiên cứu về quyền giám sát và hoạt động giám sát của Quốc hội
Việt Nam đã được quan tâm từ nhiều năm nay. Song chủ yếu mới chỉ tập
trung nghiên cứu về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội mà chưa
đi sâu nghiên cứu về hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại
biểu Quốc hội.
Thực tiễn từ khi triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt
động giám sát của Quốc hội cho thấy, kể từ khi Luật hoạt động giám sát của

1


Quốc hội có hiệu lực thì hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung, của Đại
biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích
cực, đã tập trung vào những vấn đề mà cử tri quan tâm, do đó góp phần ổn
định chính trị, kinh tế xã hội ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung, của Đại biểu
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu “Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội
và Đoàn đại biểu Quốc hội, đồng thời là cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội; Luật Tổ chức Quốc hội.
Mặt khác, đề tài luận văn ở mức độ nhất định có ý nghĩa thiết thực cả
về lý luận và thực tiễn, góp phần vào việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội nói chung, Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội tỉnh, thành phố nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, về hoạt động của Quốc hội nói chung và

hoạt động giám sát của Quốc hội nói riêng đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà luật học, chính
trị học, xã hội học. Qua các tài liệu nghiên cứu hiện hành và các công trình
khoa học đã được công bố cho thấy hoạt động giám sát của Quốc hội nói
chung, hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội
nói riêng đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi tư
liệu bao quát được các công trình nghiên cứu về chức năng giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội chúng tôi tập hợp được
những ý kiến sau đây:
Trong các công trình nghiên cứu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

2


nghĩa Việt Nam - những khía cạnh pháp lý theo hiến pháp và luật tổ chức
Quốc hội của tác giả Nguyễn Đăng Dung; Đề tài nghiên cứu Tăng cường hoạt
động giám sát của Quốc hội nước ta hiện nay do Viện Nhà nước và pháp luật,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì đã đề cập tới những vấn đề
lý luận chung của giám sát như khái niệm, bản chất, hình thức, nội dung của
hoạt động giám sát của Quốc hội.
Tác giả Phạm Văn Kỳ trong công trình nghiên cứu Về quyền giám sát
tối cao của Quốc hội đã tập trung làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm quyền
giám sát tối cao của Quốc hội, đối tượng của quyền giám sát tối cao, các
phương thức giám sát cũng như thực trạng của của hoạt động giám sát này.
Trong bài viết Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở
nước ta và trong công trình nghiên cứu Một số vấn đề hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tác giả
Lê Minh Thông đã đặt vấn đề Quốc hội cần thiết phải thành lập một ủy ban
chuyên trách và việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tác giả Đào Trí Úc trong Về chức năng kinh tế, xã hội của nước ta và
những cơ sở hiến định của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước; Tác giả Võ
Khánh Vinh trong bài viết Giám sát thực hiện quyền lực nhà nước đã đề cập
vấn đề nghiên cứu, xem xét việc thành lập cơ quan giám sát chuyên trách
thuộc Quốc hội.
Trong công trình nghiên cứu Quyền giám sát của Quốc hội - Nội dung,
thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu tác giả Nguyễn Sĩ Dũng đã chỉ ra những nội
dung cơ bản về quyền giám sát của Quốc hội.
Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XI năm 2003 Quốc hội đã thông qua
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. Đây là đạo luật rất quan trọng, thể chế
hóa đường lối của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, quy định

3


về trình tự, thủ tục thẩm quyền giám sát của Quốc hội nói chung và hoạt động
giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội nói riêng. Theo
Luật Quốc hội số 05/2003/QH11 của Quốc hội đã quy định luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám
sát của Quốc hội, góp phần đảm bảo cho Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Ủy
ban thường vụ Quốc hội được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong đó,
chương 5 từ điều 37 đến điều 44 đã quy định hoạt động giám sát của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.
Trong các công trình nghiên cứu Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập
pháp của Quốc hội; Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn;
Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội do Văn
phòng Quốc hội chủ trì cũng đã đề cập đến hoạt động giám sát của Quốc hội.
Đề tài nghiên cứu Quy trình và thủ tục trong hoạt động của Quốc hội,
do Ban Công tác lập pháp chủ trì cũng đã chỉ ra được các quy trình và thủ tục
trong hoạt động của Quốc hội.

