Tải bản đầy đủ (.ppt) (90 trang)

Sinh lý máu - ths.bs nguyễn xuân trung dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.26 MB, 90 trang )

SINH LÝ MÁU

ThS. BS. Nguyễn Xuân Trung Dũng



Máu là một mô lỏng có màu đỏ, vị mặn, được
hình thành cùng với hệ mạch. Cũng như các loại mô
khác, mô máu bao gồm các tế bào máu là hồng cầu,
bạch cầu, tiểu cầu và dịch ngoại bào là huyết tương.
Huyết tương lỏng và chiếm tỷ lệ cao hơn phần tế bào
của mô máu.


Các yếu tố thành phần của máu và mạch
máu được hình thành rất sớm ở giai đoạn phôi.
Đầu tiên tại thành bên của túi hoàng thể có một
tập hợp các tế bào trung mô kết lại thành từng
đám dầy. Các tế bào bên ngoài của các đám
này biến đổi thành một lớp nội mô mạch.
Các tế bào bên trong thì phân hóa thành
các cấu tạo của mạch máu. Ở giai đoạn thai,
mạch hình thành từ các khe nhỏ giữa đám
trung mô và sau đó xuất hiện những tế bào nội
mô mạch và máu.


Máu cùng với các
dịch thể khác là môi
trường sống của các tế
bào trong cơ thể được gọi


là nội môi. Sự ổn định và
cân bằng của các chỉ tiêu
trong nội môi đảm bảo
cho các quá trình sống
được thực hiện bình
thường, và do đó cơ thể
mới tồn tại, sinh trưởng
và phát triển.


Do đặc điểm cấu tạo và chức năng của nó,
mô máu luôn luôn được đổi mới trong cơ thể.
Tuy vậy, nó vẫn duy trì một tỷ lệ tương đối cố
định của các thành phần cấu tạo.


I/ MÁU
1.1.Chức năng sinh lý của máu
+ Chức năng vận chuyển
Máu là chất vận chuyển của các chất dinh
dưỡng sau quá trình tiêu hóa và hấp thu ở nhung
mao ruột, của khí O2 từ phổi đến mô và khí CO2 từ
mô đến phổi, của các hormon do các tuyến nội tiết
tiết ra, các sản phẩm thừa của quá trình trao đổi
chất...
Cả huyết tương và tế bào máu là hồng cầu tham gia
vào việc vận chuyển này bằng cách hoà tan hay kết
hợp các chất trong huyết tương và trong hồng cầu.
Nhờ chức năng này mà cơ thể được cung cấp các
chất dinh dưỡng và đào thải các sản phẩm thừa của

quá trình trao đổi chất.



+ Chức năng cân bằng nước và muối khoáng
Máu đảm bảo sự cân bằng nước và muối khoáng
cho cơ thể. Nước là thành phần không thể thiếu
được của sự sống. Các phản ứng hóa học cơ bản của
sự sống đều được thực hiện trong môi trường nước.
Vì vậy, cân bằng nước đảm bảo sự sống còn của
cơ thể. Thông quac hức năng này, máu tham gia duy
trì áp suất thẩm thấu và độ pH của dịch thể luôn
luôn ổn định.


+ Chức năng điều hoà nhiệt
Máu tham gia điều hoà thân nhiệt, đặc biệt là
ở những động vật đồng nhiệt. Duy trì sự ổn định
nhiệt độ bên trong cơ thể và thích ứng với nhiệt độ
môi trường ngoài là chức năng quan trọng của
máu thông qua sự lưu thông phân phối máu trên
toàn cơ thể, nhất là hệ mao mạch dưới da.
+ Chức năng bảo vệ
Máu tham gia bảo vệ cơ thể. Chức năng này
do tế bào bạch cầu đảm nhiệm. Một nhóm bạch
cầu thực hiện quá trình thực bào các vi khuẩn, các
vật lạ, các độc tố xâm nhập vào cơ thể. Một nhóm
bạch cầu sinh ra kháng thể thực hiện các phản
ứng miễn dịch bảo vệ cơ thể. Protein hoà tan trong
huyết tương loại globulin cũng tham gia chức

năng này.



+ Chức năng thống nhất cơ thể
Máu lưu thông trong hệ mạch và chạy đến tất
cả các đơn vị cấu tạo trong cơ thể để cung cấp mọi
dạng vật chất cần thiết đồng thời thu nhận các sản
phẩm thừa, cặn bã của quá trình trao đổi chất.
Chính chức năng này của máu đã cùng với hệ
thần kinh làm cho cơ thể luôn luôn là một khối
toàn vẹn, thống nhất hay là một hệ thống sống
hoàn chỉnh luôn luôn cân bằng trong nội môi và
cân bằng với ngoại môi.



1.2. Lượng máu và sự phân bố
Lượng máu ở cơ thể gia súc khác nhau ở từng
loài, ở ngựa máu chiếm 9,8% khối lượng, ở bò và
cừu: 8,04%; ở lợn: 4,6%; chó: 8-9%; mèo: 6,6%; gà:
8,5%; thỏ: 5,45% và người: 7,5%.
Máu được phân bố theo hai khu vực: máu lưu
thông và máu dự trữ. Bình thường máu lưu thông
chiếm 54%, máu dự trữ 46% (gan 20%); lách 16%;
da 10%).


Để xác định khối lượng máu, có thể dùng nhiều
phương pháp khác nhau:

+ Tiêm vào tĩnh mạch một lượng xác định chất
màu không độc và ít khuếch tán như xanh evans, đỏ
congo... rồi dùng phương pháp sắc kế để xác định tỷ
lệ của chúng trong máu.
+ Cho thở một lượng khí oxyd carbon (CO) nhất
định rồi xác định tỷ lệ CO trong máu.
+ Dùng phospho đồng vị tiêm vào tĩnh mạch rồi
theo dõi sự hoà loãng trong máu.
+ Khi đã biết một trong những nồng độ nói trên,
có thể tính được khối lượng chung của máu.


