Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ĐÓNG góp của NHÀ yêu nước PHAN bội CHÂU TRONG PHONG TRÀO yêu nước đầu THẾ kỉ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.75 KB, 11 trang )

TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG LẦN THỨ X
TRƯỜNG THPT CHUYÊN TUYÊN
QUANG
*
MÔN: LỊCH SỬ
CHUYÊN ĐỀ:
ĐÓNG GÓP CỦA NHÀ YÊU NƯỚC PHAN BỘI CHÂU
TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẦU THẾ KỈ XX
Tác giả: Trần Quỳnh Chi – Nguyễn Thị
Thu Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THPT Chuyên tỉnh Tuyên
Quang
I- Khái quát một số vấn đề về cuộc đời và hoạt động của nhà yêu
nước Phan Bội Châu trong phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX:
1. Tiểu sử:
Phan Bội Châu ( 1867- 1940) tên thật là Phan Văn San, biệt hiệu Sào
Nam, sinh năm 1867 tại thôn Sa Nam, xã Đồng Liệt( nay là xã Xuân Hòa,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Ngay từ khi còn nhỏ, PBC nổi tiếng thông
minh học giỏi. Mười ba tuổi, thi đỗ đầu huyện, mười sáu tuổi đỗ đầu tỉnh.
Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, nơi quê hương vốn giàu
truyền thống yêu nước, Phan Bội Châu sớm có nhiệt tình cứu nước. Năm 17
tuổi khi Pháp đánh Bắc kì lần thứ nhất ( 1883), Phan Bội Châu viết hịch “
Bình Tây thu Bắc” để kêu gọi thân hào, nhân dân đứng lên chống Pháp. Năm
1885, kinh đô Huế thất thủ, hưởng ứng chiếu Cần Vương, thân hào xứ Nghệ
nổi lên mạnh mẽ, Phan ( 19 tuổi) đã lập “ Đội Thí sinh quân” gồm hơn 60
người để hưởng ứng.
Tiếp đó, là mười năm Phan Bội Châu dạy học, mở rộng giao du, tìm
nững người đồng tâm, đồng chí. Năm 1900 sau khi đỗ giải nguyên và cụ thân
sinh mất, ông chính thức bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng chiến đấu
cho độc lập, tự do của dân tộc.


2. Chủ trương cứu nước:
Từ thực tiễn của phong trào đấu tranh vũ trang cuối TK XIX, Phan Bội
Châu cho rằng, nước ta là một nước thuộc địa, muốn giải phóng nhân dân
thoát khỏi cảnh lầm than, nhất thiết phải đánh đổ thực dân Pháp và đánh đổ
1


bằng con đường bạo lực. Muốn đấu tranh bằng bạo lực thắng lợi không thể
chỉ đơn độc thủ hiểm ở một vùng, mà phải xây dựng phong trào toàn quốc,
phải có tổ chức mới và biện pháp đấu tranh mới là “bạo động”. Ông coi “
bạo động là con đường hoạt động duy nhất và tất yếu” để đánh đuổi giặc
Pháp.
Theo quan niệm của Phan Bội Châu, độc lập không thể xin được, “nợ
máu phải trả bằng máu”. Theo cụ Phan trong hoàn cảnh một nước thuộc địa
mà bất kì một sự phản kháng hòa bình nào cũng bị đàn áp dã man thì việc
dùng bạo lực cách mạng đập tan bạo lực phản cách mạng là con đường đúng
đắn nhất để giành thắng lợi. Phan Bội Châu đã thấy rằng sức mạnh của bạo
lực là sức mạnh có vũ trang của nhiều người, do đó phải chuẩn bị lâu dài và
chu đáo.
Muốn xây dựng thể chế quân chủ lập hiến, trước hết phải có độc lâp
dân tộc, mới xây dựng thể chế mới, muốn có độc lập dân tộc, ngoài con
đường bạo lực, không có con đường nào khác.
Truyền thống quê hương Nghệ An nơi Phan Bội Châu sinh ra và lớn
lên là vùng đất quật cường có truyền thống đấu tranh vũ trang.
Đường lối bạo động của Phan Bội Châu có ý nghĩa lịch sử rất to lớn.
Mặc dù không giành được thắng lợi nhưng vì đi đúng xu thế phát triển của
lịch sử, đường lối bạo động cách mạng đó đã phát động mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Đó là cống hiến lớn lao của
Phan Bội Châu đối với lịch sử dân tộc.
3. Hoạt động cứu nước của Phan Bội Châu.

