Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Mục tiêu của việc nghiên cứu về ID1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 66 trang )

A. Mục tiêu của việc nghiên cứu về IDS/IPS
o Việc nghiên cứu giúp cho khả năng tự học ,tìm hiểu và nghiên cứu
độc lập ngày càng tốt hơn
o Nghiên cứu về hệ thống ngăn ngừa và phát hiện xâm nhập IDS/IPS
o Triển khai hệ thống phất hiện, ngăn chặn các lưu lượng ra vào của hệ

thống là sự cần thiết cho các doanh nghiệp có nhu cầu về sự an toàn
của hệ thống trước những hành vi xâm nhập trái phép. Trước sự phát
triển của internet và sự hiểu biết của ngày càng sâu của con người thì
việc truy cập và phá hoại hệ thống mạng của một doanh nghiệp ,công
ty nào đó củng theo đà phát triển của internet mà tăng lên rất nhiều.
o Việc nghiên cứu này đáp ứng cho lãnh vực bảo mật và an ninh của hệ

thống.
B. Cấu trúc của đề tài
Đề tài này được chia làm 4 phần
I. Chương 1:Giới thiệu khái quát về hệ thống ngăn ngừa và phát hiện xâm
nhập IDS/IPS
1. Giới thiệu sơ các phương pháp xâm nhập vào hệ
thống
2. Các phương pháp phát hiện và ngăn ngừa xâm nhập
3. Sự đa dạng của IDS/IPS

4. So sánh giữa IPS và IDS
II. Chương 2: Tổng quan IDS
1. Định nghĩa IDS
2. Chức năng của IDS
3. Kiến trúc của IDS
4. Phân loại IDS

5. Công cụ hỗ trợ IDS


6. Các kỹ thuật xử lý trong IDS
7. Phân loại các dấu hiệu


III. Chương 3: Tổng quan IPS
1. Định nghĩa IPS
2. Chức năng của IPS
3. Kiến trúc của IPS
4. Phân loại IPS
5. Công cụ hỗ trợ IPS
6. Chữ ký và các kỹ thuật xử lý trong IPS

IV. Chương 4:Mô phỏng
1. Mục tiêu của mô phỏng

2. Mô hình mô phỏng
3. Các công cụ cần thiết để thực hiện mô phỏng

4. Các bước mô phỏng
5. Kết quả đạt được
6. Những mặt hạn chế


I.Chương 1:Giới thiệu khái quát về hệ thống ngăn ngừa và phát hiện xâm
Ngày nay, nhu cầu trao đổi dữ liệu qua hệ thống mạng máy tính trở thành vô
cùng quan trọng trong mọi hoạt động của xã hội. . Vấn đề bảo đảm an ninh, an toàn
cho thông tin trên mạng ngày càng là mối quan tâm hàng đầu của các công ty, các tổ
chức, các nhà cung cấp dịch vụ. Cùng với thời gian, các kỹ thuật tấn công ngày
càng tinh vi hơn khiến các hệ thống an ninh mạng trở nên mất hiệu quả. Các hệ
thống an ninh mạng truyền thống thuần túy dựa trên các tường lửa nhằm kiểm soát

luồng thông tin ra vào hệ thống mạng một cách cứng nhắc dựa trên các luật bảo vệ
cố định. Với kiểu phòng thủ này, các hệ thống an ninh sẽ bất lực trước kỹ thuật tấn
công mới, đặc biệt là các cuộc tấn công nhằm vào điểm yếu của hệ thống. Trước các
nguy cơ xâm nhập của những kẻ tấn công nhằm tìm kiếm dữ liệu mật của công
ty,doanh nghiệp,tổ chức, hay một quốc gia nào đó thì hệ thống IDS(Intrusion
Detection System ) ra đời để phát hiện sự xâm nhập trái phép của kẻ tấn công thông
qua việc kiểm soát lưu lượng giao thông của hệ thống mạng.
IDS chỉ kiểm tra và thông báo khi hệ thống có sự bất thường hoặc trái với một định
nghĩa mà người dùng đặt ra cho hệ thống , IDS không thể thực hiện việc ngăn chặn
ngay khi phát hiện xâm nhập xảy ra để thực hiện an ninh cho hệ thống mạng thì IPS
ra đời.
Hệ thống phòng chống xâm nhập IPS là một kỹ thuật an ninh được kết hợp các ưu
điểm của kỹ thuật tường lửa với hệ thống phát hiện xâm nhập IDS, có khả nǎng
phát hiện các cuộc tấn công và tự động ngǎn chặn các cuộc tấn công đó.
1. Giới thiệu sơ các phương pháp xâm nhập vào hệ thống


Các khả năng xâm nhập vào hệ thống mạng là:


Trinh sát(Reconnaissance attack)



Điều khiển truy cập(access control attack)

• Từ chối dịch vụ(Denial of service (DoS) attacks)
-Trinh sát(Reconnaissance):Để khởi động có hiệu quả một số loại tấn công, một
kẻ tấn công thường có nhu cầu hiểu biết về mô hình mạng và các phần cứng
đang dược sử dụng. Kỹ thuật thu thập loại thông tin này được gọi là trinh sát.

Trinh sát trên một đối tượng trong môi trường, không phải là một mối đe dọa,
nhưng kết quả của việc trinh sát thường được sử dụng sau này để tấn công một
hệ thống hoặc mạng. Vì vậy, sự đe dọa của các cuộc tấn công một trinh sát chủ
yếu là một trong những gián tiếp: sau khi mạng đã được quét, thông tin này sau
đó được sử dụng cho các cuộc tấn công. Thông thường các cuộc tấn công trinh
sát đi mà không bị phát hiện vì thường là chúng không có tác hại cho hệ thống
mạng.cách tốt nhất để phát hiện là xem trong tập tin đăng nhập,nhưng thường
củng không thể thấy trong tập tin đăng nhập này.Việc trinh sát này được xem là
một phương án khả thi có thể nói lá “tàn hình” để thu thập thông tin một cách
tốt nhất cho các kẻ tấn công tìm năng .
Các phương pháp dùng cho tấn công trinh sát:


Bằng dòng lệnh hoặc các tiện ích quản lý , nslookup , ping ,
telnet , finger....



Các công cụ hack như NMAP,Nessus,custom script…

Thực hiện trinh sát đòi hỏi phải biết sử dụng các dòng lệnh hoặc các tiện ích
quản lý như là sử dụng tiện ích nslookup để xem một địa chỉ ip của một
trang web.Kẻ tấn công có thể dễ dàng xác định không gian địa chỉ IP được
chỉ định cho một công ty cho hay một tổ chức. Lệnh ping cho phép kẻ tấn
công biết rằng một địa chỉ IP còn sống trên mạng.
Các công cụ tấn công được sử dụng để thực hiện trinh sát,những công cụ
này giúp kẻ tấn công ít hiểu biết có thể dễ trinh sát khi chọn tự động quá
trình thông qua giao diện than thiện mà bất cứ ai củng có thể sử dụng.



