1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh của đề tài:
Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Bác Hồ ngày 27 tháng 03
năm 1946 “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì
cũng cần có sức khoẻ mới thành công, mỗi người dân yếu ớt, tức là làm cho
cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân khoẻ mạnh, tức là góp phần cho cả
nước mạnh khoẻ. Vậy nên tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi
người dân yêu nước”.
Đất nước chúng ta trong thời kỳ mới, tiến tới “dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh”, và chiến lược phát triển con người Việt
Nam là quốc sách hàng đầu để đất nước có lớp trẻ “phát triển cao trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” là
mục đích của toàn Đảng, toàn dân.
Ngày 26 tháng 04 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết
định 57/2002/QĐTTg phê duyệt quy hoạch phát triển ngành thể dục thể thao
đến năm 2010, trong đó chính phủ giao cho ngành thể dục thể thao phối hợp
với các bộ, ngành có liên quan để định kỳ kiểm tra thể chất nhân dân, xây
dựng các giải pháp thể dục thể thao để góp phần nâng cao tầm vóc, thể trạng
cho thanh niên, nhi đồng.
Luật giáo dục năm 2005 “mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện có đạo đức, có trí, có sức khoẻ thẩm mỹ và nghề
nghiệp …”.
Qua đó ta có thể thấy được vai trò vô cùng quan trọng của thể dục thể
thao, nó được xem như một bộ phận của cách mạng dân tộc, nó phục vụ trực
tiếp vào nhiệm vụ kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội và bảo vệ tổ quốc.
2. Lý do chọn đề tài:
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu giáo dục thể chất trong nhà trường
phổ thông nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của sự nghiệp giáo dục - đào tạo
“nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, giáo dục - đào tạo
thể chất trẻ một cách hoàn thiện để thực hiện tốt cuộc cách mạng công nghiệp
2
hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy vấn đề phát triển thể chất cho học sinh ở
trường phổ thông là vấn đề cần thiết và quan trọng. Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm đến và xem nó là một vấn đề có tính chiến lược nhằm phát triển con
người toàn diện.
Chính vì vậy, việc chăm lo đến việc phát triển thể lực cho học sinh ở
trường học là công việc cấp bách. Trong những năm qua thì có nhiều công
trình nghiên cứu về hình thái, thể lực của học sinh phổ thông các cấp, ở từng
khu vực khác nhau. Riêng ở Trường PTCS Thạnh Đông – Huyện Tân Hiệp
chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu “nhân tố hình thái, thể lực ảnh
hưởng đến thành tích bậc xa” của học sinh tiểu học.
Bậc xa là một môn học chính khoá trong các trường tiểu học, trung học
cơ sở. Trong điều kiện trang thiết bị sân bãi, dụng cụ còn hạn chế nên kỹ thuật
bật xa ở các tiểu học chưa được học sinh phát huy tối đa.
Là giáo viên giáo dục thể chất, đang giảng dạy ở trường phổ thông, nên
phải hướng dẫn các em tập luyện nâng cao được sức khoẻ, thành tích môn thể
thao nào đó, tạo nền tảng vững chắc cho các em, góp phần quan trọng vào
công tác tuyển chọn bồi dưỡng học sinh, vận động viên trẻ tạo tuyến cơ sở
cung cấp vận động viên cho thể thao thành tích cao. Đặc biệt cho việc tuyển
chọn đội tuyển cấp trường cho cuộc thi Hội khỏe Phù Đổng cấp Huyện sắp
tới.
Xuất phát từ những ý tưởng trên nhằm nâng cao chất lượng trong giảng
dạy và tìm hiểu các chỉ số hình thái, thể lực ảnh hưởng đến thành tích bật xa.
Nên tôi đã quyết định chọn đề tài:
“Nghiên cứu mối tương quan giữa các chỉ số hình thái thể
lực với thành tích bật xa của học sinh nữ lớp 4, trường Phổ
thông cơ sở Thạnh Đông, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang”.
3. Phạm vi và đối tượng đề tài
Trong đề tài này với kiến thức hiểu biết về viết sáng kiến kinh nghiệm,
kiến thức nghiên cứu khoa học- tóan thống kê đã được học tập ở trường đại
học và những kinh nghiệm đúc kết trong quá trình giảng dạy thì tôi quyết định
3
viết sáng kiến kinh nghiệm “Nghiên cứu mối tương quan giữa các chỉ
số hình thái thể lực với thành tích bật xa của học sinh nữ lớp 4,
trường Phổ thông cơ sở Thạnh Đông” mong muốn ý tưởng của bản
thân được áp dụng trong phạm vi cấp trường và thực hiện trên những học sinh
tôi đang giảng dạy.
Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu 1: Lựa chọn các chỉ số hình thái và thể lực có ảnh hưởng đến
thành tích bật xa của học sinh nữ lớp 4, trường phổ thông cơ sở Thạnh Đông,
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
Mục tiêu 2:
Đánh giá thực trạng hình thái, thể lực với thành tích bật xa của học sinh nữ
lớp 4 trường phổ thông cơ sở Thạnh Đông, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
Mục tiêu 3:
Đánh giá mối tương quan giữa các chỉ số hình thái và thể lực thành tích
bật xa của học sinh nữ lớp 4 trường phổ thông cơ sở Thạnh Đông, huyện Tân
Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
Mục tiêu 4:
Lựa chọn những học sinh nữ lớp 4, có chỉ số hình thái, thể lực tốt đã được
nghiên cứu từ đó có kế hoạch bồi dưỡng cho các em trở thành đội ngữ năng
khiếu thể thao cấp trường, bước đầu hình thành cho các em kỹ thuật nhảy xa
sau này và Chuẩn bị tốt cho Hội khỏe Phù Đổng sắp tới.
4
PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của đề tài
Bảo vệ và tăng cường sức khoẻ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề,
có năng lực …
Đảng và Nhà nước quan tâm đến giáo dục thể chất ngay khi giành được
chính quyền, Bác Hồ quan tâm chăm lo đến sức khoẻ nhân dân và đã ký sắc
lệnh số 14 ngày 30/1/1946 thiết lập nha thể dục thể thao với mục đích “xét
vấn đề thể dục rất cần thiết để tăng bổ sức khoẻ quốc dân và cải tạo nòi giống
Việt Nam”.
Trong thư gửi các cháu thiếu nhi Việt Nam nhân dịp tết trung thu ngày
15/9/1945, Bác Hồ viết “phải siêng tập thể thao cho mình nở nang”.
Tháng 11 năm 1945 Bác gửi cho trường lục quân Trần Quốc Tuấn, Bác
nêu “phải luyện tập thân thể cho mạnh khoẻ”.
Phát biểu tại đại hội Đoàn thanh niên cứu quốc lần thứ 3 ngày
2/11/1956 Bác căn dặn đoàn viên “phải rèn luyện thân thể cho khoẻ mạnh thì
mới đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước lợi
nhà”.
Ngày 2/10/1958 Ban bí thư trung ương Đảng đã ra chỉ chỉ thị số
106/CT-TW khẳng định “dưới chế độ chúng ta việc chăm sóc sức khỏe của
nhân dân, tăng cường thể chất của nhân dân, tăng cường thể chất của nhân
dân được coi là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Chính phủ”.
Ngày nay, giáo dục thể chất trở thành một trong những yếu tố quan
trọng nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện, về thể chất cũng được
quan tâm và nâng lên rõ rệt, từ đó cũng ảnh hưởng đến thành tích các môn thể
thao mà học sinh được học tập và rèn luyện ở nhà trường
* Hệ thống giáo dục thể chất ở Việt Nam:
Hệ thống giáo dục thể chất ở Việt Nam có các đặc tính: tính mục đích,
tính nhân dân, tính khoa học. Từ bậc tiểu học đến bậc trung học phổ thông,
học sinh học 2 tiết/tuần, đối với môn thi tự chọn tuỳ tình hình thực tế ở địa
5
phương mà giáo viên chọn và giảng dạy phù hợp với giờ học chính khoá và
các hoạt động thể dục thể thao ngoại khoá có sức hấp dẫn với học sinh.
Nội dung giáo dục thể chất ở bậc tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5) gồm: trò
chơi vận động, các bài tập thể dục phát triển, kỹ năng vận động. Bậc trung
học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9) gồm: thể dục, điền kinh, trò chơi vận động và
môn tự chọn. Bậc trung học phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12) gồm: thể dục,
điền kinh và môn tự chọn phức tạp hơn.
Nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế, ngành giáo dục hàng năm đều có bước
bổ sung và điều chỉnh, tài liệu chương trình thể dục trong trường phổ thông để
phù hợp tình hình ở địa phương và với sự phát triển của thể trạng cơ thể học
sinh.