a) Duy Tân Hội và Phong trào Đông Du.
Thực hiện chủ trương làm cách mạng bằng “ bạo lực” để cứu nước,
Phan Bội Châu tìm cách liên hệ với các văn thân sĩ phu yêu nước trong các
phong trào đấu tranh chống Pháp, liên kết dư đảng Cần Vương, những tay
tráng kiệt sơn lâm, những người có thế lực trong triều đình… khắp Bắc,
Trung, Nam. Phan Bội Châu muốn thực hiện kế hoạch liên kết cả dân tộc
thành một khối thống nhất, hình thành mặt trận dân tộc thống nhất sơ khai.
Sau một qua trình vận động xây dựng phong trào ở Bắc, Trung, Nam,
Phan Bội Châu nhận thấy cần có một tổ chức cách mạng mới và biện pháp
đấu tranh mới là “ bạo động”, “ xuất dương, cầu viện” và “ chuẩn bị điều
kiện để tiến hành bạo động đại quy mô, khôi phục nước VN, lập ra chính phủ
độc lập”. Năm 1904, Phan Bội Châu cùng hơn 20 đồng chí khác, thành lập tổ
chức Duy Tân Hội, tôn Cường Để làm Hội chủ để “ thu phục nhân tâm”, tập
hợp sĩ phu yêu nước, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của những người
trong nước. Mục đích chính của Hội là đánh Pháp, giành lại độc lập cho dân
tộc. Căn cứ vào việc tôn Cường Để làm Hội chủ, chứng tỏ rằng Duy Tân Hội
2


vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa quân chủ, nhưng đây là quân
chủ lập hiến.
Để thực hiện mục đích trên, Hội đã đề ra 3 nhiệm vụ:
(1) Mở rộng thế lực của Hội về người và tài chính.
(2) Xúc tiến công việc chuẩn bị bạo động.
(3) Trù liệu cử người xuất dương cầu viện.
=> Trong ba nhiệm vụ đó, chủ trương xuất dương cầu viện là quan
trọng nhất.
Ý nghĩa: Sự thành lập Duy Tân Hội đánh dấu một bước tiến quan
trọng về tư tưởng và tổ chức cứu nước của những người yêu nước Việt Nam
trên con đường chống Pháp, phù hợp với quy luật phát triển của nước ta lúc

bấy giờ, trong điều kiện phương Đông mới thức tỉnh theo con đường dân chủ
tư sản.
Về vấn đề “ xuất dương, cầu viện”, Phan Bội Châu quyết định sang
cầu viện Nhật Bản là nước đồng văn, đồng chủng.
Tháng 2- 1905, Phan Bội Châu sang Nhật đặt cơ sở cho phong trào
Đông Du. Tại đây, Phan Bội Châu gặp các chính khách Nhật (Đại Ôi bá
tước, Phúc Đảo) yêu cầu giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Các chính khách
Nhật chỉ chấp thuận trước mắt đưa thanh niên trong nước sang Nhật học để
rèn đúc chí khí, nuôi dưỡng nhân tài, chờ thời cơ thuận lợi về nước hoạt
động. Giữa năm 1905, Phan Bội Châu trở về nước vận động thanh niên yêu
nước xuất dương du học. Ông cũng tiến hành vận động thành lập các hội
nông, công, thương làm nơi liên lạc đưa đón tập hợp lực lượng, đồng thời là
cơ quan cung cấp tài chính cho phong trào Đông Du.
Tháng 6- 1905, Phan Bội Châu cùng Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ sang
Nhật, mở đầu cho phong trào Đông du. Trong những năm 1905- 1908, số
thanh niên Việt Nam sang Nhật học đã lên tới 200 người, trong đó Nam Kì
hơn 100, Bắc Kì 50 và Trung kì hơn 40. Đa số du học sinh Việt Nam được
vào học trường Đông Á Đồng văn thư viện, chương trình học về các môn
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và quân sự. Một số ít được vào học
trường Chấn võ- trường quân sự của chính phủ Nhật. Năm 1908 là năm đỉnh
cao của phong trào Đông du đã thu hút được đông đảo phụ huynh học sinh,
họ vượt biển sang Nhật Bản thăm con, khi về họ công khai tuyên truyền,
quyên góp tiền của gửi cho Duy Tân Hội. Thông qua phong trào Đông du,
Phan Bội Châu đã góp phần đào tạo được một số cán bộ như Đặng Tử Mẫn,
Lương Ngọc Quyến, Lương Nghị Khanh…làm nòng cốt cho phong trào yêu
nước và cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX.