-Điều khiển truy cập(access control attack): Tấn công xảy ra khi một cá nhân
hoặc một nhóm các cá nhân nỗ lực để truy cập, sửa đổi hoặc thiệt hại một trường
và tài nguyên hệ thống. Tấn công truy cập là một cố gắng truy cập vào thông tin
mà những kẻ tấn công không có quyền :
Phương pháp truy cập vật lý: Dumpster diving
Tấn công truy cập trên mạng:


Nghe trộm(Eavesdropping).



Giả mạo (Snooping).



Can thiệp (Interception).

-Từ chối dịch vụ(Denial of service (DoS) attacks):Cuộc tấn công DoS khác với
hầu hết các cuộc tấn công khác, vì chúng không đạt được mục tiêu truy cập tìm
kiếm bất kỳ thông tin nào trong hệ thống. Thực hiện cuộc tấn công bằng cách
này là nhắm vào tính khả dụng(Availability) của hệ thống,mục đích là ngăn chặn
hoạt động bình thường của hệ thống,đặc biệt là đối với hệ thống phục vụ nhiều
người như web server,mail server…
Các phương thức tấn công DoS:
Làm cho tài nguyên quá tải(Resource Overload)


Sức chứa của đĩa cứng,băng thông và bộ đệm




Làm tràn các gói ping hay syn hoặc là liên tục đánh
bom UDP



Unsolicited Commercial E-mail (UCE)

Fragmentation or Impossible Packets


Phát tán gói ICMP làm tắc nghẽn.



IP fragment overlay



Same Source and Destination IP packet

2. Các phương pháp phát hiện và ngăn ngừa xâm nhập
Các giải pháp “Ngăn ngừa Xâm nhập” nhằm mục đích bảo vệ tài nguyên, dữ liệu
và mạng. Chúng sẽ làm giảm bớt những mối đe doạ tấn công bằng việc loại bỏ
những lưu lượng mạng có hại hay có ác ý trong khi vẫn cho phép các hoạt động


hợp pháp tiếp tục. Mục đích ở đây là một hệ thống hoàn hảo , không có những
báo động giả nào làm giảm năng suất người dùng cuối và không có những từ

chối sai nào tạo ra rủi ro quá mức bên trong môi trường. Có lẽ một vai trò cốt yếu
hơn sẽ là cần thiết để tin tưởng, để thực hiện theo cách mong muốn dưới bất kỳ
điều kiện nào. Điều này có nghĩa các giải pháp “Ngăn ngừa Xâm nhập” được đặt
vào đúng vị trí và có khả năng sau:


Mạng lưới trinh sát không thể được ngăn chặn hoàn toàn. IDS ở cấp
độ mạng và máy chủ lưu trữ có thể thông báo cho quản trị viên khi
một trinh sát tập hợp tấn công (ví dụ: ping và quét cổng). Nếu ICMP
echo request và echo-reply được tắt trên router bìa thì hạn chế được
tắc nghẽn. Một IDS ở mức độ mạng và máy chủ quản lý sẽ thông báo
cho người quản trị viên biết rằng có cuộc tấn công trinh sát đang được
tiến hành. Điều này giúp cho nhà quản tri viên có thể chuẩn bị tốt hơn
cho lần tấn công sắp tới hoặc thông báo cho ISP quản lý của người
tung ra cuộc tấn công trinh sát.



Các mối đe dọa của các cuộc tấn công DoS có thể được giảm thông
qua ba phương pháp sau đây:
• Tính năng Antispoof : cấu hình đúng của antispoof trên router và
tường lửa của hệ thống.
• Tính năng Anti-DoS :cấu hình đúng của Anti-DoS chống tính năng
DoS trên router và tường lửa.
• Giới hạn việc đánh giá lưu lượng mạng


3. Sự đa dạng của IDS
IDS phát triển đa dạng trong cả phần mềm và phần cứng ,mục đích chung của
IDS là quan sát các sự kiện trên hệ thống mạng và thông báo cho nhà quản trị

viên biết về an ninh của sự kiện cảm biến được cho là đáng báo động. Một số
IDS so sánh các cuộc hội thoại trên mạng nghe được trên mạng với danh sách
chuỗi tấn công đã biết trước hay chữ ký. Khi mà lưu lượng mạng được xem xét


cho là phù hợp với một chữ ký thì chúng sẽ gây ra một cảnh báo,hệ thống này
gọi là Signature-based IDS. Đối với việc quan sát lưu lương của hệ thống theo
thời gian và xem xét các tình huống mà không phù hợp với bình thường sẽ gây ra
một cảnh báo ,IDS này gọi là anomaly-based IDS.
Chủ động bảo vệ tài nguyên hệ thống mạng là xu hướng mới nhất trong bảo mật.
Hầu hết các hệ thống phát hiện xâm nhập (IDS) thụ động giám sát hệ thống cho
các dấu hiệu của hoạt động xâm nhập. Khi hoạt động xâm nhập được phát hiện,
IDS cung cấp khả năng cho việc ngăn chặn trong tương lai với các hoạt động
xâm nhập từ các máy chủ nghi ngờ. Cách tiếp cận phản ứng này không ngăn
chặn lưu lượng cuộc tấn công vào hệ thống từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc.Tuy
nhiên một IPS có thể chủ động dừng ngay các lưu lượng truy cập tấn công vào hệ
thống ngay lúc ban đầu.
3.1 Hệ thống phát hiện xâm nhập mềm(Snort)
Để cài được snort thì đầu tiên xem xét quy mô của hệ thống mạng, các yêu cầu
để có thể cài đặt snort như là:cần không gian dĩa cứng để lưu trữ các file log ghi
lại cảnh báo của snort,phải có một máy chủ khá mạnh và việc chọn lựa một hệ
điều hành không kém phần quan trọng thường thì người quản trị sẽ chọn cho
mình một hệ điều hành mà họ sử dụng một cách thành thạo nhất.Snort có thể
chạy trên các hê điều hành như window,linux.
3.2 Hệ thống phát hiện xâm nhập cứng(cisco)
Cisco cung cấp nhiều loại thiết bị phát hiện xâm nhập, có nhiều nền cảm biến
cho phép quyết định vị trí tốt nhất để giám sát hoạt động xâm nhập cho hệ thống.
Cisco cung cấp các nền tảng cảm biến sau đây:
* Cisco Adaptive Security Appliance nâng cao Kiểm tra và phòng chống
dịch vụ bảo vệ Module (ASA AIP SSM): Cisco ASA AIP SSM sử dụng công

nghệ tiên tiến và kiểm tra công tác phòng chống để cung cấp dịch vụ hiệu
năng bảo mật cao, chẳng hạn như các dịch vụ công tác phòng chống xâm
nhập và chống tiên tiến-x dịch vụ, được xác định như chống virus và
spyware. Cisco ASA AIP SSM sản phẩm bao gồm một Cisco ASA AIP SSM-


