Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số kinh nghiệm về rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.69 KB, 20 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản
đầu tiên đối với học sinh. Trẻ phải học đọc đầu tiên, sau đó các em phải đọc để
học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học
tập. Đọc là một công cụ để học tập các môn học. Đọc tạo hứng thú và động cơ
học tập. Đọc tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập
cả đời. Với tư cách là một phân môn của môn Tiếng việt, Tập đọc có nhiệm vụ
đáp ứng yêu cầu này- đó là hình thành và phát triển năng lực đọc của học sinh.
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng
bộ phận: Đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát,trôi chảy), đọc có ý thức (đọc hiểu)
và đọc hay (mà ở mức độ cao hơn là đọc diễn cảm).
Bốn kĩ năng đọc trên được hình thành trên hai hình thức đọc là đọc thành
tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời. Chúng được rèn đồng thời
và hỗ trợ lẫn nhau.
Bên cạnh đó, dạy đọc còn có nhiệm vụ giáo dục lòng ham đọc sách, hình
thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Đồng thời dạy
đọc còn có nhiệm vụ làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn
học cho học sinh.
Trên cơ sở ý nghĩa và nhiệm vụ của dạy học Tập đọc ở Tiểu học, qua tìm
hiểu thực trạng dạy Tập đọc ở lớp 2 tại đơn vị trường Tiểu học Ngọc Khê 2, với
mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tập đọc ở lớp 2, tôi chọn đề
tài: “Một số kinh nghiệm về rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN :
1. Vấn đề luyện đọc thành tiếng ở Tiểu học:
1.1: Luyện chính âm: Nhằm nâng cao văn hoá phát âm cho học sinh và
khi thực hiện cần lưu ý không để học sinh phát âm tự nhiên theo giọng địa
phương ở những âm bị xem là mắc lỗi, đồng thời cũng chấp nhận nhiều chuẩn ở
những trường hợp phát âm không xem là lỗi, từ đó không gò ép học sinh luyện
phát âm theo chữ viết một cách không tự nhiên.


1.2: Trọng âm và ngữ điệu:
- Trọng âm là độ vang và độ mạnh khi phát ra tiếng, Đó là sự phát âm một
tiếng mạnh hay yếu, kéo dài hay không kéo dài, đường nét thanh điệu rõ hay
không rõ.
- Ngữ điệu: Để tạo ra ngữ điệu, học sinh phải làm chủ các thông số âm
thanh của giọng; tạo ra cường độ bằng cách điều khiển đọc to, nhỏ, nhấn giọng,
lơi giọng; tạo ra tốc độ bằng cách điều khiển độ nhanh, chậm và chỗ ngắt nghỉ
của lời; tạo ra cao độ bằng cách nâng giọng, hạ giọng; tạo ra trường độ bằng
cách kéo dài hay không kéo dài.
2. Vấn đề luyện đọc hiểu ở Tiểu học:
1


Bản chất của quá trình đọc hiểu văn bản: Dạy đọc hiểu là hình thành các
kĩ năng: kĩ năng nhận diện ngôn ngữ (nhận diện từ mới, từ quan trọng, nhận ra
các câu khó hiểu, câu quan trọng, nhận ra các đoạn ý, nhận ra đề tài - nội dung
bài đọc); Kĩ năng làm rõ nghĩa (làm rõ nghĩa từ, nghĩa câu, ý đoạn, ý chính của
bài); Kĩ năng hồi đáp.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Nội dung phân môn Tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng việt 2:
1.1: Mục tiêu dạy học Tập đọc lớp 2:
- Phát triển các kĩ năng đọc, nghe và nói cho học sinh, cụ thể là:
+ Đọc thành tiếng: Phát âm đúng; ngắt nghỉ hơi hợp lí; cuờng độ đọc vừa
phải (không đọc quá to hay đọc lí nhí); tốc độ vừa phải (không ê a ngắc ngứ hay
liến thoắng), đạt yêu cầu khoàng 50 tiếng/1phút.
+ Đọc thầm và hiểu nội dung: Biết đọc không thành tiếng, không mấp
máy môi; hiểu được nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh (bài đọc); nắm được
nội dung của câu, đoạn hoặc bài đã đọc.
+ Nghe: Nghe và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn, bài;
Nghe - hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy cô; Nghe - hiểu và có khả năng