Ngày nay, môn bật xa đã được đưa vào nhà trường, là môn học chính
khoá nên đã tạo điều kiện tốt cho học sinh tiếp cận và học tập nâng cao thành
tích góp phần phát hiện nhân tài cung cấp vận động viên thành tích cao cho
nhà trường nói riêng và đất nước nói chung.
* Ý nghĩa của giáo dục thể chất.
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác thể dục thể thao nói
cung và giáo dục thể chất nói riêng trong các trường học, và coi sức khoẻ là
vốn quý của con người. Giáo dục thể chất là nền văn hoá xã hội, một di sản
quý giá của loài người.
Giáo dục thể chất còn là một trong những nhân tố quan trọng trong hệ
thống giáo dục con người phát triển toàn diện đức- trí - thể - mỹ.
Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học, đây là giai đoạn chuẩn bị nhằm thúc
đẩy quá trình phát triển của cơ thể, phát triển chức năng, chức phận cơ thể về
các tố chất thể lực như: nhanh, mạnh.
Giáo dục thể chất là giáo dục cho các em tinh thần dũng cảm, tính tập
thể kỹ năng vận động, phát hiện năng khiếu bồi dưỡng nhân tài thể thao.
Giáo dục thể chất là bộ phận của thể dục thể thao, là một loại hình giáo
dục chuyên biệt là dạy học vận động và phát triển có chủ định các tố chất, vận
động của con người, nâng cao sức khoẻ con người.
6
Ngay từ khi sinh ra con người có thể phát triển nhờ các bài tập phát
triển thể chất.
Giáo dục thể chất tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển con người
toàn diện về đức trí thể mỹ, nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội
2.Thực trạng vấn đề
Hội khoẻ phù đổng đã được tổ chức theo định kỳ và môn bật xa đã
được đưa vào thi đấu chính thức cấp tiểu học nên ở các trường phổ thông
cũng đã có sự đầu tư cho môn điền kinh nói chung và môn bật xa nói riêng, có
sự quan tâm hơn, có kế hoạch tuyển chọn, bồi dưỡng từ các cấp dưới để tuyển
chọn vận động viên thi đấu đỉnh cao.
Ngày nay, ở các trường phổ thông, môn bật xa đã được đưa vào học
chính khoá, trang thiết bị trong tập luyện cũng đã được đầu tư hơn trước, nệm
cũng được cấp theo định kỳ. Ngoài ra còn có sự quan tâm hơn ở cấp trên và
có giáo viên chuyên môn.
Qua quá trình điều tra sơ bộ thì môn bật xa trong trường phổ thông
được nhiều học sinh ưa thích và tham gia tập luyện thường xuyên.
Bật xa là môn học không đòi hỏi nhiều trang thiết bị, phù hợp với lứa
tuổi tiểu học, do đó nó là nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể
chất. Qua giảng dạy và tập luyện nó giúp học sinh phát triển sức nhanh, sức
mạnh của chân, nâng cao thể chất cho học sinh, trang bị kỹ năng, kỹ xảo cần
thiết cho cuộc sống.
* Kỹ thuật bật xa
- Tư thế chuẩn bị: Đứng thẳng, hai bàn chân song song sát vào nhau
hoặc cách nhau 5-10cm. Đầu hai bàn chân sát vạch giậm nhảy, hai buông tự
nhiên.
- Động tác:
+ Từ tư thế chuẩn bị (TTCB) hai tay đưa ra trước lên cao, dướn thân,
hai bàn chân kiểng.
+ Đưa hai tay từ trên cao xuống thấp, ra sau. Hai chân khuỵu gối, hạ
thấp trọng tâm, chạm đất bằng cả 2 bàn chân, thân trên ngả về trước.
7
+ Dùng sức mạnh của đùi, sức bật 2 bàn chân đạp mạnh xuống đất bật
người rời khỏi mặt đất lên cao – ra trước. Hai tay đánh ra trước, lên cao. Tiếp
theo 2 bàn chân chạm đất, khuỵu gối để giảm chấm động, phối hợp đưa hai
tay ra trước để giữ thăng bằng, kết thúc độg tác.
* Phương pháp giảng dạy bật xa tại chỗ.
- Xây dựng khái niệm kỹ thuật bật xa tại chỗ cho học sinh.