Nhờ có máu dự trữ mà công việc của tim được
giảm nhẹ. Khi cơ thể nghỉ ngơi, một phần máu lưu
thông đi vào các kho dự trữ máu, khi cơ thể hoạt
động, một phần máu dự trữ được được tống vào
dòng máu tuần hòan.
Ở trong các kho dự trữ, một phần nước được
hấp thu nên tỷ lệ các thành phần hữu hình cao
hơn so với máu lưu thông
Mất máu gây nguy hiểm đến tính mạng. Tuy
nhiên mất 3/4 hồng cầu mà mất từ từ vẫn không
gây chết, tuy nhiên mất đột ngột khoảng 1/3 máu
động mạch thì cơ thể chết ngay do huyết áp giảm


Mối quan hệ giữa khối lượng cơ thể và lượng máu một số loài
Loài

ml/kg


Loài

ml/kg

Người

65-75

Chó

85-100




90-100
62-77

Ngựa - Lai
-Thuần

60-70
100-110



65-70

Lợn: 0-2 tháng

Trưởng thành

75-100
50-60

Cừu

55-65



80-100


1.3. Huyết tương và huyết thanh
Cho 5 ml máu vào 2 ống nghiệm: Ống nghiệm
A có chứa sẵn chất chống đông ( 2-3 giọt heparin
hoặc vài giọt xitrat Na 5%). Ống nghiệm B không
có chất chống đông. Để yên từ 1-2 giờ. Ta sẽ quan
sát thấy:
- Ống nghiệm A máu sẽ phân thành 3 lớp: lớp
dưới cùng màu hồng (hồng cầu); lớp giữa có màu
trắng nhạt (bạch cầu) và lớp trên cùng là dịch thể
màu vàng nhạt là huyêt tương (còn chứa sợi huyết
fibrinogen).
- Ống nghiệm B máu sẽ phân thành 2 lớp: Lớp
dưới là cục máu đông do các sợi fibrinogen kết lại
với nhau thành mạng lưới bên trong chứa các
huyết cầu; lớp trên màu màng nhạt gọi là huyết
thanh (không chứa fibrinogen) .



• Huyết

Huyết tương
chứa sợi huyết
fibrinogen
Huyết thanh thì
không


1.4. Đặc tính của máu
1.4.1. Tỷ trọng của máu
Máu có tỷ trọng cao hơn nước, giữa các loài
vật nuôi tỷ trọng máu không khác nhau nhiều:
Tỷ trọng máu của các loài
Ngựa

1,060

Lợn

1,060

Chó

1,059

Bò đực 1,061




1,062



1,064

Bò cái

Cừu

1,042

Người

1,051

1,043


1.4.2. Độ nhớt (độ quánh) của máu
Độ nhớt (hay độ quánh) chung của máu so với
nước là 5, trong khi đó của riêng huyết tương là
1,7-2,2.
Độ nhớt của máu do hồng cầu và thành phần
protein trong huyết tương quyết định. Độ nhớt
tăng khi cơ thể mất nước (do ỉa chảy, mất nhiều
mồ hôi trong lao động hoặc cảm đột ngột...).
Trường hợp mất nước nhiều không những chỉ

làm thay đổi độ nhớt mà còn kèm theo sự giảm
huyết áp, các thành phần nội môi mất cân bằng, do
đó cần phải được tiếp dung dịch sinh lý cho cơ thể.


1.4.3. Áp suất thẩm thấu của máu

Áp suất thẩm thấu là áp suất thấm lọc của hai
dung dịch qua màng. Áp lực này tỷ lệ thuận với nồng
độ mol hoà tan trong dung dịch và với nhiệt độ tuyệt
đối.
Ví dụ: Dung dịch có hàm lượng đường glucose
180g/l (1 phân tử gam) và một dung dịch có hàm
lượng ure 60g/l (1 phân tử gam) thì có áp suất thẩm
thấu bằng nhau. Nhưng một dung dịch có hàm lượng
muối ăn NaCl 58,5g/l lại có áp suất thẩm thấu lớn gấp
2 lần. Sở dĩ như vậy là do NaCl trong dung dịch phân
ly hoàn toàn thành Na+ và Cl- và mỗi ion có giá trị
như 1 mol.


Như vậy áp suất thẩm thấu tạo ra là do sự có mặt
của các chất hòa tan trong dung dịch. Có thể xác
định áp xuất thẩm thấu qua công thức sau:
P = α CRT
Trong đó :
- α là hệ số phân ly (dung dịch NaCl có α là 2)
- R là hằng số khí lý tưởng (R=0,082 atm/Mol.độ
- T là nhiệt độ tuyệt đối .
Do đó, đơn vị của áp suất thẩm thấu là atmotphe

(atm)





1.4.4. pH máu và hệ đệm
Máu có phản ứng kiềm yếu và pH ổn định
trong khoảng 7,35-7,50 (các loài khác nhau từ
0,1-0,2)
pH máu ổn định là nhờ các quá trình: Thải
CO2 ở phổi; thải Uric ở thận; thải axit hữu cơ ở
tuyến mồ hôi và đặc biệt là nhờ các hệ đệm có
trong máu.
pH ổn định có tác dụng: Duy trì các hoạt động
trao đổi chất của cơ thể; duy trì tác dụng của các
kích thích tố và hoạt động của các enzym


×