Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán thẻ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.5 KB, 91 trang )

1
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẺ VÀ HOẠT ĐỘNG THANH
TOÁN THẺ
1.1 TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ
Dấu hiệu của phương thức tín dụng tiêu dùng với phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt xuất hiện lần đầu tại Mỹ vào năm 1920 dưới cái tên gọi
tạm thời là “đĩa mua hàng” (shopper’s plate). Trên thực tế, đây là một hình thức
sơ khai của thẻ mua hàng (store card) hiện đại. Người chủ sở hữu của loại đĩa
này có thể mua hàng tại cửa hiệu phát hành ra chúng và hàng tháng họ phải hoàn
trả đầy đủ tiền hàng cho chủ cửa hiệu. Thực chất các cửa hàng phát hành ra đĩa
này đã đồng thời cung cấp cho người mua hàng một hình thức tín dụng cơ bản,
đó là “mua hàng trước và chi trả sau” (buy now, pay later).
Tuy nhiên, thẻ ngân hàng được coi là chính thức xuất hiện lần đầu tiên
vào năm 1949 tại Mỹ xuất phát từ một trường hợp rất ngẫu nhiên. Một doanh
nhân tên là Frank Mc Namara trong một bữa ăn tối tại nhà hàng, chợt nhận ra
mình không mang theo tiền để thanh toán, ông ta đành gọi điện về nhà nhắn
người mang tiền đến giúp. Chính trong tình huống đó, ông chợt nảy ra ý tưởng
về một loại phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt có thể sử dụng ở nhiều
nơi. Năm 1950, chiếc thẻ nhựa đầu tiên bắt đầu ra đời với tên gọi là thẻ tín dụng
Diners Club. Với lệ phí hàng năm là 5 USD, những người mang thẻ Diners Club
có thể ghi nợ khi ăn tại 27 nhà hàng nằm trong hoặc ven thành phố New York.
Ngược lại, các nhà bán lẻ trong hệ thống Diners Club bị tính chiết khấu 5% trên
mỗi món hàng bán ra.
Xuất phát từ một ý tưởng, nhưng những tiện ích mà những chiếc thẻ đầu
tiên mang lại đã nhanh chóng chinh phục được đông đảo khách hàng. Các khách
hàng - chủ thẻ rất hài lòng về sự tiện lợi khi sử dụng thẻ cũng như các khoản vay
từ thẻ. Người tiêu dùng khi sử hữu phương tiện thanh toán này có thể mua hàng
Đào Thu Trang - Lớp 4031
2


hoá, dịch vụ trước mà không phải trả tiền mặt ngay khi đó. Mặc dù hàng tháng
họ phải hoàn trả toàn bộ các chi tiêu nhưng họ đã có được một khoản ứng trước
không phải trả lãi trong vòng một tháng.
Về phía các cơ sở cung ứng hàng hoá dịch vụ, phương thức thanh toán này
cũng hấp dẫn họ. Họ nhận thấy rằng mặc dù bị tính chiết khấu trên mỗi món hàng
bán ra nhưng bù lại các khách hàng - chủ thẻ dường như thoải mái hơn trong các
quyết định mua hàng hoá dịch vụ và thực sự đã mua nhiều hàng hoá dịch vụ hơn
khi dùng tiền mặt. Chấp nhận thẻ lại an toàn hơn nhiều so với dùng séc. Thêm vào
đó, việc sử dụng hệ thống tín dụng của các tổ chức ngân hàng sẽ tiết kiệm được
nhiều chi phí hơn so với việc thiết lập một mạng lưới tín dụng cục bộ.
Hình thức thanh toán mới không chỉ dừng lại ở việc mang lại tiện ích cho
người tiêu dùng, hơn thế nữa nó hứa hẹn một ngành kinh doanh mới với khả
năng sinh lãi hàng tỷ đô la mà ngay cả người phát mình ra nó, Frank Mc
Namara, cũng không tiên liệu được. Đến năm 1951, hơn 1 triệu USD được tính
nợ và số lượng thẻ ngày càng tăng lên, công ty phát hành thẻ Diners Club nhanh
chóng thu được lãi. Một cuộc cách mạng về thẻ diễn ra sau đó đã nhanh chóng
đưa thẻ trở thành phương tiện thanh toán phổ dụng toàn cầu. Tiếp nối thành
công của thẻ tín dụng Diners Club, năm 1955 hàng loạt thẻ như Trip Change,
Golden Key, Gourmet Club, Esquire Club… nối tiếp ra đời. Phần lớn các thẻ
này trước hết được phát hành nhằm phục vụ giới doanh nhân, nhưng sau đó
ngân hàng đã nhận thấy rằng giới bình dân mới là đối tượng chủ yếu sử dụng thẻ
trong tương lai. Vào cuối những năm 1950, một số ngân hàng tại Mỹ đã tiến
hành cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng theo cơ chế tín dụng tuần hoàn.Với dịch vụ
này, các chủ thẻ có thể duy trì số dư có trên tài khoản vay bằng một hạn mức tín
dụng nếu họ hoàn thành trách nhiệm thanh toán hàng kỳ theo quy định của Ngân
hàng.
Tuy vậy, trong giai đoạn này, hệ thống tín dụng thẻ vẫn chỉ dừng lại ở mối
quan hệ tương đối đơn giản được xác lập giữa nhà phát hành thẻ, cơ sở chấp
nhận thẻ và chủ thẻ.
Đào Thu Trang - Lớp 4031

3
Năm 1960, Bank of America giới thiệu sẩn phẩm thẻ đầu tiên của mình -
BANKAMERICARD. Thẻ BANKAMERICARD phát triển rộng khắp và trong
những năm tiếp theo, ngày càng nhiều các tổ chức tài chính ngân hàng trở thành
thành viên của BANKAMERICARD. Những thành công của
BANKAMERICARD đã thúc đẩy các nhà phát triển thẻ khác trên khắp nước Mỹ
bắt đầu tìm kiếm phương thức cạnh tranh với loại thẻ này.
Đến năm 1966, 14 ngân hàng hàng đầu của Mỹ thành lập Interbank - một
tổ chức mới với chức năng là đầu mối trao đổi các thông tin về giao dịch thẻ.
Ngay sau đó, năm 1967, 4 ngân hàng bang California đổi tên của họ từ
California Bank Card Association thành Western State Bank Card Association
(WSBA), WSBA đã liên kết với Interbank để phát hành thẻ
MASTERCHARGE. Tổ chức WSBA cho phép Interbank sử dụng tên và biểu
tượng MASTERCHARGE của mình. Vào cuối những năm 60, một số lớn các tổ
chức tài chính ngân hàng trở thành thành viên của MASTERCHARGE - đối thủ
cạnh tranh của BANKAMERICARD.
Những năm sau đó, tất cả các tổ chức tài chính ngân hàng đã hoặc đang
quan tâm đến việc phát hành thẻ ở Mỹ đều trở thành thành viên của
BANKAMERICARD hoặc MASTERCHARGE. Các Hiệp hội ngân hàng và các
thành viên của họ cùng chia sẻ chi phí hệ thống hoạt động thẻ, làm cho ngay cả
các tổ chức tài chính ngân hàng rất nhỏ cũng có thể tham gia vào hệ thống này.
Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là các nhà phát hành thẻ chỉ tìm kiếm được
lợi nhuận cao nếu họ biết cách phát triển rộng khắp mạng lưới khách hàng, chủ
thẻ và cở sở chấp nhận thẻ. Hệ thống này mang lại lợi nhuận cho tất cả các thành
viên và thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ về mạng lưới chủ thẻ, cơ sở chấp nhận
thẻ cũng như doanh số bán hàng bằng thẻ.
Sức ép về việc phải tăng mạnh số lượng chủ thẻ làm cho nhiều tổ chức tài
chính bắt đầu phát hành thẻ một cách bừa bãi, thậm chỉ bỏ qua cả quá trình xét
duyệt đơn xin phát hành và thẩm định khả năng tài chính của khách hàng. Một
số lượng lớn thẻ đã bị mất trên đường gửi từ nhà phát hành thẻ đến khách hàng