+ Giới thiệu tóm tắt về tác dụng của bật xa, kỹ thuật bật xa tại chỗ.
- Dạy kỹ thuật bật xa tại chỗ.
+ Làm mẫu hoàn chỉnh kỹ thuật bật xa tại chỗ và chi tiết động tác.
+ Tại chỗ mô phỏng kỹ thuật.
+ Phân tích kỹ thuật bật xa tại chỗ.
+ Cho học sinh xem tranh ảnh, băng đĩa kỹ thuật bật xa tại chỗ.
+ Cho một vài học sinh lên thực hiện lại, lớp nhận xét, giáo viên nhận
xét và hướng dẫn cách thực hiện.
- Dạy kỹ thuật tiếp đất
+ Cho học sinh tập đánh tay và cách khụy gối.
- Một số sai lầm thường mắc ở “bật xa tại chỗ”
+ Phối hợp các động tác không nhịp nhàng.
+ Khi bật, chân chưa duổi hết.
+ Khi tiếp đất không chùng gối, hai tay không đánh ra trước, để mông
chạm đất…
- Cách sửa chửa sai lầm thường mắc
- Tập từng động tác riêng lẻ sau đó phối hợp lai và hoàn thiên.
- Tập nhảy từ trên cao xuống cát mềm, thực hiện chùng chân.
- Tập đánh tay nhanh chóng khi tiếp đất.
* Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lứa tuổi tiểu học
- Đặc điểm tâm lý
+ Các em tin tưởng người lớn tuyệt đối: Các em đã dần dần không còn
muốn loanh quanh luẩn quẩn ở xó nhà góc bếp, nhưng bắt đầu thích làm quen
nhiều bạn nhỏ và nhiều người lớn khác. Vì vậy, nếu các em nhận ra nơi các
người lớn như cô chú, thầy cô giáo, anh chị...một sự bảo bọc chở che, nhất là
8
sự quan tâm, cảm thông thật sự, các em sẽ dần dần quấn quít, tin cậy đến
mức tuyệt đối.
+ Các em ôm ấm nhiều giấc mơ:
Các em rất giàu trí tưởng tượng, nhiều khi quá tin vào những điều huyền
hoặc, những truyện cổ tích thần tiên, những truyện thần thoại dân gian được
kể trong các lớp học hoặc trước khi đi ngủ buổi tối. Từ đó các em tự thêu dệt
những mơ mộng rất dễ thương đến bất ngờ.
+ Các em rất đa cảm, dễ xức động: Tâm hồn các em còn hết sức trong
sáng hồn nhiên như trang giấy còn mới tinh. Ngay cả trường hợp một số em
phải chịu những di chứng do sự đổ vỡ trong gia đình, thì chắc chắn tâm hồn
các em vẫn luôn luôn đa cảm, rất dễ bị xúc động.
+ Các em rất hiếu động: Các em sẵn sàng chơi hăng say hết mình, bởi
đối với các em, chuyện thắng thua rất là quan trọng, nó nhằm mục đích tự
khẳng định cá tính cho dù các em chưa đủ lý luận cao xa gì lắm về bản thân.
* Đặc điểm sinh lý
- Ở lứa tuổi học, công suất của hệ thống tim mạch và hô hấp đã cho
phép thực hiện công việc trong thời gian dài với cường độ trung bình (khả
năng ưa khí). Hệ thống tim mạch của trẻ tuổi tiểu học có thể đáp ứng nhu cầu
của cơ thể khi sử dụng lượng vận động với 60 - 70% khả năng chịu đựng tối
đa của cơ thể. Khả năng sự chịu đựng của các em đã được nhiều tác giả đã
đưa ra thông qua một loạt các bài học thể dục, thể thao và các hoạt động giải
trí trong các bài tập thể chất được lặp đi lặp lại theo chu kỳ như: đi bộ, chạy,
đi xe đạp, bơi ...Hiệu quả thực tế của tác động sư phạm đã cho thấy: ở lứa tuổi
này đã có sự gia tăng nhanh chóng trong phát triển sức bền tự nhiên, sự tăng
này rất nhạy cảm với các tác động của hoạt động thể chất để phát triển sức
bền. Khuyến khích phát triển sức bền là cần thiết vì nó được kết nối chặt chẽ
với hiệu suất của trẻ em và xác định sự sẵn sàng của các em khi học trong
trường, góp phần khắc phục việc học tập quá nhiều, làm tăng khả năng đồng
hóa tốt hơn các kiến thức trong quá trình học, làm tăng các hoạt động thể chất
và ảnh hưởng tích cực đến phát triển của sức mạnh, tốc độ.