3



Nhằm thức tỉnh quốc dân, Phan Bội Châu và các nhà lãnh đạo Duy Tân
Hội đã sáng tác nhiều thơ văn, như: Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết
thư, Đề tỉnh quốc dân hồn… vạch rõ kẻ thù chính của dân tộc là thực dân
Pháp xâm lược và tố cáo bọn phong kiến thối nát.
Đồng thời với việc dùng văn thơ tuyên truyền nâng cao tinh thần yêu
nước, tinh thần đoàn kết, Phan Bội Châu tích cực các hoạt động mở rộng
giao du và liên kết các nhân sĩ cách mạng trong và ngoài nước. Phan Bội
Châu đã gặp Tôn Trung Sơn, Lương Khải Siêu, qua tiếp xúc ông hiểu thêm
về tư tưởng dân chủ tư sản và biện pháp đấu tranh bằng “bạo động vũ trang”.
Cuối năm 1906, Phan Bội Châu gặp Hoàng Hoa Thám ở Phồn Xương (Yên
Thế). Hoàng Hoa Thám hứa sẽ tham gia vào Duy Tân Hội khi có điều kiện.
Sau đó, Phan Bội Châu còn tiếp xúc với một số nhân sĩ cách mạng ở Bắc kì,
Trung kì bàn về việc mở rộng các cuộc diễn thuyết tuyên truyền việc chuẩn
bị cho “ bạo động vũ trang”. Bên cạnh đó, Phan Bội Châu còn cùng với các
chí sĩ lưu vong Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ hiện sống ở Nhật thành lập
tổ chức Đông Á đồng minh hội ( 1909) để liên hiệp các nước châu Á cùng
giúp đỡ nhau trong công cuộc cứu nước. Phan Bội Châu còn sáng kiến thành
lập Hội Điền- Quế- Việt liên minh nhằm thu hút sự tham gia của các học
sinh người Vân Nam, Quế Châu vả các nhà hoạt động CM Việt Nam với
mục đích giúp đỡ nhau giải phóng đất nước khỏi ách thống trị và ràng buộc
của đế quốc.
Trước ảnh hưởng và uy tín của Phan Bội Châu cũng như phong trào
Đông du ngày càng lớn, thực dân Pháp một mặt tăng cường khủng bố, mặt
khác thỏa hiệp, nhượng cho Nhật một số quyền lợi ở Đông Dương, với điều
kiện phải trục xuất Phan Bội Châu và những người yêu nước Việt Nam khỏi
nước Nhật. Tháng 9- 1908, Nhật trục xuất du học sinh Việt Nam. Tháng 21909 Phan Bội Châu cũng bị trục xuất khỏi nước Nhật. Thất bại của phong
trào Đông du đã thức tỉnh Phan Bội Châu một bài học quý giá: Đã là đế quốc
thì dù da vàng hay da trắng cũng đều là một phường cướp nước như nhau.
Ý nghĩa của Duy Tân Hội và phong trào Đông Du:
+ Duy Tân Hội trong suốt thời kì từ 1904- 1911 thực sự đóng vai trò

như một Đảng chính trị. Đóng góp lớn nhất của Duy Tân Hội là đã phát động
mạnh mẽ phong trào yêu nước rầm rộ trên toàn quốc, tập hợp được lực lượng
đông đảo kháng Pháp, chuẩn bị đầy đủ về mặt tinh thần cho các cuộc đấu
tranh sắp tới.
+ Phong trào Đông Du đã tạo nên một không khí cách mạng rất sôi nổi
kéo dài từ năm 1905- 1908. Phong trào lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam đã có
một vị trí trọng yếu trong lịch sử cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX.