Đào Thu Trang - Lớp 4031
4
mà không được quan tâm. Bên cạnh đó có nhiều chủ thẻ mới chưa có kinh
nghiệm về sử dụng thẻ, họ mau chóng tiêu vượt quá hạn mức tín dụng được cấp
và thường xuyên gặp khó khăn khi đến hạn thanh toán các khoản vay. Vì những
lý do đó, nhiều nhà phát hành rơi vào tình trạng thất thoát về tín dụng và gánh
chịu nhiều rủi ro. Khó khăn lại càng chồng chất thêm cho các nhà phát hành thẻ
bởi sự chậm trễ trong thanh toán bù trừ giữa các thành viên trong Hiệp hội. Số
lượng thẻ bị mất cắp, bị làm giả mạo tăng nhanh càng làm nghiêm trọng hơn
mức độ tổn thất cho các nhà phát hành thẻ. Chính vì vậy, một hệ thống quản lý
thẻ hiệu quả và được tiêu chuẩn hoá để xử lý các chứng từ giao dịch và các hoạt
động thẻ là vô cùng cần thiết cho các nhà phát hành cũng như thanh toán thẻ.
Interbank (MASTERCHARGE) và Bank of America
(BANKAMERICARD) đã tạo lập nên một hệ thống các quy tắc tiêu chuẩn. Hai
tổ chức này cũng đã xây dựng nên các hệ thống xử lý toàn cầu được tiêu chuẩn
hoá với chức năng xử lý các giao dịch thẻ, thanh toán và trao đổi thông tin cũng
như đưa ra các nguyên tắc tra soát, khiếu kiện để giải quyết tranh chấp giữa các
thành viên. Với thành tựu này, Interbank và Bank of America đã trở thành người
đi đầu trong lĩnh vực thanh toán và phát hành thẻ trên thế giới.
Năm 1977, tổ chức thẻ BANKAMERICARD đổi tên thành VISA USA và
sau đó là tổ chức thẻ quốc tế VISA. Năm 1979, tổ chức thẻ MASTERCHARGE
đổi tên thành MASTERCARD. Các thành viên của hai tổ chức thẻ quốc tế này
cũng như bản thân cả hai tổ chức bắt đầu mua các chương trình phần mềm cũng
như các thiết bị phần cứng phát hành, thanh toán và quản lý thẻ của các công ty
bên ngoài với mục đích tiết kiệm chi phí cho các thành viên và tạo điệu kiện cho
ngày càng nhiều tổ chức tài chính ngân hàng có thể tham gia hệ thống.
Với những thành công vang dội ở nước Mỹ, thẻ ngân hàng đã nhanh
chóng lan rộng sang các nước và khu vực khác và được tiếp nhận nồng nhiệt.
Vào năm 1960, chiếc thẻ nhựa Diners Club đầu tiên có mặt tại Nhật đã mở đầu
cho hoạt động thanh toán thẻ tai Châu Á. Vào năm 1961, ngân hàng Sanwa tại

Nhật Bản lần đầu tiên cho ra đời thẻ JCB với mục tiêu chủ yếu hướng vào thị
trường giải trí và du lịch. Chiếc thẻ nhựa đầu tiên do ngân hàng Barclay Bank
Đào Thu Trang - Lớp 4031
5
phát hành trên cơ sở thẻ VISA năm 1966 tại Anh cũng đã mở ra một thời kỳ sôi
động tại lục địa Châu Âu.
Thẻ ngân hàng lần đầu tiên được chấp nhận tại Việt Nam vào năm 1990,
khi Vietcombank ký hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa với ngân hàng Pháp
BFCE và đã mở đầu cho phương thức thanh toán mới này tại Việt Nam.
Ngày nay thẻ ngân hàng đã có mặt trên khắp thế giới với các hình thức,
chủng loại đa dạng, phong phú đang ngày càng đáp ứng đầy đủ những nhu cầu
riêng lẻ của người tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của hai tổ chức thẻ quốc tế
Visa và Mastercard, trên thế giới còn có hàng loạt tổ chức thẻ khác mang tính
quốc tế và khu vực ra đời như: JCB Card, American Express Card, Airplus,
Maestro Eurocard, Visioncard… Sự phát triển mạnh mẽ này đã khẳng định xu
thế phát triển tất yếu của thẻ. Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học
của thế giới về khoa học kỹ thuật, nhất là về công nghệ tin học, hệ thống thẻ
ngày càng hoàn thiện. Không chỉ dừng lại ở mối quan hệ đơn giản như thời kỳ
trước, hệ thống tín dụng thẻ ngày nay bao gồm cả các tổ chức thẻ quốc tế, các tổ
chức tài chính ngân hàng, các công ty cung ứng thiết bị và giải pháp kỹ thuật,
các công ty viễn thông quốc tế… Cùng với mạng lưới thành viên và khách hàng
phát triển từng ngày, các tổ chức thẻ quốc tế đã xây dựng hệ thống xử lý giao
dịch và trao đổi thông tin toàn cầu về phát hành, cấp phép, thanh toán, tra soát,
hoàn trả, khiếu kiện và quản lý rủi ro. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ USD
mỗi năm, thẻ đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ thống
thanh toán toàn cầu. Đây là một thành công đáng kể đối với một ngành kinh
doanh mới chỉ có vài thập kỷ hình thành và phát triển.
1.1.2. Khái niệm thẻ
“Thẻ ngân hàng” (Bank card) hay còn gọi là “tiền nhựa” (Plastic money),
sau đây gọi tắt là thẻ, là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do

ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính phát hành và cung cấp cho khách hàng (gọi
là chủ thẻ) dùng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại các cơ
Đào Thu Trang - Lớp 4031
6
sở chấp nhận thẻ. Do đặc điểm dùng thẻ để thanh toán nên thẻ ngân hàng còn
được gọi là “thẻ thanh toán”.
Từ khái niệm nêu trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm của thẻ ngân hàng
nói chung:
− Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời
từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền
với việc ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng.
− Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp
cho khách hàng sử dụng để thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các điểm
cung ứng hàng hoá dịch vụ có hợp đồng thanh toán với ngân hàng,
hoặc rút tiền mặt tại các máy giao dịch tự động hay các ngân hàng đại
lý trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc định mức tín dụng được
cấp.
− Thẻ ngân hàng còn dùng để thực hiện nhiều chức năng khác như xem
số dư, đặt lệnh chuyển tiền, … thông qua hệ thống giao dịch tự động
hay còn gọi là hệ thống tự phục vụ ATM.
1.1.3 Nội dung
Hầu hết các loại thẻ ngân hàng hiện nay đều làm bằng nhựa cứng, có hình
chữ nhật chung một kích cỡ 84mm x 54mm x 0.76mm có góc tròn gồm 2 mặt
với các nội dung sau:
− Tên, biểu tượng của thẻ và huy hiệu của tổ chức phát hành thẻ
− Số thẻ (Card number)
− Ngày hiêu lực của thẻ (Expiry date)
− Họ và tên chủ thẻ (Cardholder)
− Dãy băng từ (Magnetic Stripe) chứa các thông tin đã được mã hoá theo

một thể thống nhất như: số thẻ, ngày hết hạn, các yếu tố kiểm tra an
toàn khác.
− Băng giấy ghi chữ ký
Đào Thu Trang - Lớp 4031
7
− Ngoài ra còn có thể có các thông tin khác để tăng tính an toàn của thẻ
như: số mật mã đợt phát hành, ký hiệu riêng của từng tổ chức, hình của
chủ thẻ…
Biểu tượng của một số thẻ ngân hàng thông dụng trên thế giới