nhận xét ý kiến của bạn.
+ Nói: Biết cách trao đổi với các bạn trong nhóm học tập về bài đọc; biết
cách trả lời các câu hỏi về bài đọc.
- Trau dồi vốn tiếng Việt , vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết
của học sinh về cuốc sống, cụ thể:
+ Làm giàu và tích cực hoá vốn từ, vốn diễn đạt.
+ Bỗi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống, hình
thành một số kĩ năng phục vụ cho đời sống và việc học tập cho bản thân (như
khi khai lí lịch đơn giản, đọc thời khoá biểu, tra và lập mục lục sách, nhận và gọi
điện thoại,..)
+ Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, phán
đoán,..)
- Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; tình yêu cái
đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống; hứng thú đọc sách
và yêu thích tiếng Việt; cụ thể: Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn
và trách nhiệm đối với ông bà, cha mẹ, thầy cô; yêu trường lớp; đoàn kết, giúp
đỡ,...
- Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã giao tối thiểu.
- Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong sách giáo khoa, hình
thành lòng ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản, văn học, cảm thụ vẻ
đẹp của tiếng Việt và tình yêu tiếng Việt.
1.2: Nội dung dạy học Tập đọc lớp 2:
* Số bài, thời lượng học: Trung bình, một tuần, học sinh được học 3 bài tập
đọc, trong đó một bài học trong 2 tiết, hai bài còn lại học trong 1 tiết; Như vậy,
tính cả năm, học sinh được học 93 bài tập đọc với 124 tiết. Nhưng theo Chuẩn
kiến thức và kĩ năng: Trung bình, một tuần, học sinh chỉ học 2 bài tập đọc, trong
2


đó một bài học trong 2 tiết, một bài học trong 1 tiết; bài còn lại giáo viên có kế

hoạch cho các em luyện đọc thêm trong các buổi học chiều.
* Các loại bài tập đọc theo sách giáo khoa:
a) Xét theo thể loại văn bản:
+ Có 60 bài tập đọc là văn bản văn học, gồm 45 bài văn xuôi và 15 bài thơ
trong đó có một số văn bản văn học nước ngoài. Trung bình, trong mỗi chủ
điểm/2tuần, riêng chủ điểm Nhân dân học trong 3 tuần, trong đó có truyện vui
(học kì I) và một truyện ngụ ngôn (học kì II). Những câu truyện này vừa để giải
trí, vừa có tác dụng rèn luyện tư duy và phong cách sống vui tươi, lạc quan cho
các em.
+ Các văn bản khác có 33 bài (không có văn bản dịch của nước ngoài)
bao gồm văn bản khoa học, báo chí hành chính (tự thuật, thời khoá biểu, thời
gian biểu, mục lục sách,...). Thông qua những văn bản này, sách giáo khoa cung
cấp cho các em một số kiến thức và kĩ năng cần thiết trong đời sống, bước đầu
xác lập mối liên hệ giữa học với hành, giữa nhà trường với xã hội.
b) Xét theo thời lượng dạy:
Có 31 bài tập đọc được dạy trong 2 tiết và 31 bài dạy trong 1tiết. Những
bài dạy trong 2 tiết đều là truyện kể, đóng vai trò chính trong mỗi chủ điểm. Sau
khi học các bài tập đọc này, học sinh còn có 1 tiết kể lại nội dung truyện hoặc
tập phân vai, dựng lại câu truyện theo kiểu hoạt cảnh (tiết Kể chuyện), và viết
chính tả một đoạn trích hay đoạn tóm tắt nội dung truyện (tiết Chính tả).
2. Thực trạng Dạy - Học Tập đọc lớp 2:
2.1: Đối với học sinh:
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, học sinh lớp 2 còn nhỏ (mới qua lớp 1)
sự tự giác trong học tập chưa cao, việc học của các em là học cho thầy, cho cô,
học cho bố cho mẹ; một số học sinh trình độ đọc chưa đạt (chưa rành mạch, còn
ấp úng, ngân nga, nhát gừng, chưa thật thông hiểu văn bản); một số học sinh còn
có thói quen đọc thiếu ý thức (đồng thanh nhiều).
- Do ảnh hưởng cách phát âm của phương ngữ tại địa phương thường mắc
lỗi như:
+ Phát âm không chuẩn xác một số phụ âm đầu: tr/ch; s/x;