4


+ Đào tạo được một số cán bộ cung cấp cho phong trào yêu nước đầu
thế kỉ XX như Lương Ngọc Quyến, Đặng Tử Mẫn, Lương Nghị Khanh…
+ Phong trào truyền bá một số tư tưởng đúng đắn của Phan Bội Châu
như: xác định kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp, vạch rõ
những tội ác của chúng và kiên trì chủ trương “ đánh giặc phục thù” mà thủ
đoạn là bạo động.
b) Việt Nam Quang phục hội.
Sau khi phong trào Đông Du thất bại, Phan Bội Châu sang Xiêm. Năm
1911, CM Tân Hợi thành công, lật đổ triều đình Mãn Thanh ở Trung Quốc
và thành lập chính phủ Dân quốc. Sự kiện đó đã đem lại cho Phan Bội Châu
và các đồng chí của ông một nguồn phấn khởi và tin tưởng mới, họ xem đây
là cơ hội tốt cho CM Việt Nam. Vì vậy, PBC trở về Trung Quốc để tiếp tục
cuộc vận động cứu nước. 6- 1912, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Phan Bội
Châu cùng với các đồng chí của mình thành lập Việt Nam Quang phục Hội.
Mục đích: Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập
nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam. Chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp
bằng bạo lực, nên đã thành lập Việt Nam Quang phục quân.
Cùng với Duy Tân Hội trước đó, sự ra đời và hoạt động của VNQPH
khẳng định xu hướng bạo động là hạt nhân tư tưởng cứu nước của PBC. Mặt

khác, sự ra đời của VNQPH đánh dấu một bước tiến mạnh hơn trong tư
tưởng của PBC và những người lãnh đạo CMVN bấy giờ trên con đường dân
chủ tư sản, từ chủ trương Quân chủ Lập hiến của Duy Tân Hội sang chủ
trương Cộng hòa dân quốc của VNQPH.
Hoạt động của Việt Nam quang phục hội chủ yếu trong nước, chủ
trương ám sát những tên trùm thực dân và bọn tay sai đắc lực của chúng, gây
tiếng vang lớn, khôi phục lại phong trào yêu nước trên phạm vi cả nước.
Nhưng chỉ sau vụ giết tuần phủ Nguyễn Duy Hàn ở Thái Bình và giết hại
trung tá Pháp ở Hà Nội, hoạt động vũ trang của Việt Nam Quang Phục Hội
tạm lắng xuống do Pháp khủng bố, bắt giam hàng trăm người.
Tháng 1- 1914, Phan Bội Châu bị bắt giam ở Quảng Đông. Cuối năm
1917, sau khi thoát khỏi nhà tù, Phan Bội Châu định trở về nước phát động
một cuộc “bạo động vũ trang” nhưng không thành. Từ năm 1920, trước ảnh
hưởng ngày càng vang dội của cách mạng tháng Mười, Phan Bội Châu bắt
đầu có sự chuyển biến tư tưởng, cảm tình với chủ nghĩa xã hội. Cuối năm
1924, trong lần tiếp xúc trao đổi với đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở Quảng
Châu, PBC nhận thức được sự hạn chế của mình và đặt nhiều hi vọng vào
Nguyễn Ái Quốc. Tháng 6- 1925 Phan Bội Châu bị mật thám bắt ở Thượng
Hải, sau đó đưa về giam ở Hỏa Lò ( Hà Nội). Trước khí thế đấu tranh mạnh
5


mẽ của quần chúng, tháng 12- 1925, thực dân Pháp phải xóa bỏ án tử hình và
đưa ông về giam lỏng ở Huế cho đến lúc qua đời ( 29- 10- 1940).
4. Ý nghĩa của những hoạt động của Phan Bội Châu.
- Kế tục truyền thống thượng võ của cha ông, tiếp tục truyền thống
khởi nghĩa vũ trang chống Pháp, chống xâm lược của nhân dân ta cuối thế kỉ
XIX.
- Tư tưởng của Phan Bội Châu khác tư tưởng bạo động của các sĩ phu
Cần vương ở chỗ tách khỏi tư tưởng trung quân, đoạn tuyệt với phong kiến,