Các công trình nghiên cứu khoa học như Kỹ năng giám sát của Đại
biểu Quốc hội do Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử, Ban công tác đại
biểu ủy ban thường vụ Quốc hội chủ trì; Tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát
của Quốc hội từ thực tiễn Quốc hội khóa XII của tác giả Đinh Xuân Thảo;
Hoạt động giám sát của QH, những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả
Đinh Xuân Thảo và Lê Như Tiến,… nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn, những kỹ năng giám sát của Đại biểu Quốc hội trong hoạt động
giám sát của Quốc hội.
Trong các công trình nghiên cứu Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo
chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của tác giả Trương Thị Hồng Hà; Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nâng
cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam của tác

4


giả Trần Tuyết Mai; Nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của ủy ban
pháp luật Quốc hội ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Dung; Bài viết
của tác giả Nguyễn Thị Nguyệt về Một vài suy nghĩ về hoạt động giám sát của
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội,… đã nghiên cứu hoạt động
giám sát của Quốc hội trên một số lĩnh vực cụ thể và kiến nghị tăng cường mối
quan hệ phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện chức năng giám sát.
Trong Kỷ yếu của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa khóa XI và
Kỷ yếu của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa khóa XII đã chỉ ra được
các hoạt động của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh
Hóa. Trong đó có đề cập đến các hoạt động giám sát của Đại biểu quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh Thanh Hóa
Bên cạnh các công trình nêu trên còn rất nhiều các công trình nghiên
cứu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành và báo cáo tại các hội nghị, hội
thảo đề cập đến vấn đề hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan của

Quốc hội nói chung. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học
chuyên sâu nào nghiên cứu hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố nói chung và hoạt động giám sát của
Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Các
ý kiến và kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về hoạt động giám sát của
Quốc hội nói chung và hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại
biểu Quốc hội nói riêng là những gợi mở cần thiết để tác giả luận văn đi sâu
trình bày rõ hơn về vấn đề hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn
đại biểu Quốc hội qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của Đại
biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, đề xuất những giải pháp nhằm

5


nâng cao hiệu quả giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội
tỉnh, thành phố trong điều kiện xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Tổ
chức và hoạt động của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm giám sát cũng như khái quát được những nét cơ bản
về đối tượng, nội dung, phạm vi, hình thức giám sát của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; các yếu tố bảo đảm cho hiệu quả giám sát, các
tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội tỉnh, thành phố.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và hiệu quả hoạt
động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh

Hóa từ khóa XII đến nay (từ năm 2007 - đến nay)
- Đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp luật
như: Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội, đặc biệt là Luật hoạt động giám sát của Quốc hội.
- Nêu ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trong giai đoạn hiện nay
và những năm tiếp theo.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động giám sát của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay, thông qua thực
tiễn hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Thanh Hóa từ khóa XII đến nay (từ năm 2007 đến nay), đồng thời đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn

6


đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố nói chung và của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn đại biểu Quốc hội Thanh Hóa nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành.
- Phương pháp phân tích, phỏng vấn sâu, thống kê, so sánh, tổng hợp
để làm nổi bật chức năng giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.
6. Những đóng góp của đề tài
- Luận văn nêu được khái niệm giám sát cũng như khái quát được
những nét cơ bản về đối tượng, nội dung, phạm vi, hình thức giám sát của Đại
biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; các yếu tố bảo đảm cho hiệu

quả giám sát, các tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của Đại biểu Quốc hội
và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố.
- Đánh giá toàn diện thực trạng hoạt động giám sát và hiệu quả hoạt
động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh
Hóa từ khóa XII đến nay (từ năm 2007 - đến nay) trên cơ sở đó đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại
biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
- Xem xét giữa lý luận và thực tiễn để đề xuất việc sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện các quy định của pháp luật như: Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế
hoạt động của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, đặc biệt là Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:

7


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động giám sát của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội.
Chương 2: Hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại
biểu Quốc hội qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt
động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội tỉnh.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT

CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

1.1. Hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
quốc hội tỉnh
1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát
“Giám sát” nguyên gốc là một từ Hán - Việt, có nghĩa là: “xem xét và
bàn bạc”. Theo từ điển tiếng Việt, thì “giám sát là theo dõi, kiểm tra việc
thực thi nhiệm vụ” [14].
Nhìn từ góc độ thực thi quyền lực nhà nước thì giám sát được hiểu là sự
theo dõi, kiểm tra đối với việc thực thi quyền lực nhà nước của các cá nhân, tổ
chức có thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (sau đây viết tắt là QH),
khái niệm “giám sát” được định nghĩa như sau: Giám sát là việc Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội (sau đây viết tắt là UBTVQH), Hội đồng dân tộc
(sau đây viết tắt là HĐDT), Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội
(sau đây viết tắt là Đoàn ĐBQH), Đại biểu Quốc hội (sau đây viết tắt là
ĐBQH) theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH, pháp
lệnh, nghị quyết của UBTVQH.
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ "giám sát" có
khác nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: Giám
sát là việc theo dõi, xem xét, kiểm tra, đánh giá một chủ thể nào đó về một
việc làm đã thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy định
để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt
được những mục đích hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định

9


thực hiện đúng và đầy đủ. Như vậy hoạt động giám sát nào cũng cần đến hai

giai đoạn, giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra và giai đoạn đánh giá; theo
dõi, xem xét, kiểm tra làm tốt thì đánh giá sẽ đúng đắn, chính xác, cuộc giám
sát sẽ có kết quả tích cực và ngược lại.
Quyền lực của Nhà nước là thống nhất. Quyền lực này xuất phát từ sự
“ủy quyền” của cử tri cả nước. Mặt khác, nhằm bảo đảm tính chuyên trách và
hiệu quả của việc thực thi quyền lực nhà nước, một yêu cầu được đặt ra là
phải có sự chuyên môn hóa trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Do đó, để đáp ứng yêu cầu trên, nguyên tắc quyền lực không phân
chia trong việc thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta được ứng dụng một
cách uyển chuyển tuyệt vời thành “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước”.
Trong quá trình phân công thực thi quyền lực nhà nước, tất sẽ nảy sinh
những sai sót bởi các cá nhân, tổ chức thừa ủy quyền của Quốc hội. Nhằm chấn
chỉnh và ngăn ngừa những nguy cơ như vậy, cần thiết phải có cơ chế giám sát.
Hoạt động giám sát của ĐBQH là hoạt động thực hiện một trong ba
chức năng cơ bản của Quốc hội, đó là chức năng giám sát toàn bộ hoạt động
của nhà nước. Với vai trò là thành viên của Quốc hội, ĐBQH giám sát thông
qua các hoạt động sau:
- Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính Phủ, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp
luật ở địa phương;
- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
ĐBQH tự mình giám sát hoặc tham gia hoạt động giám sát cùng Đoàn
ĐBQH, tham gia hoạt động giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.

10



Căn cứ vào kết quả giám sát, ĐBQH có quyền: Kiến nghị, yêu cầu các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi
hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật mới; kiến nghị cơ quan tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền, giải quyết các vấn đề có liên quan đến chủ trương, chính sách
pháp luật của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, yêu cầu cơ
quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp kịp thời chấm
dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm xử lý người vi phạm, khôi
phục lợi ích của nhà nước, lợi ích của tổ chức, cá nhân vi phạm.
Thực hiện hoạt động giám sát ĐBQH phải đảm bảo nguyên tắc công
khai, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp
luật; không làm cản trở hoạt động bình thường của cá nhân, tổ chức bị giám
sát. ĐBQH chịu trách nhiệm về quyết định, yêu cầu, kiến nghị, giám sát của
mình và báo cáo cử tri địa phương về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Hàng năm và sáu tháng, ĐBQH đăng ký chương trình thực hiện hoạt
động giám sát ở địa phương với Đoàn ĐBQH ở địa phương để đưa vào
chương trình giám sát. Đoàn ĐBQH có trách nhiệm tổ chức thực hiện các
hoạt động giám sát và tổ chức để ĐBQH trong đoàn thực hiện chương trình
giám sát của cá nhân. Kết quả thực hiện chương trình giám sát của cá nhân
ĐBQH và Đoàn ĐBQH được Đoàn báo cáo định kỳ sáu tháng và hàng năm
tới Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Với các phân tích trên, giám sát có những đặc trưng sau:
- Thứ nhất, giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả
lời được câu hỏi ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi,
xem xét, kiểm tra và đưa ra những đánh giá, nhận định về một việc làm nào
đó đã được thực hiện đúng hay sai so với các quy định hiện hành;
- Thứ hai, giám sát bao giờ cũng cần 2 giai đoạn: Giai đoạn theo dõi,