10 mô-đun với 1-GB bộ nhớ, một Cisco ASA AIP SSM-20 mô-đun với 2-GB
bộ nhớ, và một Cisco ASA AIP SSM-40 mô-đun.
* Cisco IPS 4.200 loạt các cảm biến: Cisco IPS 4.200 loạt các cảm biến đáng
kể để bảo vệ mạng của bạn bằng cách giúp phát hiện, phân loại, và ngăn chặn
các mối đe dọa, bao gồm cả sâu, phần mềm gián điệp và phần mềm quảng
cáo virus mạng, và lạm dụng ứng dụng. Sử dụng Cisco IPS Sensor Software
Version 5.1, Cisco IPS giải pháp kết hợp các dịch vụ công tác phòng chống
xâm nhập nội tuyến với các công nghệ tiên tiến để cải thiện tính chính xác.
Kết quả là, các mối đe dọa khác có thể được ngừng lại mà không có nguy cơ
giảm lưu lượng mạng hợp pháp. Cisco IPS Sensor Software bao gồm khả
năng phát hiện tăng cường khả năng mở rộng và nâng cao, khả năng phục
hồi, và vv.
* Cisco 6.500 Series Intrusion Detection System Services Module (IDSM-2):
6.500 Catalyst Series IDSM-2 là một phần của giải pháp của Cisco IPS. Nó
hoạt động kết hợp với các thành phần khác để bảo vệ dữ liệu của bạn có hiệu
quả cơ sở hạ tầng. Với sự phức tạp gia tăng của các mối đe dọa an ninh, việc
đạt được các giải pháp bảo mật mạng hiệu quả xâm nhập là rất quan trọng để
duy trì một mức độ cao của bảo vệ. thận trọng bảo vệ ,đảm bảo liên tục kinh
doanh và giảm thiểu các hoạt động tốn kém cho việc phát hiện xâm nhập.
* Cisco IPS Advance Integration Module (AIM): Cisco cung cấp một loạt các
giải pháp IPS; Cisco IPS AIM cho Cisco 1841 Integrated Services Router và
Cisco 2800 và 3.800 Series Integrated Services Routers được làm cho nhỏ và
vừa kinh doanh( small and medium-sized business (SMB) ) và các môi
trường văn phòng chi nhánh. Cisco IPS Sensor Phần mềm chạy trên Cisco

IPS AIM cung cấp nâng cao, doanh nghiệp-class IPS chức năng và đáp ứng
ngày càng tăng nhu cầu bảo mật của các văn phòng chi nhánh. Cisco IPS
AIM có quy mô trong hoạt động để phù hợp với văn phòng chi nhánh với hệ
thống mạng WAN yêu cầu băng thông ngày hôm nay và trong tương lai, bởi
vì chức năng IPS là chạy trên dành riêng cho CPU của nó, vì thế không chiếm


CPU của router. Đồng thời, sự tích hợp của IPS lên một Integrated Services
Router Cisco giữ chi phí thấp và giải pháp hiệu quả cho việc kinh doanh của
tất cả các kích cỡ.
4. So sánh giữa IPS và IDS

Hiện nay, Công nghệ của IDS đã được thay thế bằng các giải pháp IPS. Nếu như
hiểu đơn giản, có thể xem như IDS chỉ là một cái chuông để cảnh báo cho người
quản trị biết những nguy cơ có thể xảy ra tấn công. Dĩ nhiên có thể thấy rằng, nó
chỉ là một giải pháp giám sát thụ động, tức là chỉ có thể cảnh báo mà thôi, việc
thực hiện ngăn chặn các cuộc tấn công vào hệ thống lại hoàn toàn phụ thuộc vào
người quản trị. Vì vậy yêu cầu rất cao đối với nhà quản trị trong việc xác định
các lưu lượng cần và các lưu lượng có nghi vấn là dấu hiệu của một cuộc tấn
công. Và dĩ nhiên công việc này thì lại hết sức khó khăn. Với IPS, người quản trị
không nhũng có thể xác định được các lưu lượng khả nghi khi có dấu hiệu tấn
công mà còn giảm thiểu được khả năng xác định sai các lưu lượng. Với IPS, các
cuộc tấn công sẽ bị loại bỏ ngay khi mới có dấu hiệu và nó hoạt động tuân theo
một quy luật do nhà Quản trị định sẵn. IDS hiện nay chỉ sử dụng từ một đến 2 cơ
chế để phát hiện tấn. Vì mỗi cuộc tấn công lại có các cơ chế khác nhau của nó, vì
vậy cần có các cơ chế khác nhau để phân biệt. Với IDS, do số lượng cơ chế là ít
nên có thể dẫn đến tình trạng không phát hiện ra được các cuộc tấn công với cơ
chế không định sẵn, dẫn đến khả năng các cuộc tấn công sẽ thành công, gây ảnh
hưởng đến hệ thống. Thêm vào đó, do các cơ chế của IDS là tổng quát, dẫn đến
tình trạng báo cáo nhầm, cảnh báo nhầm, làm tốn thời gian và công sức của nhà

quản trị. Với IPS thì được xây dựng trên rất nhiều cơ chế tấn công và hoàn toàn
có thể tạo mới các cơ chế phù hợp với các dạng thức tấn công mới nên sẽ giảm
thiểu được khả năng tấn công của mạng, thêm đó, độ chính xác của IPS là cao
hơn so với IDS.Nên biết rằng với IDS, việc đáp ứng lại các cuộc tấn công chỉ có
thể xuất hiện sau khi gói tin của cuộc tấn công đã đi tới đích, lúc đó việc chống
lại tấn công là việc nó gửi các yêu cầu đến các máy của hệ thống để xoá các kết
nối đến máy tấn công và máy chủ, hoặc là gửi thông tin thông báo đến tường lửa


( Firewall) để tường lửa thực hiện chức năng của nó, tuy nhiên, việc làm này đôi
khi lại gây tác động phụ đến hệ thống. Ví dụ như nếu kẻ tấn công (Attacker) giả
mạo (sniffer) của một đối tác, ISP, hay là khách hàng, để tạo một cuộc tấn công
từ chối dịch vụ thì có thể thấy rằng, mặc dù IDS có thể chặn được cuộc tấn công
từ chối dịch vụ nhưng nó cũng sẽ khóa luôn cả IP của khách hàng, của ISP, của
đối tác, như vậy thiệt hại vẫn tồn tại và coi như hiệu ứng phụ của DoS thành
công mặc dù cuộc tấn công từ chối dịch vụ thất bại. Nhưng với IPS thì khác nó
sẽ phát hiện ngay từ đầu dấu hiệu của cuộc tấn công và sau đó là khoá ngay các
lưu lượng mạng này thì mới có khả năng giảm thiểu được các cuộc tấn công.