chuyển yêu nước sang lập trường dân chủ tư sản.
- Tiếp thu ngày càng sâu sắc tư tưởng dân chủ và hướng cuộc đấu tranh
của nhân dân vào con đường cách mạng mới.
- Phan Bội Châu sớm đã có tư tưởng về việc đoàn kết dân tộc đến đoàn
kết quốc tế nhằm giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Tuy nhiên phạm vi đoàn kết quốc tế của ông cũng chỉ giới hạn ở các nước “
đồng chủng, đồng văn, đồng bệnh” trong phạm vi châu Á.
- Thơ, văn yêu nước của Phan Bội Châu góp phần thức tỉnh quốc dân
đồng bào, nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào về truyền thống đấu
tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc.
- Xu hướng bạo động cuối cùng thất bại, nhưng để lại nhiều bài học
kinh nghiệm cho đời sau. Có thể nói trước khi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện,
Phan Bội Châu là ngôi sao sáng nhất trong bầu trời cách mạng Việt Nam.
5. Hạn chế.
- Thực tế phong trào cho thấy Phan Bội Châu chưa xác định được cơ sở
trong nước mà dựa vào thế lực bên ngoài. Chưa thấy được lực lượng nòng
cốt của cách mạng là công- nông.
- Dựa vào đế quốc Nhật để đánh đế quốc Pháp là ảo tưởng, Phan Bội
Châu chưa nhận thức đúng đắn về bản chất của chủ nghĩa đế quốc.
II – Một số dạng đề ôn tập dành cho học sinh giỏi về đóng góp của
Phan Bội Châu trong phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX:
Đề 1: Trình bày sự xuất hiện khuynh hướng dân chủ tư sản trong
những năm đầu thế kỉ XX? Vì sao Phan Bội Châu chủ trương cứu nước
bằng con đường bạo động?
Gợi ý trả lời:
Trước hết, cần giúp học sinh nắm được bối cảnh xuất hiện huynh
hướng dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX:
6



Bối cảnh trong nước:
- Phong trào Cần Vương thất bại, con đường cứu nước theo hệ tư tưởng
phong kiến bị phá sản, chấm dứt vai trò lịch sử của nó.
- Thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa I (chính trị,
kinh tế, văn hóa – ngắn gọn)
- Chuyển biến trong kinh tế, xã hội.
+ Sự nảy sinh các giai cấp tầng lớp mới
+ Giai cấp cũ bị phân hóa sâu sắc
+ Tầng lớp sĩ phu nho học mới xuất hiện trong quá trình phân hóa của
tầng lớp sĩ phu cũ, trừ một số đi vào con đường yếm thế, đa số vẫn ôm mộng
cứu nước cứ dân.
Bối cảnh thế giới có những sự kiện ảnh hưởng:
+ Nhật Bản được coi là cứu tinh của các dân tộc da vàng…
+ Cải cách của Trung Quốc, nơi được coi là cái nôi của văn hóa Nho
giáo, vạn lí trường thành vững chắc, biểu trưng của chế độ pk cũng bị lung
lay…
+ Làn sóng duy tân, đổi mới ở nhiều nước Đông Nam Á như Thái Lan,
Xingapo, Philippin…
+ Châu Âu: Pháp…
-> Đó là những nước có chế độ chính trị gần như tương đồng với nước
ta, chỉ ra cho những người yêu nước Việt Nam một con đường cứu nước
mới. Đó là muốn cứu nước, phải đi theo con đường TBCN, phải đoạn tuyệt
với phong kiến hoặc ít nhất là cải tiến chế độ.
->Từ những luồng tư tưởng trên, các nguồn tài liệu tân thư tân văn xuất
hiện như Văn minh tân học sách ( Sách dạy làm văn minh), những từ dân
ước, dân nguyện, dân chủ, dân sinh lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn sách
này.
* Vì sao PBC chủ trương bạo động?
Theo PBC, độc lập không thể đi xin được “nợ máu phải trả bằng máu”.
Theo PBC trong hoàn cảnh một nước thuộc địa mà bất kì một sự phản kháng

hòa bình nào cũng bị đàn áp dã man thì việc dùng bạo lực cách mạng đập tan
bạo lực phản cách mạng là con đường đúng đắn nhất để giành thắng lợi. PBC
đã thấy rằng sức mạnh của bạo lực là sức mạnh có vũ trang của nhiều người,
do đó phải chuẩn bị lâu dài và chu đáo.