11



xem xét, kiểm tra và giai đoạn đánh giá, đưa ra kiến nghị, kết luận. Trong đó,
giai đoạn thứ nhất là cơ sở để thực hiện giai đoạn thứ hai. Nếu giai đoạn theo
dõi, xem xét, kiểm tra làm tốt thì việc đánh giá, kết luận sẽ đúng đắn, chính
xác và cuộc giám sát sẽ có hiệu quả và ngược lại.
- Thứ ba, giám sát cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, giám sát ai?
giám sát việc gì ? Đặc điểm cơ bản này cho chúng ta phân biệt giữa giám sát
và kiểm tra. Bởi nói tới kiểm tra thì chủ thể hoạt động kiểm tra và đối tượng
chịu sự tác động này có thể đồng nhất là một. Đó là trường hợp chủ thể tự
kiểm tra hoạt động của mình, tức là tự xem xét đánh giá tình trạng tốt xấu của
công việc đang làm để từ đó có hướng khắc phục. Nhưng trong hoạt động
giám sát thì không thể có tình trạng tự chủ thể hoạt động quan sát chính hành
vi của mình mà phải là hoạt động theo dõi, thẩm tra và xem xét của một chủ
thể khác, từ đó đưa ra kết luận và kiến nghị. Khác với kiểm tra, thanh tra, nội
dung hoạt động giám sát bao giờ cũng được báo trước cho đối tượng bị giám
sát một thời gian nhất định. Cũng có ý kiến cho rằng, trong cơ chế giám sát có
cả việc tự giám sát tức là sự tự theo dõi, xem xét và kiểm tra chính mình có
thực hiện đúng những điều đã quy định không. Với quan niệm như vậy e rằng
không đúng, không phù hợp với bản chất của từ giám sát, bởi bên cạnh khái
niệm giám sát còn có khái niệm kiểm tra.
- Thứ tư, giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia
vào hoạt động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền
và nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu giám sát.
- Thứ năm, giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp
luật quy định. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì: Nếu như thiếu
những quy định này thì chủ thể giám sát không có cơ sở để thực hiện quyền
giám sát và tiêu chí để đưa ra những nhận định về hoạt động của đối tượng
chịu giám sát.


12


- Thứ sáu, giám sát là hoạt động có tính mục đích. Trước hết, mục đích
của giám sát là đưa ra được những nhận định chính xác của chủ thể giám sát
đối với hoạt động của đối tượng chịu giám sát, từ đó có các biện pháp xử lý
đối với những việc làm sai trái nhằm bảo đảm cho những quy định của pháp
luật được thực hiện đúng và có hiệu quả. Như vậy, mục đích chung của giám
sát nhà nước cũng như giám sát xã hội là bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn,
minh bạch, liên tục của các cơ quan tổ chức, cá nhân có chức vụ quyền hạn
trong bộ máy nhà nước bộ máy nhà nước, trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật về nghĩa vụ, chức năng và thẩm quyền của họ.
Như vậy, thuật ngữ "giám sát" nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi
áp dụng của nó rất rộng, muốn có một khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát
phải gắn với một chủ thể xác định chẳng hạn như giám sát của QH, giám sát
của Hội đồng nhân dân, giám sát của nhân dân.
Căn cứ vào các yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào quy
định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội và Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội thì khái niệm giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH được hiểu như
sau: Giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH là việc ĐBQH chất vấn và tự mình
giám sát hoặc cùng với Đoàn ĐBQH giám sát việc thi hành pháp luật của địa
phương, giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân tỉnh, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH, Pháp lệnh, Nghị
quyết của UBTVQH được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất bảo đảm quyền
và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Phân biệt giám sát với hoạt động thanh tra, kiểm tra trong
quản lý nhà nước
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do nhân dân và vì nhân dân; tổ chức
và hoạt động của Nhà nước được quán triệt bởi nguyên tắc tất cả quyền lực