II. Chương 2: Tổng quan IDS
1.1 Định nghĩa IDS
IDS (Intrusion Detection System- hệ thống phát hiện xâm nhập) là hệ thống
phần cứng hoặc phần mềm có chức năng giám sát, phân tích lưu thông mạng, các
hoạt động khả nghi và cảnh báo cho hệ thống, nhà quản trị. IDS cũng có thể phân
biệt giữa những tấn công vào hệ thống từ bên trong (từ những người trong công
ty) hay tấn công từ bên ngoài (từ các hacker). IDS phát hiện dựa trên các dấu
hiệu đặc biệt về các nguy cơ đã biết (giống như cách các phần mềm diệt virus


dựa vào các dấu hiệu đặc biệt để phát hiện và diệt virus) hay dựa trên so sánh lưu

thông mạng hiện tại với baseline (thông số đo đạc chuẩn của hệ thống) để tìm ra
các dấu hiệu khác thường.
1.2 Phân biệt những hệ thống không phải là IDS
Theo một cách riêng biệt nào đó, các thiết bị bảo mật dưới đây không phải là
IDS:
• Hệ thống đăng nhập mạng được sử dụng để phát hiện lỗ hổng đối với vấn đề
tấn công từ chối dịch vụ (DoS) trên một mạng nào đó. Ở đó sẽ có hệ thống kiêm
tra lưu lượng mạng.
• Các công cụ đánh giá lỗ hổng kiểm tra lỗi và lỗ hổng trong hệ điều hành, dịch
vụ mạng (các bộ quét bảo mật).
• Các sản phẩm chống virus đã thiết kế để phát hiện phần mềm mã nguy hiểm
như virus, Trojan horse, worm... Mặc dù những tính năng mặc định có thể rất
giống hệ thống phát hiện xâm phạm và thường cung cấp một công cụ phát hiện
lỗ hổng bảo mật hiệu quả.
• Tường lửa
• Các hệ thống bảo mật/mật mã, ví dụ như VPN, SSL, S/MIME, Kerberos,
Radius .
2. Chức năng của IDS
Hệ thống phát hiện xâm nhập cho phép các tổ chức bảo vệ hệ thống của họ khỏi
những đe dọa với việc gia tăng kết nối mạng và sự tin cậy của hệ thống thông tin.
Những đe dọa đối với an ninh mạng ngày càng trở nên cấp thiết đã đặt ra câu hỏi
cho các nhà an ninh mạng chuyên nghiệp có nên sử dụng hệ thống phát hiện xâm
nhập trừ khi những đặc tính của hệ thống phát hiện xâm nhập là hữu ích cho họ, bổ
sung những điểm yếu của hệ thống khác…IDS có được chấp nhận là một thành
phần thêm vào cho mọi hệ thống an toàn hay không vẫn là một câu hỏi của nhiều
nhà quản trị hệ thống. Có nhiều tài liệu giới thiệu về những chức năng mà IDS đã
làm được những có thể đưa ra vài lý do tại sao nên sử dụng hệ thống IDS:
• Bảo vệ tính toàn vẹn (integrity) của dữ liệu, bảo đảm sự nhất quán của dữ liệu



trong hệ thống. Các biện pháp đưa ra ngăn chặn được việc thay đổi bất hợp pháp
hoặc phá hoại dữ liệu.
• Bảo vệ tính bí mật, giữ cho thông tin không bị lộ ra ngoài. Bảo vệ tính khả dụng,
tức là hệ thống luôn sẵn sàng thực hiện yêu cầu truy nhập thông tin của người dùng
hợp pháp.
• Bảo vệ tính riêng tư, tức là đảm bảo cho người sử dụng khai thác tài nguyên của
hệ thống theo đúng chức năng, nhiệm vụ đã được phân cấp, ngăn chặn được sự truy
nhập thông tin bất hợp pháp.
• Cung cấp thông tin về sự xâm nhập, đưa ra những chính sách đối phó, khôi phục,
sửa chữa…
Nói tóm lại có thể tóm tắt IDS như sau:
- Chức năng quan trọng nhất là: giám sát – cảnh báo – bảo vệ
Giám sát: lưu lượng mạng và các hoạt động khả nghi.
Cảnh báo: báo cáo về tình trạng mạng cho hệ thống và nhà quản trị.
Bảo vệ: Dùng những thiết lập mặc định và sự cấu hình từ nhà quản trị mà có những
hành động thiết thực chống lại kẻ xâm nhập và phá hoại.
- Chức năng mở rộng:
Phân biệt: "thù trong giặc ngoài" tấn công bên trong và tấn công bên ngoài.
Phát hiện: những dấu hiệu bất thường dựa trên những gì đã biết hoặc nhờ vào sự so
sánh thông lượng mạng hiện tại với baseline.

Thông tin
sự kiện

Thiết lập
sự kiện

Hệ thống
thông tin


Chính sách
thu thập
thông tin

Hệ thống đáp
trả

Hệ thống
pphân tích

Chính sách
phát hiện

Thu thập thông tin

Chính sách
phản ứng

Phản ứng
Phát hiện


Ngoài ra hệ thống phát hiện xâm nhập IDS còn có chức năng:
- Ngăn chặn sự gia tăng của những tấn công
- Bổ sung những điểm yếu mà các hệ thống khác chưa làm được
- Đánh giá chất lượng của việc thiết kế hệ thống
Khi IDS chạy một thời gian sẽ đưa ra được những điểm yếu đó là điều hiển nhiên.
Việc đưa ra những điểm yếu đó nhằm đánh giá chất lượng việc thiết kế mạng cũng
như cách bố trí bảo vệ phòng thủ của các nhà quản trị mạng.
3.Kiến trúc hệ thống IDS

Ngày nay phân biệt các hệ thống IDS khác nhau thông qua việc phân tích và kiểm
tra khác nhau của các hệ thống. Mỗi hệ thống có những ưu điểm cũng như khuyết
điểm riêng nhưng các hệ thống có thể được mô tả dưới mô hình tổng quát chung
như sau:
3.1 Các nhiệm vụ thực hiện
Nhiệm vụ chính của các hệ thống phát hiện xâm phạm là bảo vệ cho một hệ thống
máy tính bằng cách phát hiện các dấu hiệu tấn công. Việc phát hiện các tấn công
phụ thuộc vào số lượng và kiểu hành động thích hợp ( Hình 3.1.a). Để ngăn chặn
Ngăn
xâm phạm tốt cần phải kết
hợpchặn(Prevention)
tốt giữa “bả và bẫy” được trang bị cho việc nghiên

cứu các mối đe dọa. Việc làm lệnh hướng sự tập trung của kẻ xâm nhập vào tài
nguyên được bảo vệ là một
vụ quan trọng khác. Toàn bộ hệ thống cần phải
Mô nhiệm
phỏng(Simulation)
được kiểm tra một cách liên tục. Dữ liệu được tạo ra từ các hệ thống phát hiện xâm
nhập được kiểm tra một cách cẩn thận (đây là nhiệm vụ chính cho mỗi IDS) để phát
Giám sát xâm nhập
(Instruction
Monitoring)
hiện các dấu hiệu tấn công
(sự xâm phạm).