9
- Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học, cơ bắp của các em thường gồm các sợi cơ
mỏng, nghèo protein, chất béo và chứa nhiều nước nên phải từng bước phát
triển và đa dạng hóa các bài tập để có tác động phù hợp đến cơ bắp của các
em. Những kích thích lớn và cường độ căng thẳng dẫn đến tiêu hao năng
lượng cao có thể dẫn đến làm chậm sự phát triển tổng thể, nên tránh tập thể
dục không đối xứng, phát triển quá mức tính linh hoạt, tránh lực hoãn xung
quá lớn trong quá trình tiếp đất khi nhảy, tránh tải trọng lớn không đồng đều
trên hai chân. Những bài tập như thế có thể gây chấn động mạnh đến xương
chậu, dễ dẫn đến bàn chân phẳng, rối loạn tư thế ở trẻ em. Giới hạn oxy cho
các em trong lứa tuổi tiểu học là vận động trong điều kiện nợ oxy và nợ oxy
của các em chỉ là 1 lít. Nhưng bù lại trong các trạng thái nghỉ ngơi, ở các em
lại có sự hồi phục tuyệt vời của các hệ thống tim mạch và hô hấp. Vì vậy, sử
dụng các phương pháp lặp lại với các bài tập có lượng vận động hợp lý và
tăng dần sẽ phát triển tốt sức bền cho các em.
-Hệ thần kinh: hoàn thiện về cơ cấu tế bào, hưng phấn chiếm ưu thế khả
năng phân tích tổng hợp mặc dù còn thấp, dễ thành lập phản xạ nhưng dễ phai
mờ, tiếp thu nhanh nhưng chóng quên. Các dấu hiệu về kích thích cảm giác
tăng lên, biểu hiện chủ quan lo lắng hay gặp, chóng mệt.
- Hệ vận động: xương chưa vững chắc, bắp thịt phát triển chậm hơn
xương, chủ yếu phát triển về chiều dài. Do sự phát triển cơ bắp không nhịp
nhàng, thiếu cân đối khiến các em không phát huy được khả năng sức mạnh
của mình, đồng thời mau xuất hiện mệt mỏi. Vì vậy việc tập luyện thể dục thể
thao cho các em phải mang tính phong phú, hấp dẫn và đảm bảo sự phát triển
toàn diện các tố chất vận động, chú ý tăng cường phát triển sức mạnh cơ bắp
bằng bài tập có cường độ trung bình.
- Hệ tuần hoàn: cơ năng hoạt động của tim chưa được vững vàng, sức
co bóp còn yếu, hoạt động nhiều, căng thẳng sẽ chóng mệt mỏi.
+ Tập thể dục thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến hệ thống tuần hoàn của
tim dẫn thích ứng và có khả năng chịu đựng với khối lượng làm việc nặng
nhọc sau đây. Trong quá trình cần tuân theo nguyên tắc từ nhẹ đến nặng …
10
+Ở lứa tuổi này, hệ tuần hoàn có nhiều đột biến, diễn ra rất phức tạp
nhưng không theo kịp tốc độ phát triển quá mạnh mẽ của toàn bộ cơ thể.
- Hệ hô hấp: phổi phát triển chưa hoàn chỉnh, các ngăn buồng túi phổi
đang con nhỏ, các cơ hô hấp phát triển còn yếu, dung lượng khí mỗi lần thở
nhỏ, sự điều tiết của hệ thần kinh trung ương đối với việc thở chưa bền vững
và nhịp nhàng. Vì vậy khi hoạt động khẩn trương nhịp thở nhanh, không giữ
được nhịp thở tự nhiên.
Vì vậy khi tập thể dục thể thao cần hướng dẫn cho các em về thở, biết
thở sâu, nhịp nhàng, nhất là khi kết hợp với động tác, giữ gìn vệ sinh khi thở,
chọn nơi không khí trong lành để tập.