1.1.4 Phân loại thẻ
Đứng trên nhiều góc độ khác nhau để phân chia thì ta thấy thẻ ngân hàng
rất đa dạng. Người ta có thể nhìn nhận nó từ góc độ chủ thể phát hành, công
nghệ sản xuất hay là phương thức hoàn trả.
1.1.4.1 Phân loại theo chủ thể phát hành thẻ
Thẻ do ngân hàng phát hành
Là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khác hàng sử dụng linh động
tài khoản của mình tại ngân hàng hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín
dụng. Đây là loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất trên toàn cầu hiện nay, ví dụ
như thẻ Visa, Mastercard, JCB.
Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành
Đó là thẻ du lịch và giải trí gọi tắt là T&E (Travel and Entertainment) của
các tập đoàn kinh doanh lớn như Diners Club, Amex… Ngoài ra, một số công ty
lớn cũng phát hành thẻ riêng cho các đối tượng của công ty hướng theo mục
đích kinh doanh: công ty xăng dầu, các cưa hiệu lớn …
1.1.4.2 Phân loại theo công nghệ sản xuất
Thẻ khắc chữ nổi (Embossing card)
Đây là loại thẻ được làm dựa trên kỹ thuật khắc chữ nổi với các thông tin
cần thiết được khắc trên thẻ. Công nghệ này được sử dụng từ khi phát hành tấm
Đào Thu Trang - Lớp 4031

8
thẻ nhựa đầu tiên và hiện nay không còn được sử dụng nữa vì kỹ thuật sản xuất
quá thô sơ, dễ bị lợi dụng làm giả.
Thẻ băng từ (Magnetic Stripe)
Đây là loại thẻ được sản xuất dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ chứa
thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng phổ biến trong vòng 20 năm nay
nhưng đã bộc lộ một số nhược điểm. Thứ nhất, khả năng bị lợi dụng cao do thông
tin ghi trong thẻ không tự mã hoá được, do đó người ta có thể đọc dễ dàng bằng các
thiết bị đọc gắn với máy vi tính. Thứ hai, thẻ từ chỉ mang thông tin cố định, khu
vực chứa tin hẹp không áp dụng được các kỹ thuật mã đảm bảo an toàn. Do những
nhược điểm nêu trên, gần đây loại thẻ này đã bị lợi dụng lấy cắp tiền.
Thẻ thông minh (Smart Card/Chip Card)
Là loại thẻ dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ thẻ được gắn thêm vào
một “chip” điện tử có cấu trúc giống như một máy vi tính hoàn hảo. Thẻ thông
minh có nhiều nhóm với dung lượng nhớ của “chip” điện tử khác nhau.
Hiện nay có khoảng 20 triệu thẻ thông minh trên thế giới. Sự ra đời của
thẻ thông minh là một tiến bộ vượt bậc của ngành ngân hàng, người ta thậm trí
còn so sánh một con “chip” trong thẻ thanh toán cũng có sức mạnh như máy
điện toán NASA đưa người lên mặt trăng lần đầu tiên vào năm 1969. Thẻ thông
minh an toàn và hiệu quả hơn thẻ từ vì con “chip” vi tính này có thể chứa một
lượng thông tin lớn hơn 80 lần thông tin trong giải băng từ.
Trong thời gian trước mắt thẻ thông minh sẽ đồng xuất hiện cùng với thẻ
băng từ đồng thời hàng triệu máy rút tiền và máy đọc thẻ trên toàn thế giới sẽ
dần chuyển đổi để đọc các con “chip” điện tử. Cuối cùng thì công nghệ mới sẽ
dần thay thế công nghệ cũ.
1.1.4.3 Phân loại theo tính chất
Nếu xét theo tính chất thanh toán của thẻ, thẻ ngân hàng được chia làm
hai loại sau:
a. Thẻ tín dụng (Credit card)
Đào Thu Trang - Lớp 4031

9
Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó chủ thẻ được phép sử
dụng một hạn mức tín dụng qui định không phải trả lãi (nếu chủ thẻ hoàn trả số
tiền đã sử dụng đúng kỳ hạn) để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở
kinh doanh, cửa hàng, khách sạn … chấp nhận loại thẻ này.
Về bản chất đây là một dịch vụ tín dụng thanh toán với hạn mức chi tiêu
nhất định mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng căn cứ vào khả năng tài chính,
số tiền ký quĩ hoặc tài sản thế chấp của khách hàng. Khoảng thời gian từ khi thẻ
được dùng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho ngân
hàng có độ dài phụ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau.
Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn, thời gian này sẽ trở
thành thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được miễn lãi đối với số dư nợ cuối
kỳ. Tuy vậy, nếu hết thời gian này mà một phần hay toàn bộ số dư nợ cuối kỳ
chưa được thanh toán cho ngân hàng thì chủ thẻ sẽ phải chịu những khoản phí
và lãi chậm trả. Khi toàn bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho ngân hàng, hạn
mức tín dụng của chủ thẻ được khôi phục như ban đầu. Đây chính là tính chất
“tuần hoàn” (revolving) của thẻ tín dụng.
Thẻ tín dụng là công cụ thanh toán hiện đại, văn minh và có tính thông
dụng trên toàn thế giới. Không chỉ thanh toán giới hạn trong phạm vi lãnh thổ
của một quốc gia mà thẻ tín dụng quốc tế có thể được chấp nhận thanh toán ở tất
cả các cơ sở có trưng biểu tượng của thẻ đó trên khắp thế giới. Các ngân hàng
nội địa của nhiều nước khác nhau thường áp dụng song song hai hệ thống thẻ tín
dụng: trong nước bằng đồng bản tệ và sử dụng ở nước ngoài bằng đồng đô la
dưới những thương hiệu thẻ nổi tiếng. Do vậy dù trong nước hay nước ngoài các
loại thẻ này cũng mang đến tiện ích cho khách hàng và là nguồn lợi nhuận quan
trọng của ngân hàng. Trên thế giới hiện nay phổ biến hai loại thẻ tín dụng được
khác du lịch rất ưa chuộng là VISA và Mastercard.
Bên cạnh thẻ tín dụng thông thường, sau đây là một số hình thức thẻ tín
dụng khác được sử dụng trên thế giới:
• Thẻ ngân sách (Budget Card)