Phân tích(Analysis)

Kiểm tra xâm nhập
(Instruction detection)

Thông báo
(Notification)

Trả lời(Response)
T


Hình 3.1a Quá trình của IDS

IIDS task

Protected System

Additional IDS Infrastructure


Monitoring
Response
Hình 3.1b Mô tả chính sách bảo mật
Khi một hành động xâm nhập được phát hiện, IDS đưa ra các cảnh báo đến các
quản trị viên hệ thống về sự việc này. Bước tiếp theo được thực hiện bởi các quản
trị viên hoặc có thể là bản thân IDS bằng cách lợi dụng các tham số đo bổ sung (các
chức năng khóa để giới hạn các session, backup hệ thống, định tuyến các kết nối
đến bẫy hệ thống, cơ sở hạ tầng hợp lệ,…) ,theo các chính sách bảo mật của các tổ
chức (Hình 3.1b). Một IDS là một thành phần nằm trong chính sách bảo mật.
Giữa các nhiệm vụ IDS khác nhau, việc nhận ra kẻ xâm nhập là một trong những
nhiệm vụ cơ bản. Nó cũng hữu dụng trong việc nghiên cứu mang tính pháp lý các
tình tiết và việc cài đặt các bản vá thích hợp để cho phép phát hiện các tấn công
trong tương lai nhằm vào các cá nhân cụ thể hoặc tài nguyên hệ thống.
Phát hiện xâm nhập đôi khi có thể đưa ra các báo cảnh sai, ví dụ những vấn đề xảy

ra do trục trặc về giao diện mạng hoặc việc gửi phần mô tả các tấn công hoặc các
chữ ký thông qua mail.

3.2 Kiến trúc của hệ thống phát hiện xâm nhập IDS
Kiến trúc của hệ thống IDS bao gồm các thành phần chính: thành phần thu thập gói
tin (information collection), thành phần phân tích gói tin(Dectection), thành phần
phản hồi (respontion) nếu gói tin đó được phát hiện là một tấn công của tin tặc.
Trong ba thành phần này thì thành phần phân tích gói tin là quan trọng nhất và ở
thành phần này bộ cảm biến đóng vai trò quyết định nên chúng ta sẽ đi vào phân
tích bộ cảm biến để hiểu rõ hơn kiến trúc của hệ thống phát hiện xâm nhập là như
thế nào.


Bộ cảm biến được tích hợp với thành phần sưu tập dữ liệu– một bộ tạo sự kiện.
Cách sưu tập này được xác định bởi chính sách tạo sự kiện để định nghĩa chế độ lọc
thông tin sự kiện. Bộ tạo sự kiện (hệ điều hành, mạng, ứng dụng) cung cấp một số
chính sách thích hợp cho các sự kiện, có thể là một bản ghi các sự kiện của hệ thống
hoặc các gói mạng. Số chính sách này cùng với thông tin chính sách có thể được lưu
trong hệ thống được bảo vệ hoặc bên ngoài. Trong trường hợp nào đó, ví dụ khi
luồng dữ liệu sự kiện được truyền tải trực tiếp đến bộ phân tích mà không có sự lưu
dữ liệu nào được thực hiện. Điều này cũng liên quan một chút nào đó đến các gói
mạng
Vai trò của bộ cảm biến là dùng để lọc thông tin và loại bỏ dữ liệu không tương
thích đạt được từ các sự kiện liên quan với hệ thống bảo vệ, vì vậy có thể phát hiện
được các hành động nghi ngờ. Bộ phân tích sử dụng cơ sở dữ liệu chính sách phát
hiện cho mục này. Ngoài ra còn có các thành phần: dấu hiệu tấn công, profile hành
vi thông thường, các tham số cần thiết (ví dụ: các ngưỡng). Thêm vào đó, cơ sở dữ
liệu giữ các tham số cấu hình, gồm có các chế độ truyền thông với module đáp trả.
Bộ cảm biến cũng có cơ sở dữ liệu của riêng nó, gồm dữ liệu lưu về các xâm phạm
phức tạp tiềm ẩn (tạo ra từ nhiều hành động khác nhau).

IDS có thể được sắp đặt tập trung (ví dụ như được tích hợp vào trong tường lửa)
hoặc phân tán. Một IDS phân tán gồm nhiều IDS khác nhau trên một mạng lớn, tất
cả chúng truyền thông với nhau. Nhiều hệ thống tinh vi đi theo nguyên lý cấu trúc
một tác nhân, nơi các module nhỏ được tổ chức trên một host trong mạng được bảo
vệ.
Vai trò của tác nhân là để kiểm tra và lọc tất cả các hành động bên trong vùng được
bảo vệ và phụ thuộc vào phương pháp được đưa ra – tạo phân tích bước đầu và
thậm chí đảm trách cả hành động đáp trả. Mạng các tác nhân hợp tác báo cáo đến
máy chủ phân tích trung tâm là một trong những thành phần quan trọng của IDS.
DIDS có thể sử dụng nhiều công cụ phân tích tinh vi hơn, đặc biệt được trang bị sự
phát hiện các tấn công phân tán. Các vai trò khác của tác nhân liên quan đến khả
năng lưu động và tính roaming của nó trong các vị trí vật lý. Thêm vào đó, các tác


nhân có thể đặc biệt dành cho việc phát hiện dấu hiệu tấn công đã biết nào đó. Đây
là một hệ số quyết định khi nói đến nghĩa vụ bảo vệ liên quan đến các kiểu tấn công
mới.
Giải pháp kiến trúc đa tác nhân được đưa ra năm 1994 là AAFID (các tác nhân tự trị
cho việc phát hiện xâm phạm). Nó sử dụng các tác nhân để kiểm tra một khía cạnh
nào đó về các hành vi hệ thống ở một thời điểm nào đó. Ví dụ: một tác nhân có thể
cho biết một số không bình thường các telnet session bên trong hệ thống nó kiểm
tra. Tác nhân có khả năng đưa ra một cảnh báo khi phát hiện một sự kiện khả nghi.
Các tác nhân có thể được nhái và thay đổi bên trong các hệ thống khác (tính năng tự
trị). Một phần trong các tác nhân, hệ thống có thể có các bộ phận thu phát để kiểm
tra tất cả các hành động được kiểm soát bởi các tác nhân ở một host cụ thể nào đó.
Các bộ thu nhận luôn luôn gửi các kết quả hoạt động của chúng đến bộ kiểm tra duy
nhất. Các bộ kiểm tra nhận thông tin từ các mạng (không chủ từ một host), điều đó
có nghĩa là chúng có thể tương quan với thông tin phân tán. Thêm vào đó một số bộ
lọc có thể được đưa ra để chọn lọc và thu thập dữ liệu. Ngoài ra còn có 1 số điểm
chú ý sau:

- Kiến trúc, vị trí đặt hệ thống IDS: tùy thuộc vào quy mô tổ chức của doanh nghiệp
cũng như mục đích sử dụng hệ thống IDS của doanh nghiệp.
- Chiến lược điều khiển: là sự mô tả rõ ràng cho mỗi hệ thống IDS về việc kiểm soát
, kiểm tra thông tin đầu vào đầu ra:
+ Chiến lược tập trung: là việc điều khiển trực tiếp các thao tác như kiểm tra, phát
hiện, phân tích, đáp trả, báo cáo từ vị trí trung tâm:
+Phân thành nhiều thành phần: Phát hiện, kiểm tra từ các vị trí thành phần rồi về
báo cáo về vị trí trung tâm.
+Phân phối: Mỗi vùng sẽ có những trung tâm đại diện cho trung tâm chính trực tiếp
điều khiển các thao tác giám sát, kiểm tra báo cáo.
4. Phân loại IDS


Có hai phương pháp khác nhau trong việc phân tích các sự kiện để phát hiện các vụ
tấn công: phát hiện dựa trên các dấu hiệu và phát hiện sự bất thường. Các sản phẩm
IDS có thể sử dụng một trong hai cách hoặc sử dụng kết hợp cả hai.
- Phát hiện dựa trên dấu hiệu: Phương pháp này nhận dạng các sự kiện hoặc tập hợp
các sự kiện phù hợp với một mẫu các sự kiện đã được định nghĩa là tấn công.
- Phát hiện sự bất thường: công cụ này thiết lập một hiện trạng các hoạt động bình
thường và sau đó duy trì một hiện trạng hiện hành cho một hệ thống. Khi hai yếu tố
này xuất hiện sự khác biệt, nghĩa là đã có sự xâm nhập.
Các hệ thống IDS khác nhau đều dựa vào phát hiện các xâm nhập trái phép và
những hành động dị thường. Quá trình phát hiện có thể được mô tả bởi 3 yếu tố cơ
bản nền tảng sau:
- Thu thập thông tin (information source): Kiểm tra tất cả các gói tin trên mạng.
- Sự phân tích (Analysis): Phân tích tất cả các gói tin đã thu thập để cho biết hành
động nào là tấn công.
- Cảnh báo (response): hành động cảnh báo cho sự tấn công được phân tích ở trên.
4.1 Network Base IDS (NIDS)
Hệ thống IDS dựa trên mạng sử dụng bộ dò và bộ bộ cảm biến cài đặt trên toàn

mạng. Những bộ dò này theo dõi trên mạng nhằm tìm kiếm những lưu lượng trùng
với những mô tả sơ lược được định nghĩa hay là những dấu hiệu. Những bộ bộ cảm
biến thu nhận và phân tích lưu lượng trong thời gian thực. Khi ghi nhận được một
mẫu lưu lượng hay dấu hiệu, bộ cảm biến gửi tín hiệu cảnh báo đến trạm quản trị và
có thể được cấu hình nhằm tìm ra biện pháp ngăn chặn những xâm nhập xa hơn.
NIDS là tập nhiều sensor được đặt ở toàn mạng để theo dõi những gói tin trong
mạng so sánh với với mẫu đã được định nghĩa để phát hiện đó là tấn công hay
không.
Được đặt giữa kết nối hệ thống mạng bên trong và mạng bên ngoài để giám sát toàn
bộ lưu lượng vào ra. Có thể là một thiết bị phần cứng riêng biệt được thiết lập sẵn
hay phần mềm cài đặt trên máy tính. Chủ yếu dùng để đo lưu lượng mạng được sử


dụng. Tuy nhiên có thể xảy ra hiện tượng nghẽn cổ chai khi lưu lượng mạng hoạt
động ở mức cao.
4.1.1 Lợi thế của Network-Based IDSs:
- Quản lý được cả một network segment (gồm nhiều host)
- "Trong suốt" với người sử dụng lẫn kẻ tấn công
- Cài đặt và bảo trì đơn giản, không ảnh hưởng tới mạng
- Tránh DOS ảnh hưởng tới một host nào đó.
- Có khả năng xác định lỗi ở tầng Network (trong mô hình OSI)
- Độc lập với OS
4.1.2 Hạn chế của Network-Based IDSs:
- Có thể xảy ra trường hợp báo động giả (false positive), tức không có intrusion mà
NIDS báo là có intrusion.
- Không thể phân tích các traffic đã được encrypt (vd: SSL, SSH, IPSec…)
- NIDS đòi hỏi phải được cập nhật các signature mới nhất để thực sự an toàn
- Có độ trễ giữa thời điểm bị attack với thời điểm phát báo động. Khi báo động
được phát ra, hệ thống có thể đã bị tổn hại.
- Không cho biết việc attack có thành công hay không.

Một trong những hạn chế là giới hạn băng thông. Những bộ dò mạng phải nhận tất
cả các lưu lượng mạng, sắp xếp lại những lưu lượng đó cũng như phân tích chúng.
Khi tốc độ mạng tăng lên thì khả năng của đầu dò cũng vậy. Một giải pháp là bảo
đảm cho mạng được thiết kế chính xác để cho phép sự sắp đặt của nhiều đầu dò.
Khi mà mạng phát triển, thì càng nhiều đầu dò được lắp thêm vào để bảo đảm
truyền thông và bảo mật tốt nhất.
Một cách mà các kẻ xâm nhập cố gắng nhằm che đậy cho hoạt động của họ khi gặp
hệ thống IDS dựa trên mạng là phân mảnh những gói thông tin của họ. Mỗi giao
thức có một kích cỡ gói dữ liệu giới hạn, nếu dữ liệu truyền qua mạng lớn hơn kích
cỡ này thì gói dữ liệu đó sẽ được phân mảnh. Phân mảnh đơn giản chỉ là quá trình
chia nhỏ dữ liệu ra những mẫu nhỏ. Thứ tự của việc sắp xếp lại không thành vấn đề
miễn là không xuất hiện hiện tượng chồng chéo. Nếu có hiện tượng phân mảnh


chồng chéo, bộ cảm biến phải biết quá trình tái hợp lại cho đúng. Nhiều hacker cố
gắng ngăn chặn phát hiện bằng cách gởi nhiều gói dữ liệu phân mảnh chồng chéo.
Một bộ cảm biến sẽ không phát hiện các hoạt động xâm nhập nếu bộ cảm biến
không thể sắp xếp lại những gói thông tin một cách chính xác.
4.2 Host Based IDS (HIDS)
Bằng cách cài đặt một phần mềm trên tất cả các máy tính chủ, IDS dựa trên máy
chủ quan sát tất cả những hoạt động hệ thống, như các file log và những lưu lượng
mạng thu thập được. Hệ thống dựa trên máy chủ cũng theo dõi OS, những cuộc gọi
hệ thống, lịch sử sổ sách (audit log) và những thông điệp báo lỗi trên hệ thống máy
chủ. Trong khi những đầu dò của mạng có thể phát hiện một cuộc tấn công, thì chỉ
có hệ thống dựa trên máy chủ mới có thể xác định xem cuộc tấn công có thành công
hay không. Thêm nữa là, hệ thống dựa trên máy chủ có thể ghi nhận những việc mà
người tấn công đã làm trên máy chủ bị tấn công (compromised host).
Không phải tất cả các cuộc tấn công được thực hiện qua mạng. Bằng cách giành
quyền truy cập ở mức vật lý (physical access) vào một hệ thống máy tính, kẻ xâm
nhập có thể tấn công một hệ thống hay dữ liệu mà không cần phải tạo ra bất cứ lưu