3. Phương pháp giải quyết vấn đề
3.1. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu trên, tôi đã sử dụng các phương pháp
sau đây :
3.1.1. Phương pháp tham khảo tài liệu:
Nghiên cứu tài liệu nhằm thu thập thông tin có liên quan đến kỹ thuật bật
xa, phương pháp giảng dạy môn bật xa và tổng hợp các nhân tố hình thái - thể
lực đối với thành tích “bật xa”.
3.1.2. Phương pháp kiểm tra sư phạm:
Phương pháp này dùng để kiểm tra thành tích bật xa và các chỉ số hình
thái, thể lực để đánh giá mức độ ảnh hưởng của nó đến thành tích “bật xa”.
Chúng tôi sử dụng 4 test đánh giá thể lực, trong đó có các test đã được
viện khoa học thể dục thể thao thực hiện trong điều tra thể chất nhân dân và
1 test - bật xa tại chỗ.
1.Chạy 30m XPC (giây).
2.Bật cao tại chỗ (m):
3.Chạy con thoi 4x10m (giây).
4. Nằm ngửa gập bụng (lần/30 giây).
Cách tiến hành kiểm tra:
• Chạy 30 m XPC (giây): Nhằm đánh giá sức nhanh
11
- Dụng cụ: Đồng hồ bấm giây, đưòng chạy thẳng có chiều dài ít nhất
40m rộng 2m, kẽ vạch xuất phát và vạch đích, sau vạch đích có khoảng ít
nhất 10m để giảm tốc độ.
- Cách tiến hành: Khi có hiệu lệnh “vào chỗ” người được kiểm tra
tiến vào vạch xuất phát, đứng chân trước chân sau, trọng tâm hơi đổ về
trước hai tay thả lỏng tự nhiên bàn chân trước đặt sát vạch xuất phát, (tư
thế xuất phát cao). Khi có lệnh “sẵn sàng” hạ thấp trọng tâm dồn vào chân
trước, tay hơi co ở khuỷu thân người hơi ngã về trứơc đầu hơi cúi, tập
trung chú ý đợi lệnh xuất phát. Khi có lệnh “chạy” ngay lập tức đạp mạnh
chân chạy nhanh về đích.
- Cách tính thành tích: Người bấm giờ đứng ngang vạch đích tay cầm
đồng hồ khi thấy cờ bắt đầu phất lập tức bấm giờ. Khi ngực hoặc vai chạm
mặt phẳng đích thì bấm dừng thành tính bằng giây (s) và số lẻ 1/100giây.
•
Bật cao tại chỗ (m): Kiểm tra bật cao tại chỗ nhằm đánh
giá sức mạnh các nhóm cơ chân.
- Dụng cụ kiểm tra: thước đo để tính độ dài bật cao (độ dài là cm),
bục, vách tường, bột phấn màu …
- Thực hiện: Người được kiểm tra thấm tay vào bột phấn màu,
đứng sát tường, song song với mặt tường (chạm vai vào mặt tường, có thể
vai trái hoặc phải, tuỳ người được kiểm tra), một tay lên cao thẳng để xác
định “giới hạn ban đầu”. Người được kiểm tra hạ thất trọng tâm, khuỵu gối,
hai tay hạ xuống, dùng sức mạnh của cơ đùi bật mạnh lên cao, đồng thời
dùng tay sát tường “với” lên tường xác định “giới hạn cuối”. Khi bật nhảy
và khi tiếp đất hai chân tiến hành cùng lúc, thực hiện ba lần bật.
- Cách đo: kết quả được tính bằng độ dài từ “giới hạn ban đầu” đến
“giới hạn cuối” được tính bằng đơn vị cm, lấy kết quả lần cao nhất trong ba
lần bật.
• Chạy con thoi 4x10m (s): Nhằm đánh giá năng lực khéo léo
- Dụng cụ: Đường chạy có kích thuớc 10x1,2m bằng phẳng không
trơn bốn góc có vật chuẩn để quay đầu, chuẩn bị 4 cọc, mỗi cọc cách nhau
12
10m,đặt theo hình thoi. Hai đầu đường chạy có khỏang trống ít nhất 2m,
đồng hồ bấm giờ, thước đo độ dài
- Thực hiện: Người được kiểm tra đứng vào vạch xuất phát ở tư thế
xuất phát cao, khi có khẩu lệnh “sẵng sàng - chạy” nhanh chóng chạy (đồng
hồ được bấm) đến cọc thư nhất chạm một chân vào cọc thứ nhất lần lượt
dến cọc thứ 2, thứ 3, thứ 4 .