Đào Thu Trang - Lớp 4031
10
Thẻ ngân sách là một hình thức riêng của thẻ tín dụng thường do các nhà bán
lẻ phát hành. Chủ thẻ hàng tháng phải trả tối thiểu một khoản tiền nhất định đã
cam kết trước và được cấp một hạn mức tín dụng lớn gấp một số lần khoản
thanh toán cam kết trước này. Ví dụ chủ thẻ cam kết hàng tháng sẻ trả tối thiểu
là 10 Pounds và số nhân của ngân hàng là 25 lần, như vậy chủ thẻ có một hạn
mức tín dụng là 250 pounds. Thẻ này khác thẻ tín dụng thông thường ở giới hạn
mức tín dụng. Chủ thẻ cam kết với ngân hàng sẽ thanh toán một khoản tiền cố
định vào mỗi tháng bằng cách ghi nợ trực tiếp. Hạn mức tín dụng mà chủ thẻ
được cấp trong trường hợp này là khoản tiền chủ thẻ đã cam kết sẽ trả ngân hàng
hàng tháng.
• Thẻ liên kiết (Co-branded Cards)
Đây là thẻ tín dụng được cơ sở phát hành thẻ kết hợp với tổ chức hoặc công
ty có tên tuổi đồng phát hành và thông thường, tên hoặc nhãn hiệu thương mại,
logo của cơ sở đồng phát hành này cũng đồng thời xuất hiện trên tấm thẻ như
Ford/Barclaycard và GM/HFC Card. Ngoài những đặc điểm sẵn có của thẻ ngân
hàng thông thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn hơn đối với khách hàng bởi
chính những lợi ích phụ trội do cơ sở đồng phát hành mang lại. Ví dụ, thẻ Visa
co-brand do ngân hàng Standard Chartered và Tập đoàn thời trang Espirit phát
hành mang lại cho chủ thẻ những tiện ích phụ trội riêng biệt như: được chăm sóc
sắc đẹp miễn phí, giảm giá 20% cho tất cả các mặt hàng hiệu Espirit trong 3
tháng đầu tiên, chương trình điểm thưởng tích luỹ theo lượng tiền thanh toán
bằng thẻ.
Thẻ tín dụng liên kết giữa một ngân hàng hay tổ chức tài chính với một tổ
chức kinh doanh vì mục đích lợi nhuận như trên có thể là thẻ liên kết co-brand.
Bên cạnh đó, hình thức liên kết về thẻ tín dụng giữa ngân hàng và một tổ chức
phi lợi nhuận cũng cho ra đời sản phẩm thẻ liên kết Affinity Card. Điều khác biệt
cơ bản giữa hai loại thẻ liên kết nói trên là thẻ liên kết Affinity Card không
mang lại cho chủ thẻ những lợi ích phụ trội về mặt vật chất như giảm giá, điểm

thưởng… mà đem tới cảm giác khác biệt vì được tôn trọng về mặt tinh thần, về
Đào Thu Trang - Lớp 4031
11
các giá trị xã hội vì trở thành thành viên của một nhóm người ủng hộ một phong
trào hoặc chủ trương nào đó. Một trong những ví dụ của thẻ Affinity card là thẻ
MasterCard liên kết giữa ngân hàng DBS của Singapore với Liên đoàn bóng đá
thế giới phát hành sản phẩm thẻ DBS MasterCard 2002 FIFA World Cup.
• Thẻ mua hàng (Store Card)
Thẻ mua hàng do một số cửa hiệu siêu thị và trạm xăng phát hành. Thẻ mua
hàng cũng giống như thẻ tín dụng, thẻ tính tiền hoặc thẻ ngân sách nhưng chỉ
khác một điểm là thẻ này chỉ sử dụng tại các cửa hiệu hoặc một nhóm các cửa
hiệu phát hành thẻ. Thẻ mua hàng thông thường chịu lãi suất cao hơn thẻ tín
dụng thông thường được chấp nhận trên toàn thế giới. Mọi giao dịch thẻ chỉ diễn
ra giữa người sản xuất và chủ thẻ. Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để thanh toán và
sử dụng tín dụng nhưng không thể rút tiền mặt.
b. Thẻ ghi nợ (Debit card)
Thẻ ghi nợ là phương tiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền mặt
trên cơ sở số tiền của chính chủ thẻ, mà ngân hàng phát hành không cấp tín dụng
cho khách hàng. Mỗi khi chủ thẻ thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ thì ngân hàng
phát hành sẽ tự động trích nợ số tiền từ tài khoản của chủ thẻ và chuyển tiền đó
vào tài khoản của người bán. Thẻ ghi nợ còn được sử dụng để rút tiền mặt tại
các máy giao dịch tự động ATM.
Với tính chất không có hạn mức tín dụng, thẻ ghi nợ thường được cấp cho
khách hàng có số dư tài khoản tiền gửi thường xuyên ghi Có. Tuy nhiên, tuỳ
theo sự thoả thuận của chủ thẻ và ngân hàng phát hành, nếu số dư trên tài khoản
của chủ thẻ không đủ thanh toán, ngân hàng sẽ cấp cho chủ thẻ một mức thấu
chi (Chi vượt quá số tiền hiện có trên tài khoản). Với hình thức thấu chi, thẻ ghi
nợ đã giúp cho cá nhân, doanh nghiệp được cấp một khoản tín dụng ngắn hạn
mà không cần làm nhiều thủ tục.
Đứng ở góc độ ngân hàng mà nói thì việc phát hành thẻ ghi nợ an toàn hơn vì

việc chi tiêu của chủ thẻ dựa trên số dư tiền gửi của chủ thẻ tại ngân hàng, như
vậy ngân hàng đỡ phải gánh chịu những rủi ro do việc khách hàng chi tiêu số
Đào Thu Trang - Lớp 4031
12
tiền vượt quá số tiền trong tài khoản của họ và nói về mức độ có thể thay thế
tiền mặt. thẻ ghi nợ chiếm ưu thế vượt trội hơn thẻ tín dụng.
Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản:
Thẻ ghi nợ online: Là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ
ngay lập tức vào tài khoản chủ thẻ khi xuất hiện giao dịch:
Thẻ ghi nợ offline: Là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ
vào tài khoản chủ thẻ sau khi giao dịch được thực hiện vài ngày.
Một số dạng khác của thẻ ghi nợ
• Thẻ tính tiền (Charge Card)
Là một hình thức thẻ ghi nợ nhưng thẻ tính tiền được phát hành theo phương
thức giống như thẻ tín dụng, tuy nhiên hàng tháng chủ thẻ phải hoàn trả đầy đủ
hóa đơn thanh toán. Thẻ này được nối mạng cùng hệ thống với thẻ tín dụng
nhưng lệ phí hàng năm lớn hơn lệ phí thẻ tín dụng, đặc biệt là đối với các loại
thẻ vàng (Gold Charge Card). Loại thẻ này có thể mang đến các lợi ích khác như
ưu tiên đặt chỗ, mua vé hay bao gồm phí bảo hiểm du lịch và thường do các tổ
chức du lịch và giải trí như Diners Club và American Express phát hành.
• Thẻ rút tiền mặt (ATM Card)
ATM là viết tắt của Automatic Tellers Machine có nghĩa là máy giao dịch tự
động. Thẻ rút tiền mặt là một hình thức của thẻ ghi nợ, tuy nhiên thẻ này chỉ có
mỗi chức năng duy nhất là rút tiền mặt tại các máy ATM mà không có chức năng
thanh toán tại các điểm chấp nhận thẻ.
Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ ATM. Thông qua việc nhập
mã số bí mật của chủ thẻ gọi là PIN (Personal Identification Number), chủ thẻ
có thể sử dụng tài khoản cá nhân của mình tại ngân hàng mọi nơi, mọi lúc
24/24h một ngày và 7 ngày trong tuần. Điều này có nghĩa là cùng với thẻ ATM,
hệ thống ATM đã cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch

ngoài giờ làm việc, ngoài trụ sở của ngân hàng và khả năng tự phục vụ.
Theo thời gian, các tổ chức thẻ đã chủ động kết nối hệ thống ATM với nhau
tạo nên một mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực hiện giao
Đào Thu Trang - Lớp 4031
13
dịch tại nhiều máy ATM hơn. Hiện nay, hai hệ thống ATM lớn nhất trên thế giới
là CIRRUS của MasterCard và PLUS của VISA, sẵn sàng cho phép thẻ của các
ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác kết nối, tạo nên một mạng lưới rộng
khắp toàn cầu.
1.1.4.4 Phân loại theo mục đích sử dụng:
a. Thẻ cá nhân
Là loại thẻ dùng cho mục đích thanh toán của cá nhân, chủ thẻ chịu trách
nhiệm thanh toán bằng nguồn tiền của mình thông qua tài khoản mở tại ngân
hàng phát hành.
b. Thẻ công ty (Business card/commercial card)
Là loại thẻ được phát hành cho nhân viên của công ty sử dụng, nhằm giúp
cho các công ty này quản lý chặt chẽ việc chi tiêu của nhân viên mình vì mục
đích công việc. Hàng tháng, hàng quý và hàng năm, công ty sẽ được cung cấp
những thông tin quản lý một cách tóm tắt và chi tiết về sự chi tiêu của từng chủ
sở hữu thẻ của công ty này.
Thẻ công ty có một số hình thức như sau:
• Thẻ du lịch (Travel cards/Corporate Cards)
Là một loại thẻ công ty chuyên dùng để trả tiền du lịch, giải trí, ăn uống và
các chi phí liên quan. Thẻ thường dùng để các cơ quan như trường học quản lý
các khoản chi tiêu của nhân viên thường xuyên phải đi công tác và dùng thẻ để
xin chiết khấu với khách sạn và hãng hàng không. Thẻ này cho phép đơn vị
không phải ứng tiền mặt trước cho nhân viên và nhân viên thì có thể sử dụng tín
dụng cá nhân phục vụ mục đích kinh doanh.
• Thẻ mua sắm (Purchasing Card/Procurement Cards)
Thẻ này dùng để mua hàng hoá với các hợp đồng giá trị thấp và có tính chất

thường xuyên như mua văn phòng phẩm, mua vé (dưới 2500USD) và giúp đơn
vị không phải mất công làm các thủ tục như chuẩn bị đơn đặt hàng, viết séc,
chuyển tiền… Thẻ mua sắm thường được phát hành dưới tên của cá nhân hoặc
Đào Thu Trang - Lớp 4031
14
phòng ban, tuy nhiên ngân hàng phát hành đã ấn định một số giới hạn cho người
sử dụng thẻ như hạn chế về loại hình cơ sở chấp nhận thẻ, khối lượng giao dịch
và tổng số tiền thanh toán trong một kỳ báo cáo.
Thẻ mua sắm là một bộ phận phát triển rất nhanh chóng của ngành công
nghiệp thẻ ngân hàng. Các nhà cung cấp nhận thấy rằng chấp nhận thẻ mua sắm
của công ty sẽ giúp họ giảm bớt việc lập hoá đơn, xin cấp hạn mức tín dụng,
thanh toán tiền hàng qua séc… Đây là một phần mà các công ty hướng đến
chính sách thương mại điện tử hiện nay.
1.1.4.5 Phân loại theo đối tượng sử dụng
• Thẻ thường (Standard Card)
Đây là loại thẻ căn bản nhất, là loại thẻ mang tính chất phổ thông, đại
chúng ,được hơn 142 triệu người trên thế giới sử dụng mỗi ngày.
• Thẻ vàng (Gold Card)
Là loại thẻ phục vụ cho thị trường “cao cấp”, được xem như là loại thẻ ưu
hạng phù hợp với mức sống và nhu cầu tài chính của khách hàng có thu nhập
cao. Thẻ được phát hành cho các đối tượng có uy tín, khả năng tài chính lành
mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn. Loại thẻ này có thể có những điểm khác nhau tuỳ
thuộc vào tập quán, trình độ phát triển của mỗi vùng, tuy nhiên đặc điểm
chung nhất vẫn là thẻ có hạn mức tín dụng cao hơn thẻ thường.
Đào Thu Trang - Lớp 4031
15
1.1.4.6. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ
- Thẻ trong nước
Là thẻ được giới hạn trong một quốc gia, do vậy đồng tiền giao dịch phải
là đồng bản tệ của nước đó. Có hai loại thẻ trong nước:

+ (Local use only card) là loại thẻ do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng
trong nước phát hành, chỉ được dùng trong nội bộ hệ thống tổ chức đó mà
thôi.
+ (Domestic use only card) là thẻ mang thương hiệu của tổ chức thẻ quốc
tế được phát hành để sử dụng trong nước.
- Thẻ quốc tế (International card)
Là loại thẻ không chỉ dùng tại quốc gia nó được phát hành mà còn dùng
được trên phạm vi quốc tế. Muốn phát hành loại thẻ này thì ngân hàng phát hành
phải là thành viên của Tổ chức phát hành thẻ quốc tế.
Thẻ quốc tế được khách du lịch rất ưa chuộng vì tính an toàn tiện lợi. Do
phạm vi hoạt động dải khắp thế giới nên quy trình hoạt động của thẻ này phức
tạp hơn, việc kiểm soát tín dụng và các yêu cầu thủ tục thanh toán cũng vì vậy
mà rắc rối hơn. Thẻ quốc tế được sự hỗ trợ và quản lý trên toàn thế giới bởi các
tổ chức thẻ lớn như: MasterCard, Visa… hoặc những công ty điều hành lớn như
Amex, JCB… hoạt động trong một hệ thống nhất, đồng bộ.
Thuận lợi chủ yếu của thẻ quốc tế là ở chỗ các ngân hàng nhận được
nhiều sự giúp đỡ về nghiên cứu thị trường, xử lý và nâng cao những yếu tố kỹ
thuật của chủ thẻ từ phía trung tâm thẻ với chi phí thấp hơn nhiều so với sự hoạt
động. Ngoài ra, do được phát hành qua chương trình độc quyền, thẻ được nhiều
người biết đến và dễ dàng được chấp nhận rộng rãi ở hầu hết mọi nơi.
1.1.5 Vai trò của thẻ ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế xã hội
Đã từ lâu, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán được coi là một lãng phí
lớn đối với nền kinh tế quốc gia vì nó luôn đi kèm với các rủi ro về mất mát, chi
phí vận chuyển, kiểm đếm, in ấn, bảo quản… do đó, tiền mặt không được coi là
phương tiện thanh toán ưu việt. Tỉ phần sử dụng tiền mặt trong hoạt động thanh
Đào Thu Trang - Lớp 4031
16
toán được xem như một thước đo đánh giá sự phát triển của nền kinh tế. Đây
chính là tiền đề cho việc ra đời hàng loạt các phương tiện thanh toán phi tiền mặt
như: uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, séc, ngân phiếu thanh toán, thư tín dụng.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế các phương tiện thanh toán phi tiền
mặt trên ngày càng đựơc sử dùng rộng rãi trong giao dịch kinh doanh của các tổ
chức kinh tế. Tuy nhiên, các phương tiện thanh toán này mới chỉ giới hạn trong
các giao dịch kinh tế, ít được phổ biến trong đời sống sinh hoạt của đại bộ phận
dân cư. Sự ra đời của thẻ ngân hàng chính là nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch
đơn lẻ của các cá nhân nhằm từng bước dần thay thế tiền mặt trong giao dịch
của xã hội.
Nhờ những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực công nghệ thông tin những
năm gần đây, công dụng của thẻ ngày càng được phát triển và mở rộng. Thẻ
ngày càng thể hiện vai trò to lớn của mình trong phát triển kinh tế xã hội. Điều
này được thể hiện trên các mặt sau:
• Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông: Là một phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt, vai trò đầu tiên của thẻ là giảm khối lượng tiền mặt
trong lưu thông. Ở các nước phát triển, thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối
lượng cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông giảm đáng kể.
• Tăng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế: Hầu hết
mọi giao dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và
thanh toán trực tuyến (online) vì vậy tốc độ chu chuyển, thanh toán nhanh
hơn nhiều so với những giao dịch thanh toán khác như: séc, uỷ nhiệm chi, uỷ
nhiệm thu… Thay vì thực hiện các giao dịch trên giấy tờ, với giao dịch thẻ,
mọi thông tin đều được xử lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận tiện,
nhanh chóng.
• Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước: Trong thanh toán thẻ,
các giao dịch đều nằm dưới sự kiểm soát của ngân hàng. Nhờ đó các ngân
hàng có thể dễ dàng kiểm soát được mọi giao dịch, tạo nền tảng cho công tác
Đào Thu Trang - Lớp 4031
17
quản lý thuế của nhà nước, thực hiện chính sách ngoại hối quốc gia. Thực tế
hiện nay, mọi chế độ, chính sách liên quan đến thẻ đều dựa trên chính sách