7


Muốn xây dựng thể chế QCLH, trước hết phải có độc lập dân tộc,
muốn có độc lập dân tộc, ngoài con đường bạo lực, không có con đường nào
khác.
Do truyền thống quê hương…
Nhận xét: Đường lối bạo động của PBC có ý nghĩa lịch sử rất to lớn.
Mặc dù không giành được thắng lợi nhưng vì đi đúng xu thế phát triển của
lích sử, đường lối bạo động cách mạng đó đã phát động mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Đó là cống hiến lớn lao của
PBC đối với lịch sử dân tộc.
Đề 2: Đánh giá ý nghĩa của những hoạt động của Duy Tân Hội và
phong trào Đông Du?
Gợi ý trả lời:
+ Duy Tân Hội trong suốt thời kì từ 1904-1911 thực sự đóng vai trò
như một Đảng chính trị. Đóng góp lớn nhất của Duy tân hội là đã phát động
mạnh mẽ phong trào yêu nước rầm rộ trên toàn quốc, tập hợp được lực lượng
đông đảo kháng Pháp, chuẩn bị đầy đủ về mặt tinh thần cho các cuộc đấu
tranh sắp tới.
+ Phong trào Đông Du đã tạo nên một không khí cách mạng rất sôi nổi
kéo dài từ năm 1905-1908. Phong trào lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam đã có
một vị trí trọng yếu trong lịch sử cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX
+ Đào tạo được một số cán bộ cung cấp cho phong trào yêu nước đầu
thế kỉ XX (Lương Ngọc Quyến)

+ Phong trào truyền bá một số tư tưởng đúng đắn của PBC như: xác
định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp; đề ra con
đường mới: đó là con đường cách mạng vũ trang giành độc lập dân tộc.
Đề 3: Phân tích ý nghĩa của những hoạt động yêu nước của Phan
Bội Châu?
Gợi ý trả lời:
+ Kế tục truyền thống thượng võ của cha ông, tiếp tục truyền thống
khởi nghĩa vũ trang chống Pháp, chống xâm lược của nhân dân ta cuối thế kỉ
XIX.
+ Tư tưởng của PBC khác tư tưởng bạo động của các sĩ phu Cần vương
ở chỗ tách khỏi tư tưởng trung quân, đoạn tuyệt với phong kiến, chuyển yêu
nước sang lập trường DCTS.
Tiếp thu ngày càng sâu sắc tư tưởng dân chủ và hướng cuộc đấu tranh
của nhân dân vào con đường cách mạng mới.
8


+ Xu hướng bạo động cuối cùng thất bại, nhưng để lại nhiều bài học
kinh nghiệm cho đời sau. Riêng PBC được đánh giá “ vị anh hùng…”
+ Thơ văn yêu nước của PBC góp phần thức tỉnh quốc dân đồng bào…
III- Một số đánh giá, nhận định của các nhà nghiên cứu về cuộc đời
và sự nghiệp của Phan Bội Châu:
Đương thời, nhà chí sĩ Phan Châu Trinh đã viết về Phan Bội Châu như
sau: “Phan Bội Châu nhận hẳn rằng người Pháp quyết không có thiệt lòng
khai hóa cho người Nam, nên nói việc khai hóa, trước phải tìm cách đánh đổ
chính phủ Pháp, mà muốn đánh đổ chính phủ Pháp, không nhờ cậy thế lực
một nước mạnh ngoài, thì tự người Nam không làm gì được. Hiện nay nước
mạnh duy có Nhật Bản là nước đồng văn đồng chủng nên cầu viện với Nhật
Bản...”
(Phan Châu Trinh, Cuộc nói chuyện với quan Thống soái Sài Gòn trên đảo