lượng mạng (network traffic) nào cả. Hệ thống dựa trên máy chủ có thể phát hiện
các cuộc tấn công mà không đi qua đường công cộng hay mạng được theo dõi, hay
thực hiện từ cổng điều khiển (console), nhưng với một kẻ xâm nhập có hiểu biết, có
kiến thức về hệ IDS thì hắn có thể nhanh chóng tắt tất cả các phần mềm phát hiện
khi đã có quyền truy cập vật lý.
Một ưu điểm khác của IDS dựa trên máy chủ là nó có thể ngăn chặn các kiểu tấn
công dùng sự phân mảnh hoặc TTL. Vì một host phải nhận và tái hợp các phân
mảnh khi xử lí lưu lượng nên IDS dựa trên host có thể giám sát chuyện này.
HIDS thường được cài đặt trên một máy tính nhất đinh. Thay vì giám sát hoạt động
của một network segment, HIDS chỉ giám sát các hoạt động trên một máy tính.
HIDS thường được đặt trên các host xung yếu của tổ chức, và các server trong vùng
DMZ - thường là mục tiêu bị tấn công đầu tiên. Nhiêm vụ chính của HIDS là giám
sát các thay đổi trên hệ thống, bao gồm (not all):


- Các tiến trình.
- Các mục của Registry.
- Mức độ sử dụng CPU.
- Kiểm tra tính toàn vẹn và truy cập trên hệ thống file.
- Một vài thông số khác.
Các thông số này khi vượt qua một ngưỡng định trước hoặc những thay đổi khả
nghi trên hệ thống file sẽ gây ra báo động.
4.2.1 Lợi thế của HIDS:
- Có khả năng xác đinh user liên quan tới một sự kiện (event).
- HIDS có khả năng phát hiện các cuộc tấn công diễn ra trên một máy, NIDS không
có khả năng này.
- Có thể phân tích các dữ liệu mã hoá.
- Cung cấp các thông tin về host trong lúc cuộc tấn công diễn ra trên host này.
4.2.2 Hạn chế của HIDS:
- Thông tin từ HIDS là không đáng tin cậy ngay khi sự tấn công vào host này thành

công.
- Khi OS bị "hạ" do tấn công, đồng thời HIDS cũng bị "hạ".
- HIDS phải được thiết lập trên từng host cần giám sát .
- HIDS không có khả năng phát hiện các cuộc dò quét mạng (Nmap, Netcat…).
- HIDS cần tài nguyên trên host để hoạt động.
- HIDS có thể không hiệu quả khi bị DOS.
- Đa số chạy trên hệ điều hành Window. Tuy nhiên cũng đã có 1 số chạy được trên
UNIX và những hệ điều hành khác.
Vì hệ thống IDS dựa trên máy chủ đòi hỏi phần mềm IDS phải được cài đặt trên tất
cả các máy chủ nên đây có thể là cơn ác mộng của những nhà quản trị khi nâng cấp
phiên bản, bảo trì phần mềm, và cấu hình phần mềm trở thành công việc tốn nhiều
thời gian và là những việc làm phức tạp. Bởi vì hệ thống dựa trên máy chủ chỉ phân
tích những lưu lượng được máy chủ nhận được, chúng không thể phát hiện những
tấn công thăm dò thông thường được thực hiện nhằm chống lại một máy chủ hay là


một nhóm máy chủ. Hệ thống IDS dựa trên máy chủ sẽ không phát hiện được
những chức năng quét ping hay dò cổng (ping sweep and port scans) trên nhiều máy
chủ. Nếu máy chủ bị thỏa hiệp thì kẻ xâm nhập hoàn toàn có thể tắt phần mềm IDS
hay tắt kết nối của máy chủ đó. Một khi điều này xảy ra thì các máy chủ sẽ không
thể tạo ra được cảnh báo nào cả.
Phần mềm IDS phải được cài đặt trên mỗi hệ thống trên mạng nhằm cung cấp đầy
đủ khả năng cảnh báo của mạng. Trong một môi trường hỗn tạp, điều này có thể là
một vấn đề bởi vì phần mềm IDS phải tương ứng nhiều hệ điều hành khác nhau. Do
đó trước khi chọn một hệ thống IDS, chúng ta phải chắc là nó phù hợp và chạy
được trên tất cả các hệ điều hành.
5.Công cụ hỗ trợ cho IDS
Có 1 số công cụ hỗ trợ cho hệ thống xâm nhập IDS, trong phần này sẽ đề cập đến
bốn công cụ hỗ trợ đó: hệ thống phân tích tổn thương, bộ kiểm tra toàn vẹn dữ liệu,
honey pots, Padded cell. Những thành phần này có thể tăng cường, hỗ trợ, tổ chức

như thế nào với hệ thống phát hiện xâm nhập IDS sẽ được làm rõ ở những mục
dưới đây.
5.1 Hệ thống phân tích đánh giá tổn thương
Sự phân tích đánh giá tổn thương (sự định giá cũng được biết như tính dễ bị tổn
thương) là công cụ kiểm tra xác định liệu có phải một mạng hay host có thể bị tổn
thương tới những sự tấn công được biết. Sự đánh giá tổn thương đại diện cho một
trường hợp đặc biệt của quá trình phát hiện xâm nhập. Những thông tin bao gồm
tình trạng hệ thống và hậu qủa của những tấn công được phân tích đánh giá. Những
thông tin này được tổng hợp phân tích tại tại bộ cảm biến.
Sự phân tích đánh giá tổn thương là một kỹ thuật quản lý an toàn rất mạnh và là sự
bổ sung thích hợp tới việc sử dụng IDS, không phải như một sự thay thế. Cần phải
có một tổ chức tin cậy quản lý những công cụ phân tích đánh giá tổn thương để theo
dõi những hệ thống này.
a. Quá trình phân tích đánh giá tổn thương
Quá trình phân tích đánh giá tồn thương bao gồm những bước sau:


- Lấy 1 mẫu bao gồm tập hợp các thuộc tính của hệ thống.
- Kết quả của việc lấy mốc được cất vào một chỗ an toàn.
- Kết quả này được so sánh với ít nhất một mẫu trước đó hoặc một mẫu lý tưởng
trước đó.
- Bất kỳ sự khác nhau giữa hai tập hợp được tổng hợp và báo cáo.
b. Các kiểu phân tích đánh giá tổn thương
Có hai kiểu phân tích đánh giá tổn thương dành cho Netword-based và host-based:
- Host-based: phân tích đánh giá tổn thương chính là việc đánh giá dữ liệu của hệ
thống như dữ liệu, việc cấu hình, trạng thái của những thông tin khác.
- Network-based: Sự phân tích đánh giá tổn thương yêu cầu 1 kết nối từ xa tới hệ
thống đích. Công việc đánh giá bao gồm ghi chú lại sự phản hồi của hệ thống hay
đơn giản là thăm dò xem xét để biết những điểm yếu của hệ thống.
5.2. Kiểm tra toàn vẹn dữ liệu