quản lý ngoại hối của nhà nước.
• Thực hiện biện pháp “kích cầu” của nhà nước: Sự tiện lợi mà thẻ mang lại
cho người sử dụng, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân hàng… khiến cho ngày càng
có nhiều người ưa chuộng sử dụng thẻ, tăng cường chi tiêu bằng thẻ. Điều
nàylàm cho thẻ trở thành một công cụ hữu hiệu, góp phần thực hiện biện
pháp “kích cầu” của nhà nước. Khuyến khích phát hành thanh toán thẻ cũng
là khuyến khích tăng cầu tiêu dùng. Điều này cũng tạo nên một kênh cung
ứng vốn hiệu quả của các ngân hàng thương mại.
• Cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch và đầu
tư nước ngoài: Thanh toán bằng thẻ là giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp
cận với một phương tiện văn minh của thế giới do đó sẽ tạo ra một môi
trường thương mại văn minh, hiện đại hơn. Đây cũng là yếu tố thu hút khách
du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh việc đem lại lợi
ích to lớn cho xã hội, thẻ đựơc sử dụng ngày càng rộng rãi cũng là nhờ những
tiện ích thiết thực mà nó đem lại cho những đối tượng liên quan trực tiếp: chủ
thẻ, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân hàng.
1.2 NGHIỆP VỤ THANH TOÁN THẺ
1.2.1 Các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán thẻ
Trong một giao dịch thanh toán thẻ, thông thường có 5 bên tham gia: Chủ
thẻ (Cardholder); Ngân hàng phát hành thẻ (Card Issuer); Cơ sở chấp nhận thẻ
(Merchant);Ngân hàng thanh toán thẻ (Acquirer) và tổ chức thẻ Quốc tế dưới
các hình thức Hiệp hội (Card Associations) như Visa và MasterCard hay Công ty
độc lập (Independent Companies) như American Express, Diners Club,
Discover…
1.2.1.1. Ngân hàng phát hành (Card Issuer)
Ngân hàng phát hành là ngân hàng được sự cho phép của tổ chức thẻ hoặc
công ty thẻ trao quyền phát hành cho những thẻ mang thương hiệu của tổ chức
Đào Thu Trang - Lớp 4031
18
và công ty mình. Ngân hàng phát hành là ngân hàng có tên in trên thẻ do ngân

hàng đó phát hành thể hiện thẻ đó là sản phẩm của mình. Ví dụ như thẻ Visa do
Vietcombank phát hành có tên là Vietcombank Visa. Đối với thẻ quốc tế, ngân
hàng phát hành phải là thành viên chính thức của các tổ chức thẻ quốc tế. Ngân
hàn phát hành chịu trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ xin cấp thẻ, xử lý và phát hành
thẻ, mở và quản lý tài khoản thẻ, đồng thời thực hiện việc thanh toán cuối cùng
với chủ thẻ.
Ngân hàng phát hành quy định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ cho
chủ thẻ tuân thủ. Ngân hàng phát hành có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên
thứ ba, là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc
thanh toán hoặc phát hành thẻ tín dụng. Trong trường hợp này, ngân hàng phát
hành tận dụng đựoc ưu thế của bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm nhập
thị trường và những ưu việt về vị trí địa lý. Bên thứ ba khi ký hợp đồng đại lý
với ngân hàng phát hành được gọi là ngân hàng đại lý phát hành. Nếu tên của
ngân hàng đại lý xuất hiện trên tấm thẻ của khách hàng thì nhất thiết ngân hàng
đại lý phải là thành viên chính thức của tổ chức thẻ hoặc các công ty thẻ.
Một số lợi ích của ngân hàng phát hành thẻ
- Tạo nguồn thu cho ngân hàng. Các nguồn thu đó là
+ Lệ phí thường niên: Là khoản phí mà chủ thẻ phải trả cho quyền sử dụng
thẻ hàng năm, ví dụ với loại thẻ Visa Card do VCB phát hành có 2 mức là
200.000 VND cho thẻ vàng và 100.000 VND cho thẻ thường
+ Lãi cho vay: Thẻ tín dụng không chỉ đơn thuần là một dịch vụ thanh toán
mà nó còn là một dịch vụ cho vay với độ an toàn cao. Sự an toàn thể hiện ở ngay
cơ chế phát hành và thanh toán thẻ, thẻ tín dụng được phát hành dựa trên 3 hình
thức: thế chấp, tín chấp, kết hợp giữa thế chấp và tín chấp.
• Thế chấp: Chủ sở hữu thẻ tín dụng phải thế chấp 100% hoặc hơn số
tiền trên hạn mức tín dụng của mình tại NHPH (ở NHNTVN, số tiền
thế chấp là 125% hạn mức tín dụng), như vậy có thể coi hợp đồng thẻ
là tuyệt đối an toàn. Tuy nhiên việc phát hành theo cách thức này sẽ
Đào Thu Trang - Lớp 4031
19

gây khó khăn lớn cho sự phát triển của thị trường thẻ tín dụng vì mức
thế chấp cao.
• Tín chấp: Theo hình thức này thì ngân hàng chỉ căn cứ vào nhân thân,
mức thu nhập thường niên của khách hàng để quy định hạn mức tín
dụng. Rủi ro lớn nhất của hợp đồng thẻ là trường hợp khách hàng
không trả được nợ. Tuy nhiên, nếu ngân hàng kiểm soát chặt chẽ được
thu nhập định kỳ của khách hàng và có biện pháp giám sát tốt thì hoàn
toàn có thể hạn chế được rủi ro trên để phát triển thị trường thẻ thông
qua cho vay tín chấp. Hình thức này được quan tâm đến như một thể
thức tự do nhất để phát triển thị trường thẻ.
• Hình thức kết hợp: Đây là sự kết hợp giữa cả hai điều kiện tín chấp và
thế chấp, nó mang lại sự liên kết, mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng
và ngân hàng trong việc thực hiện các dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong
đó bao gồm cả các CSCNT. Hình thức này góp phần hạn chế nhược
điểm và phần nào phát huy ưu điểm cả hai loại phát hành trên.
Thông thường, vào cuối tháng, khách hàng sẽ nhận được kê chi tiêu trong
đó ghi rõ số tiền đã sử dụng và số tiền phải thanh toán lại cho ngân hàng. Trong
trường hợp khách hàng không còn khả năng thanh toán hết thì số dư nợ còn lại
sẽ được tính lãi như một khoản ngân hàng cho khách hàng vay. Đây cũng là một
khoản thu không nhỏ mang lại cho ngân hàng.
Ngoài ra ngân hàng phát hành thẻ cũng có thể có các khoản thu phụ khác
như: Phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời, phí chậm trả, phí cấp lại thẻ mất cắp,
thất lạc…
- Làm tăng lượng vốn huy động cho ngân hàng
Ngân hàng có thể có thêm nguồn vốn huy động từ khoản tiền gửi không
kỳ hạn của các chủ thẻ. Thông thường, để được phát hành thẻ, chủ thẻ sẽ phải ký
quỹ hoặc có số dư tài khoản tiền gửi nhất định theo quy định của ngân hàng (trừ
trường hợp là tín chấp đối với phát hành thẻ tín dụng). Do đó, số dư tiền gửi của
ngân hàng cũng sẽ tăng theo.
Đào Thu Trang - Lớp 4031