Côn Lôn)
Phan Bội Châu cũng đã được một luật sư người Pháp tên là Bona ca ngợi
rằng:
“Cụ Phan (Phan Bội Châu) là người quả không hổ là kẻ ái quốc, ái
quân chân chính. Dầu tôi là người Pháp, đối với cụ Phan tôi cũng phải
ngưỡng mộ. Tôi ngưỡng mộ là ngưỡng mộ cái thân thế quang minh, cái tinh
thần cao thượng, cái nghị lực bất di, bất khuất đã chứng tỏ ra trong việc làm
của cụ”
Trong sách Đại cương cương lịch sử Việt Nam (xuất bản 2006) đã có
đoạn viết:
“Theo Phan Bội Châu, chỉ có con đường vũ trang bạo động...Đây là con
đường đúng đắn nhất. Tuy nhiên, ông thất bại là vì "không có lực lượng bên
trong mà chỉ ỉ lại vào người ngoài thì thật là khó", " ỉ lại vào người thì
không thể thành công được”. Những lời tự phê phán của ông thật sự nghiêm
khắc mà cũng vô cùng chính xác!...Mặc dù không giành được thắng lợi,
nhưng đường lối bạo động cách mạng đó đã phát động mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân Việt. Đó là cống hiến lớn lao
của Phan Bội Châu và các tổ chức của ông...”
Ngoài sự nghiệp cách mạng, Phan Bội Châu còn viết rất nhiều sách
báo, và đã được phổ biến sâu rộng trong nhân dân. Trong Từ điển văn

9


học (bộ mới xuất bản 2004), sau khi giới thiệu về ông và sự nghiệp văn
chương của ông, cũng đã kết luận rằng:
“Trong lịch sử văn học Việt Nam không dễ gì có nhiều văn chương có
sức lay động quần chúng đứng lên đấu tranh cách mạng lớn lao như văn
chương của Phan Bội Châu. Ngày nay trong văn chương đó, về tư tưởng và
quan niệm, có thể điểm này điểm khác không còn phù hợp, nhưng trái tim

chan chứa nhiệt huyết của tác giả vẫn còn nguyên giá trị. Ông là một trong
số những nhà văn lớn của văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20”
Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá Phan Bội Châu là “Bậc anh hùng, vị
thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ
tôn sùng”
Kết luận: Như vậy, nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã nêu tấm
gương tiêu biểu trong các cuộc vận động yêu nước chống Pháp những năm
đầu thế kỉ XX. Ông đã có ảnh hưởng và uy tín rất lớn trong các giới đồng
bào. Quá trình vận động CM, ông kiên trì phương pháp đấu tranh bằng bạo
động vũ trang và chủ trương dựa vào sự giúp đỡ của nước ngoài để đánh
đuổi thực dân Pháp, khôi phục độc lập dân tộc, xây dựng mjột nhà nước
phỏng theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật Bản.
Tuy nhiên, do hạn chế của điều kiện lịch sử và của bản thân, chủ
trương “bạo động” của Phan Bội Châu bị thất bại. Sau nhiều năm tận tụy hy
sinh vì sự nghiệp cứu nước không thành, Phan Bội Châu đau đớn, xác nhận
“Lịch sử của tôi là lịch sử một trăm thất bại mà không một thành công”.
Song bằng hình thức đấu tranh mới là “bạo động” “xuất dương, cầu viện”,
Phan Bội Châu đã góp phần xứng đáng làm cho phong trào yêu nước và cách
mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX có bước phát triển mới trong sự nghiệp đấu
tranh của dân tộc ta chống chủ nghĩa đế quốc phương Tây.

1.

2.

3.

Tài liệu tham khảo
Phan Bội Châu, Phan Bội Châu toàn tập (Tập 6). Nhà xuất bản Thuận
Hóa, 1990.

Đinh Xuân Lâm (chủ biên) - Nguyễn Văn Khánh - Nguyễn Đình
Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
Trần Văn Giàu - Đinh Xuân Lâm - Nguyễn Văn Sự, Lịch sử Việt
Nam (1897-1914). Nhà xuất bản Xây dựng.
10


4.

5.

6.

Phan Bội Châu và xã hội Việt Nam ở thời đại ông. NXB Văn hóa –
Thông tin, H, 1997
Đinh Xuân Lâm (cb), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2006.
Sách giáo khoa lịch sử 11 Nâng cao, NXB Giáo Dục, HN năm 2013

11



×