Những bộ kiểm tra toàn vẹn dữ liệu là những công cụ an toàn mà bổ sung IDSs.
Chúng tóm lược thông báo hay kiểm tra giải mã cho những dữ liệu và những đối
tượng phê bình, so sánh nó với những giá trị tham khảo và việc đặt những dấu hiệu
cho sự khác nhau hay thay đổi. Việc kiểm tra giải mã sẽ giúp biết nội dung của dữ
liệu có bị thay đổi bởi tin tặc hay không. Việc thay đổi nội dung có nhiều kỹ thuật
nhưng mục đích của tin tặc là gắn những thành phần vào nội dung để làm cầu nối
trao đổi thông tin giữa hệ thống và máy của tin tặc hoặc là với mục đích phá hoại.
Mặc dù việc kiểm tra những thành phần thay đổi trong nội dung của dữ liệu hay còn
gọi là sâu thường xuyên được sự hỗ trợ cập nhật từ những hãng chống virut,
spyware hay trojan nhưng việc cập nhật còn quá chậm so với sự phát triển của
những thành phần này.
5.3. Honey Pot và Padded Cell System
Honey pot là hệ thống những cạm bẫy được thiết kế để bẫy những tin tặc tấn công.
Honey pot được thiết kế bao gồm những mục đích sau:
- Làm lệch hướng tin tặc ra khỏi hệ thống cần bảo vệ.
- Tập hợp thông tin về tin tặc và hành động của tin tặc.


- Lôi kéo tin tặc ở trên hệ thống dài hơn để đủ thời gian cho người quản trị phản hồi
lại.
Padded Cell: khác với honey pot là hướng tin tặc theo kế hoạch của mình thì padded
cell được thiết kế để theo dõi hành động thay đổi dữ liệu của tin tặc, đánh dấu sự
thay đổi để biết mục đích của tin tặc.
6. Các kĩ thuật xử lý dữ liệu được sử dụng trong các hệ thống phát hiện xâm
nhập
Phụ thuộc vào kiểu phương pháp được sử dụng để phát hiện xâm nhập, các cơ chế
xử lý khác nhau (kỹ thuật) cũng được sử dụng cho dữ liệu đối với một IDS.Dưới
đây là một số hệ thống được mô tả vắn tắt.
6.1 Hệ thống Expert (Expert system)
Hệ thống này làm việc trên một tập các nguyên tắc đã được định nghĩa từ trước để

miêu tả các tấn công. Tất cả các sự kiện có liên quan đến bảo mật đều được kết hợp
vào cuộc kiểm định và được dịch dưới dạng nguyên tắc if-then-else. Lấy ví dụ
Wisdom & Sense và ComputerWatch (được phát triển tại AT&T).
6.2 Phát hiện xâm nhập dựa trên luật (Rule-Based Intrusion Detection)
Giống như phương pháp hệ thống Expert, phương pháp này dựa trên những hiểu
biết về tấn công. Chúng biến đổi sự mô tả của mỗi tấn công thành định dạng kiểm
định thích hợp. Như vậy, dấu hiệu tấn công có thể được tìm thấy trong các bản ghi
(record). Một kịch bản tấn công có thể được mô tả, ví dụ như một chuỗi sự kiện
kiểm định đối với các tấn công hoặc mẫu dữ liệu có thể tìm kiếm đã lấy được trong
cuộc kiểm định. Phương pháp này sử dụng các từ tương đương trừu tượng của dữ
liệu kiểm định. Sự phát hiện được thực hiện bằng cách sử dụng chuỗi văn bản
chung hợp với các cơ chế. Điển hình, nó là một kỹ thuật rất mạnh và thường được
sử dụng trong các hệ thống thương mại (ví dụ như: Cisco Secure IDS, Tôierald
eXpert-BSM (Solaris)).
6.3 Phân biệt ý định người dùng (User intention identification)
Kỹ thuật này mô hình hóa các hành vi thông thường của người dùng bằng một tập
nhiệm vụ mức cao mà họ có thể thực hiện được trên hệ thống (liên quan đến chức


năng người dùng). Các nhiệm vụ đó thường cần đến một số hoạt động được điều
chỉnh sao cho hợp với dữ liệu kiểm định thích hợp. Bộ phân tích giữ một tập hợp
nhiệm vụ có thể chấp nhận cho mỗi người dùng. Bất cứ khi nào một sự không hợp
lệ được phát hiện thì một cảnh báo sẽ được sinh ra.
6.4 Phân tích trạng thái phiên (State-transition analysis)
Một tấn công được miêu tả bằng một tập các mục tiêu và phiên cần được thực hiện
bởi một kẻ xâm nhập để gây tổn hại hệ thống. Các phiên được trình bày trong sơ đồ
trạng thái phiên. Nếu phát hiện được một tập phiên vi phạm sẽ tiến hành cảnh báo
hay đáp trả theo các hành động đã được định trước.
6.5 Phương pháp Colored Petri Nets
Phương pháp này thường được sử dụng để tổng quát hóa các tấn công từ những

hiểu biết cơ bản và để thể hiện các tấn công theo đồ họa. Hệ thống IDIOT của đại
học Purdue sử dụng Colored Petri Nets. Với kỹ thuật này, các quản trị viên sẽ dễ
dàng hơn trong việc bổ sung thêm dấu hiệu mới. Mặc dù vậy, việc tổng quát hóa
một dấu hiệu phức tạp với dữ liệu kiểm định là một vấn đề gây tốn nhiều thời gian.
Kỹ thuật này không được sử dụng trong các hệ thống thương mại.
6.6 Phương pháp phân tích thống kê (Statistical analysis approach)
Hành vi người dùng hay hệ thống (tập các thuộc tính) được tính theo một số biến
thời gian. Ví dụ, các biến như là: đăng nhập người dùng, đăng xuất, số tập tin truy
nhập trong một khoảng thời gian, hiệu suất sử dụng không gian đĩa, bộ nhớ, CPU…
Chu kỳ nâng cấp có thể thay đổi từ một vài phút đến một tháng. Hệ thống lưu giá trị
có nghĩa cho mỗi biến được sử dụng để phát hiện sự vượt quá ngưỡng được định
nghĩa từ trước. Ngay cả phương pháp đơn giản này cũng không thế hợp được với
mô hình hành vi người dùng điển hình. Các phương pháp dựa vào việc làm tương
quan thông tin về người dùng riêng lẻ với các biến nhóm đã được gộp lại cũng ít có
hiệu quả.
Vì vậy, một mô hình tinh vi hơn về hành vi người dùng đã được phát triển bằng
cách sử dụng thông tin người dùng ngắn hạn hoặc dài hạn. Các thông tin này thường
xuyên được nâng cấp để bắt kịp với thay đổi trong hành vi người dùng. Các phương


×