- Cách tính thành tích: Khi người được kiểm tra chạy đến cọc thứ 4
(đích) lập tức bấm dừng. Thành tích được xác định là giây(s)
• Nằm ngửa gập bụng 30 giây: Nhằm đánh giá sức mạnh bột phát
của nhóm cơ lưng bụng.
- Dụng cụ: Đồng hồ bấm giây, nệm cao su hoặc chiếu
- Phương pháp kiểm tra:
+ TTCB: Người được kiểm tra nằm ngửa ,hai chân duổi thẳng khép
sát vào nhau, co chân 90 0 ở 2 đầu gối,một học sinh khác hổ trợ bằng cách
hai tay giữ ở phần dưới cẳng chân nhằm không cho bàn chân rời khỏi sàn,
hai tay để sau gáy.
+ Thực hiện: Khi có lệnh nhanh chónh dùng sức mạnh cơ lưng nâng
thân người lên cao rồi gập xuống sát đùi ,hai tay phối hợp, sau đó nhanh
chóng ngả và duổi về TTCB, thực hiện liên tục trong 30 giây.
+ Thành tích là số lần thực hiện được trong 30 giây
• Bật xa tại chỗ (m)
- Mục đích: xác định được thành tích bật xa của các em.
- Dụng cụ: nệm, xà, thước đo, còi,…
- Phương pháp kiểm tra: Người được kiểm tra đứng ở vạch xuất phát khi
nghe hiệu lệnh của giáo viên thì thực hiện theo thứ tự danh sách, mỗi học sinh
thực hiện 3 lượt luôn phiên, lấy thành tích cao nhất trong 3 lần thực hiện.
3.1.3 Phương pháp nhân trắc học: Dùng để đánh giá một số chỉ số hình
thái của cơ thể:
Chiều cao đứng (m)
- Mục đích: Kiểm tra chiều cao từ mặt phẳng đứng đến đỉnh đầu.
- Dụng cụ: Thước thẳng trên mặt tường.
13
- Phương pháp kiểm tra: Cho người kiểm tra đứng ngay ngắn sát tường
với 3 điểm chạm: gót chân, mông và thùy chẩm, mắt nhìn thẳng về trước,
dùng thước ngắn đặt trên đỉnh đầu song song với mặt phương đứng (khi đo
không mang dày dép, không đội mũ).
Cân nặng (Kg)
- Mục đích: Kiểm tra trọng lượng của học sinh
- Dụng cụ: Cân đồng hồ, ghế ngồi
- Phương pháp kiểm tra: Người kiểm tra ngồi trên ghế sau đó đặt hai
bàn chân cân đối vào hai bên của mặt bàn chân, rồi nhẹ nhàng đứng thẳng, khi
cân không mang dày dép, áo khoát.
Chỉ số BMI (Body Mas Index) .
là chỉ số được đánh giá thể trạng cơ thể thông qua mối quan hệ giữa cân
nặng với chiều cao cơ thể.
2.1.4 Phương pháp toán thống kê:
Xử lý các thông số thu thập được bằng các công thức :
• Tính giá trị trung bình: Trung bình cộng là tỷ số giữa tổng các
trị số của các cá thể với tổng thể:
1
X=
n
n
∑X
i =1
(n>30)
i
• Độ lệch chuẩn: Là chỉ số nói lên sự phân tán hay tập trung của các
trị số Xi xung quanh giá trị trung bình:
S=
•
(
1
∑ Xi − X
n
)
2
(n>30)
Hệ số biến thiên: Là tỷ lệ phần trăm giữa độ lệch chuẩn và trung
bình cộng, dùng để đánh giá tính chất đồng đều của chỉ tiêu.
Cv =
•
S
100 0 0
X
Sai số tương đối: ( ε ) là chỉ số đánh giá về tính đại diện của số
trung bình mẫu với số trung bình tổng thể
14
ε
=
t05 S
X
n
• Hệ số tương quan mẫu :
r=
n∑ X iYi − ∑ X i ∑Yi
n∑ X 2 − ( ∑ X 2 ) n∑Y 2 − ( ∑Y 2 )
Trong đó:
r: Hệ số tương quan mẫu
n: Số cặp giá trị
X, Y: các giá trị của hai mẫu X, Y
• Tính chỉ số BMI:
BMI =
W
2
H
W: cân nặng (kg) ; H : chiều cao (m)