13


thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. Ở nước ta, quyền lực nhà nước là tập trung nhưng đồng thời có
sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực
này. Theo Hiến pháp năm 2013, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không chỉ ban
hành Hiến pháp, pháp luật để quản lý xã hội mà còn thường xuyên tiến hành
hoạt động giám sát, kiểm tra việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Theo Hiến pháp năm 2013 để bảo đảm thực hiện một cách có hiệu quả
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa, có thể nêu ra một số hình thức giám sát, kiểm tra của các cơ quan
nhà nước như: Giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH,
Đoàn ĐBQH; kiểm tra, thanh tra của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ
và cơ quan thanh tra Chính phủ; kiểm tra, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân
dân các cấp; kiểm tra của Toà án nhân dân thông qua hoạt động giám đốc
thẩm. Ngoài ra, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
còn chịu sự kiểm tra, giám sát của công dân, các tổ chức xã hội và đoàn thể
quần chúng đối với hoạt động của mình. Tuy nhiên, khác với các hoạt động
giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát trên, hoạt động kiểm tra, giám sát của
nhân dân và các đoàn thể xã hội không mang tính quyền lực nhà nước mà
nhằm thể hiện và bảo đảm tính chất dân chủ, công khai trong hoạt động của
bộ máy nhà nước.
Về cơ bản, giám sát, thanh tra và kiểm sát trong quản lý nhà nước đều
là những hoạt động kiểm soát việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của các cơ
quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn nhất định và nó được thể
hiện qua bảng kê và phân tích như sau:


14


Bảng 1.1: Phân biệt sự khác nhau giữa giám sát và thanh tra, kiểm sát
Giám sát

Thanh tra

- Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội;

- Thanh tra

Chủ thể thực - Các cơ quan được uỷ
hiện

chính phủ;

quyền;

- Thanh tra các

- Đoàn ĐBQH và cá nhân

cấp

đại biểu Quốc hội.

- Cơ quan hành chính

nhà nước, các cơ
quan khác trong Bộ
máy hành chính nhà
nước
Hoạt động lập quy,

Chủ tịch nước, Chính phủ
TW, chính quyền địa
Đối tượng

Kiểm tra

Hoạt động quản

phương, hoạt động của chính lý của cơ quan
phủ TW, chính quyền địa

nhà nước từ cấp

phương, toà án nhân dân,

bộ trở xuống

viện kiểm sát nhân dân

hoạt động áp dụng,
hoạt động xử lý vi
phạm, hoạt động
thanh tra, hoạt động
giải quyết khiếu nại,

tố cáo

Xem xét báo cáo, giám sát
hoạt động, giám sát việc

Theo quy định

Phương thức tuân thủ hiến pháp và pháp
thực hiện

của pháp luật về Theo quy định của

luật, giải quyết khiếu nại, tố công tác thanh
cáo, tổ chức các Đoàn giám

pháp luật hành chính

tra

sát, chất vấn…
- Đình chỉ, huỷ bỏ những
văn bản ban hành trái hiến
pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội.
Hậu quả
pháp lý

- Quyết định chủ trương, sửa
đổi, bổ sung, ban hành mới
các văn bản quy phạm pháp

luật
- Bãi nhiệm, miễn nhiệm các
chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn

15

Xử lý các vi
phạm chưa đến
mức là phạm tội Hủy bỏ, sử đổi, thay
trong hoạt động thế, đình chỉ thi hành
quản lý của cơ
quan nhà nước