20
- Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Từ kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới trong mấy thập kỷ
qua, chúng ta có thể khẳng định rằng thẻ đóng vai trò rất quan trọng trong phát
triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Điều đó được thể hiện rất rõ qua các tiện ích mà
thẻ thanh toán cung cấp cho người sử dụng. Thẻ có thể được sử dụng để rút tiền,
gửi tiền, vay tiền, thanh toán hàng hoá và dịch vụ hay để chuyển khoản. Thẻ
cũng được sử dụng cho nhiều dịch vụ phi thanh toán như xem số dư tài khoản ,
các thông tin ngân hàng…
- Mở rộng địa bàn hoạt động
Với việc phát triển dịch vụ thẻ sẽ giúp cho ngân hàng có thể vươn tới
nhiều địa bàn mà không cần mở chi nhánh hoặc ở đó việc mở chi nhánh rất tốn
kém. Việc mở rộng địa bàn hoạt động này là thông qua mở rộng các cơ sở chấp
nhận thẻ hoặc mở rộng điểm đặt máy giao dịch tự động ATM. Đây là một hình
thức phát triển của hệ thống ngân hàng tự động mà xã hội văn minh hiện đại
luôn hướng tới.
1.2.1.2. Chủ thẻ (Cardholder)
Là cá nhân hoặc người được uỷ quyền (nếu là thẻ công ty) được ngân
hàng phát hành cho phép sử dụng thẻ để chi trả, thanh toán tiền hàng hoá dịch
vụ hay rút tiền mặt theo những điều khoản, điều kiện do ngân hàng phát hành
quy định. Một chủ thẻ có thể sở hữu một hoặc nhiều thẻ.
Lợi ích từ phía chủ thẻ
- Là phương tiện thanh toán an toàn và tiện dụng
Xét dưới góc độ bảo mật của giao dịch, với công nghệ sản xuất thẻ ở trình
độ cao, cộng với các biện pháp chống giả mạo như mã hoá thông số từ tính hoặc
kỹ thuật vi mạch điện tử khiến nhìn chung thẻ rất khó bị làm giả. Số tiền của
khách hàng được đảm bảo bằng chữ ký, ảnh của chủ thẻ hoặc bằng mã số bảo
mật riêng mà chỉ có duy nhất chủ thẻ biết. Thay cho việc phải cầm trong tay một
lượng tiền mặt để phục vụ cho nhu cầu thanh toán thì khách hàng chỉ cần một
tấm thẻ gọn nhẹ rất tiện dụng. Với việc mất tiền mặt cơ hội tìm lại quả là hiếm,

Đào Thu Trang - Lớp 4031
21
nhưng với thẻ, khi bị thất lạc hoặc mất cắp chủ thẻ chỉ cần gọi điện báo cho
Ngân hàng phát hành (hoặc các chi nhánh nằm rải rác ở khắp mọi nơi) để vô
hiệu hoá thẻ tránh mọi rủi ro và chủ thẻ sẽ được cấp lại thẻ khác.
Xét dưới góc độ tiện dụng ta thấy rằng thẻ ngân hàng cho phép chủ thẻ
mua hàng hoá, dịch vụ ở bất cứ một cơ sở chấp nhận thẻ, một ngân hàng thanh
toán nào hoặc bất kỳ một điểm đặt máy ATM phục vụ tự động 24/24. Ngoài ra,
với máy ATM, khách hàng có thể tự thực hiện các giao dịch đơn giản như sao
kê tài khoản, chuyển tiền, thanh toán dịch vụ thường xuyên như điện thoại, điện
nước… hoặc sao kê tài khoản ngay tại máy ATM. Các giao dịch thẻ được thực
hiện nhanh hơn nhiều so với giao dịch trực tiếp hoặc giao dịch tiền mặt. Ở Việt
Nam hiện nay, rất nhiều gia đình có con du học ở nước ngoài sử dụng dịch vụ
thẻ quốc tế (tín dụng hoặc ghi nợ) để thanh toán chi phí học tập, sinh hoạt ở
nước ngoài một cách kịp thời nhanh chóng, đồng thời quản lý và kiểm soát hiệu
quả việc chi tiêu của con em thông qua sao kê hàng tháng gửi về cho các gia
đình. Tuy nhiên điều bất lợi chính của việc sử dụng thẻ là nó sẽ không mấy tiện
dụng nếu số điểm tiếp nhận thẻ hoặc số máy ATM không nhiều. Khi đó, khách
hàng chỉ có thể mua hàng hoá và dịch vụ hoặc rút tiền tại một số ít địa điểm nhất
định. Rõ ràng đó sẽ là một hạn chế lớn. Tuy nhiên, việc đó chỉ tồn tại ở một số ít
nước mới bắt đầu tham gia vào thị trường thẻ như Việt Nam.
- Mở rộng năng lực tài chính của khách hàng
Thẻ tín dụng là một dạng cho vay thanh toán nên khách hàng có thể sử dụng
tiền ứng trước để phục vụ nhu cầu thanh toán của mình. Ví dụ, một chủ thẻ cần chi
trả với số tiền là 2 triệu đồng và dự định vào cuối tháng anh ta mới có khoản thu
nhập 2 triệu. Trong trường hợp đó, nhờ vào việc sử dụng thẻ tín dụng, anh ta vẫn có
thể đáp ứng nhu cầu thanh toán của mình và cuối tháng chỉ việc thanh toán số tiền
2 triệu đồng theo sao kê mà không phải chịu bất cứ khoản lãi nào cho số tiền 2 triệu
đã giao dịch của mình. Thêm vào đó, với sao kê hàng tháng do Ngân hàng gửi đến,
chủ thẻ hoàn toàn có thể kiểm soát được chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời

tính được phí và lãi trả cho mỗi khoản giao dịch.
Đào Thu Trang - Lớp 4031
22
- Tối đa hoá lợi ích kinh tế với một chi phí hợp lý
Với tiện ích an toàn và tiện dụng nêu trên, thẻ ngân hàng cũng đã gián
tiếp đem lại lợi ích kinh tế không nhỏ thể hiện qua tiện ích tiết kiệm về thời
gian, và chi phí đi lại giao dịch… Khi khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, khách
hàng sẽ được tiêu tiền trước và trả tiền sau miễn phí. Trong trường hợp phát
hành thẻ phải ký quỹ hoặc phải có số dư tiền gửi thanh toán nhất định tại ngân
hàng thì ngoài các tiện ích thẻ mang lại khách hàng còn được hưởng lãi suất trên
số dư chưa sử dụng đến (tương đương với lãi không kỳ hạn) hoặc khách hàng có
thẻ sử dụng thẻ để thế chấp, ký quỹ khi cần thiết. Trong khi đó, chi phí thực sự
cho việc sử dụng thẻ không phải là lớn. Trên thực tế ngoài khoản lệ phí bắt buộc
thường niên mà chủ thẻ phải nộp thì hầu như toàn bộ giao dịch phát sinh của chủ
thẻ không bị tính lãi, trừ đối với thẻ tín dụng sẽ bị tính lãi trên số tiền quá hạn
thanh toán theo sao kê hàng tháng. Ngoài ra, chủ thẻ còn được hưởng những ưu
đãi nhất định về dịch vụ bổ sung hoặc về giá… khi thanh toán bằng thẻ tín dụng
tại các điểm cung cấp hàng hoá, dịch vụ là thành viên liên kết phát hành thẻ với
ngân hàng.
- Biểu trưng một phong cách mới trong xã hội hiện đại
Đồng tiền nội địa chỉ dùng trong giới hạn lãnh thổ thế nhưng là chủ thẻ
của thẻ tín dụng quốc tế, họ có thể chi tiêu không chỉ trong nước mà còn ở tất cả
các điểm chấp nhận thẻ trên thế giới. Hơn nữa, thẻ giúp chủ thẻ hoà nhập với
cộng đồng quốc tế, sử dụng thẻ chủ thẻ đã trở nên văn minh lịch sự trong công
việc của mình.
1.2.1.3. Ngân hàng đại lý / Ngân hàng thanh toán (Acquirer)
Ngân hàng thanh toán là ngân hàng chấp nhận các giao dịch thẻ như một
phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các
điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ trên địa bàn. Trong hợp đồng chấp nhận thẻ ký
kết với các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ, ngân hàng thanh toán thẻ cam

kết: Chấp nhận các đơn vị này vào hệ thống thanh toán thẻ của ngân hàng; Cung
cấp các thiết bị đọc thẻ tự động cho các đơn vị này kèm theo những hướng dẫn
Đào Thu Trang - Lớp 4031
23
sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên cách thức vận hành cùng với dịch
vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian hoạt động; Quản lý và xử lý
những giao dịch thẻ tại những đơn vị này.
Trên thực tế rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành vừa là ngân
hàng thanh toán thẻ. Với tư cách là ngân hàng phát hành, khách hàng của họ là
chủ thẻ còn với tư cách là ngân hàng thanh toán, khách hàng là các đơn vị cung
ứng hàng hoá, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ.
Một số lợi ích của ngân hàng thanh toán thẻ
- Làm tăng lượng vốn huy động cho ngân hàng
Để thuận tiện trong thanh toán, các cơ sở chấp nhận thẻ khi ký hợp đồng
tiếp nhận thẻ thường mở tài khoản tại ngân hàng thanh toán. Sau khi giao dịch
thẻ phát sinh, cơ sở chấp nhận thẻ gửi hoá đơn thanh toán cho ngân hàng và
ngân hàng sẽ căn cứ vào đó để ghi có vào tài khoản tiền gửi của CSCNT. Chính
điều này đã làm tăng số dư tài khoản tiền gửi nói chung và tăng vốn huy động
cho ngân hàng. Ngoài ra, khi đã mở tài khoản tại ngân hàng thì mọi thanh toán
của CSCNT sẽ được thực hiện qua tài khoản này, khi đó số dư tiền gửi sẽ trở
thành một con số đáng kể.
- Tạo nguồn thu cho ngân hàng
+ Chiết khấu thương mại (Merchant Service Fee): Đây là khoản thu phát
sinh trên doanh số thanh toán của các điểm tiếp nhận thẻ. Theo nguyên tắc, tỷ lệ
chiết khấu phụ thuộc vào tình hình thị trường, lưu lượng hàng bán và quy mô
các hoá đơn mua hàng hoá dịch vụ…
+ Phí rút tiền mặt (Cash Advance Fee) : Là khoản phí thu được trên mỗi
giao dịch rút tiền mặt được áp dụng đối với thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ.
+ Phí đại lý thanh toán (Interchange Fee): Với các giao dịch làm đại lý thẻ
của ngân hàng phát hành, ngân hàng đại lý sẽ được hưởng một phần chiết khấu trên

doanh số thanh toán hộ. Trên thực tế, đây là nguồn thu lớn nhất của các NHTM
Đào Thu Trang - Lớp 4031
24
Việt Nam tham gia hệ thống thanh toán thẻ. Trên 95% doanh số sử dụng thẻ tín
dụng ở Việt Nam đều là thẻ tín dụng do Ngân hàng nước ngoài phát hành.
1.2.1.4. Cơ sở chấp nhận thẻ (Merchant)
Cơ sở chấp nhận thẻ (CSCNT) là đơn vị bán hàng hoá và dịch vụ (như:
siêu thị, khách sạn, đại lý bán vé máy bay…) có ký kết với ngân hàng thanh toán
về việc chấp nhận thanh toán thẻ. Các đơn vị này được trang bị máy móc kỹ
thuật để tiếp nhận thẻ thanh toán tiền hàng, dịch vụ, trả nợ thay tiền mặt.
Đào Thu Trang - Lớp 4031
25
Lợi ích của CSCNT
Với tư cách như một người tham gia thiết yếu trong việc tạo lập nên cơ chế
phát hành, thanh toán thẻ, CSCNT cũng được hưởng không ít những tiện ích từ thẻ.
- Mở rộng khả năng kinh doanh, tăng doanh số bán hàng:
Với việc chấp nhận thẻ, sự sang trọng cũng như uy tín của đại lý sẽ được
tăng lên vì thẻ là một phương tiện thanh toán hiện đại, nó đại diện cho một xã
hội văn minh tiến bộ. Trong điều kiện đời sống của người dân được nâng cao thì
du lịch quốc tế trở thành nhu cầu không thể thiếu. Ngày nay thẻ đã được sử dụng
rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới và khách nước ngoài thường rất thích dùng thẻ
nên việc chấp nhận thẻ cũng là một cách giúp CSCNT thu hút được khách hàng.
Không những vậy việc chấp nhận thanh toán thẻ còn giúp cho các cơ sở kinh
doanh tự quảng cáo cho chính họ. Từ đó sẽ làm tăng doanh số bán và số lãi do
tăng doanh số sẽ cao hơn so với số tiền mà họ phải nộp phí thanh toán cho
NHTT. Việc chấp nhận thẻ sẽ giúp các đơn vị này đa dạng hoá phương thức
thanh toán, giảm tình trạng chậm trả của khách hàng cũng như công tác kiểm
đếm, thu giữ tiền mặt, tránh phải nhận tiền giả trong thanh toán, qua đó giảm
đựơc các phí cũng như rủi ro trong kinh doanh.
- Hưởng lợi từ chính sách khách hàng của Ngân hàng

Khi chấp nhận thanh toán các cơ sở sẽ được Ngân hàng cung cấp máy
móc cần thiết cho việc kinh doanh thẻ, do đó không phải mất phí đầu tư. Thêm
vào đó, các cơ sở kinh doanh còn đựơc hưởng các ưu đãi về vốn vay từ phía
Ngân hàng, thiết lập một mối quan hệ rộng rãi mật thiết với nhiều Ngân hàng
khác. Một CSCNT thường được Ngân hàng coi như một thành viên chính thức
để cung ứng thẻ ra thị trường. Đồng thời để quảng cáo cho sản phẩm của mình
nhiều khi các Ngân hàng quảng cáo luôn cho CSCNT
- Xuất khẩu hàng hoá dịch vụ tại chỗ
Hiện nay, phần lớn doanh số thanh toán thẻ ở Việt Nam đều là doanh số
thanh toán của khách nước ngoài. Nó như một biện pháp xuất khẩu tại chỗ và là
Đào Thu Trang - Lớp 4031

×