Thanh tra, kiểm tra của cơ quan thanh tra là một chức năng quan
trọng của cơ quan quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng
cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra nhà nước được quy định tại
Điều 2, Điều 3 của Luật Thanh tra sửa đổi 2010. Theo đó cơ quan thanh tra
nhà nước tiến hành thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan quản lý
nhà nước cùng cấp. Ban thanh tra nhân dân giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị
trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước” và “Hoạt
động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật
để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục;
phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt

động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Về chủ thể: Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013 và Điều 14 của Luật
thanh tra sửa đổi năm 2010, quyền thanh tra thuộc về Chính phủ. Đây là hoạt
động tự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thi hành
Hiến pháp, pháp luật trong quá trình điều hành của Chính phủ.
Về mặt đối tượng: Theo quy định tại Mục I, Chương II của Luật Thanh
tra năm 2010, đối tượng của công tác thanh tra là: Hoạt động quản lý của các
cơ quan nhà nước từ cấp bộ trở xuống, bao gồm cả thanh tra hành chính là
thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước
(nói cách khác là kiểm tra hoạt động của chính bộ máy do mình quản lý) và

16


thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra việc chấp hành pháp luật,
những quy định về chuyên môn, kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực
thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà nước (hay còn gọi là thanh
tra theo ngành, lĩnh vực).
Về phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý: Phương thức thực hiện
được tiến hành theo các quy định của Luật thanh tra, chủ yếu là thông qua
việc thành lập các đoàn thanh tra. Kết quả của công tác thanh tra là xử lý các
vi phạm pháp luật (chủ yếu là xử lý vi phạm hành chính) trong hoạt động
quản lý của các cơ quan nhà nước, nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự
thì chuyển cho cơ quan điều tra để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền mà
không tự mình giải quyết.
Quyền giám đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao
Về mặt chủ thể: Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật
tổ chức Tòa án nhân dân thì Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao

nhất của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Toà án nhân dân tối
cao có thẩm quyền giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương
và Toà án quân sự các cấp. Như vậy, Toà án nhân dân tối cao là chủ thể của
hoạt động xem xét, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động xét xử
của ngành Toà án.
Về đối tượng chịu sự giám đốc: Căn cứ vào Hiến pháp năm 2013, đối
tượng chịu sự giám đốc của Toà án nhân dân tối cao là hoạt động xét xử của
Toà án nhân dân các cấp, các Toà án quân sự.
Về phương thức thực hiện: Toà án nhân dân tối cao thực hiện quyền
giám đốc theo các quy định của pháp luật về tố tụng.
Về hậu qủa pháp lý: Khi phát hiện có sai phạm pháp luật trong hoạt
động xét xử, Toà án nhân dân tối cao có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ bản án
của Toà án nhân dân cấp dưới (ra các quyết định kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm).

17


Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Về mặt chủ thể: Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, Điều 2 của
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm
quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được
thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Về đối tượng chịu sự giám sát: Đối tượng chịu sự giám sát của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao là hoạt động của các cơ quan tư pháp bao gồm các
cơ quan: Điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các cơ quan thực hiện các
hoạt động bổ trợ tư pháp. Đây là mối quan hệ về trình tự tố tụng trong hoạt
động giữa các cơ quan tư pháp.
Về phương thức thực hiện: Viện kiểm sát nhân tối cao khi tiến hành
hoạt động kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp phải tuân thủ các quy

định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các quy định của pháp luật
tố tụng có liên quan.
Về hậu quả pháp lý: Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong
hoạt động của các đối tượng nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
quyền ra kháng nghị đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm hoặc khởi
tố về hình sự (nếu có dấu hiệu tội phạm).
Như vậy, có thể thấy các hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh
tra đều là những hoạt động kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của
các cơ quan nhà nước. Sự khác nhau của hoạt động giám sát, kiểm tra giữa
các cơ quan chính là ở thẩm quyền, đối tượng, phạm vi, nội dung, phương
thức thực hiện và hậu quả pháp lý của nó. Để hiểu đúng chức năng giám sát
của Quốc hội cần phải thống nhất về mặt quan điểm là hoạt động giám sát,
kiểm tra không chỉ do Quốc hội mà còn do nhiều cơ quan nhà nước khác
thực hiện, tuỳ theo vị trí, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan này do
pháp luật quy định.

18


×