th/s(thêm/sêm; thứ/sứ)
+ Đọc và dùng từ địa phương: ong/ông (chong/chông; con ong/con ông);
uô/ ui (Quả chuối/ quả chúi); ưu / iu (quả lựu /quả lịu)
+ Không phân biệt được thanh hỏi/ thanh ngã.
- Một số học sinh trong lớp là con gia đình gặp khó khăn về kinh tế, hạn
chế về trình độ văn hoá. Dẫn đến sự quan tâm chăm sóc của phụ huynh đối với
con cái còn hạn chế; khó khăn trong việc phát huy tính tự giác luyện đọc ở nhà
đồng thời các em chưa có thói quen đọc thêm sách báo ở nhà.
- Đại đa số các em là con em dân tộc vì thế về mặt ngôn ngữ tiếng việt
của các em là ngôn ngữ hai.
- Về tác động ngoại cảnh: Cuộc sống của các em đôi khi ngoài thời gian ở
trường, ở nhà ra; các em còn có thể tiếp xúc với những người xung quanh, có
3


khi là phim, ảnh, tivi, đèn chiếu ngoài sự kiểm soát của thầy cô, gia đình. Việc
này cũng có thể làm xáo trộn tinh thần học tập của các em.
* Kết quả, hiệu quả của thực trạng rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2:
Từ những thực trạng trên cho thấy kết quả chất lượng thực tế trước khi
nhận lớp 2 (cả hai năm học) tỷ lệ học sinh đọc còn kém, đọc ê a, ngắc ngứ, còn
đánh vần cao, học sinh đọc tốt chưa có em nào.
Cụ thể: - Lớp 2B, Năm học 2013 – 1014
- Lớp 2A2, Năm học 2014 – 1015( là lớp đại trà)
Thời gian khảo sát: KSCL đầu năm
Đọc ê a,
Đọc rõ ràng,
Đọc hay
Đọc đúng
ngắc ngứ
lưu loát

Sĩ số
T
Lớp
SL
TL
SL
TL
SL
TL
L
Lớp 2B
20 0
0
2
10
12
60
6
30
2014-2015
Lớp 2A2
32
0
0
0
0
19
59,4
13
40,6

2014-2015
2.2: Thực trạng đối với giáo viên:
- Giáo viên chưa nắm chắc cơ sở lí luận của việc dạy - học Tập đọc như:
Giáo viên phát âm chưa chuẩn, còn dư âm địa phương (như: âm tr/ch; s/x,..
chẳng hạn) dẫn đến kĩ năng đọc mẫu hạn chế; Giáo viên chưa nắm được các thể
lại bài trong chương trình sách giáo khoa; chưa phân biệt được loại bài Tập đọc
và loại bài Tập đọc- Học thuộc lòng mà chỉ thấy khác là ở các lớp đầu cấp là đọc
đồng thanh còn lớp cuối cấp là không đọc đồng thanh chứ không hiểu được rằng
tiết Tập đọc là luyện đọc cá nhân, còn tiết Tập đọc- Học thuộc lòng là vừa phải
luyện đọc vừa kết hợp rèn trí nhớ.
- Giáo viên vận dụng chưa linh hoạt các phương pháp trong giờ dạy Tập
đọc. Kĩ năng đặt câu hỏi, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài còn hạn chế.
- Trong giờ Tập đọc giáo viên thường phân bố thời gian chưa hợp lý và dễ
sa nặng vào phần tìm hiểu bài, thấy giảng chưa đủ học sinh chưa hiểu. Có những
phần dạy quá sâu hoặc dông dài, không cần thiết, có phần lại hời hợt chưa đủ độ
cần của bài giảng. Không còn thời gian để học sinh luyện đọc, không sửa được
lỗi phát âm sai chủ yếu cho học sinh, bỏ qua đi đối tượng học sinh đọc chưa đạt
yêu cầu vì các em đọc ngắc ngứ, trả lời lâu làm mất nhiều thời gian. Vì những lí
do trên, dẫn đến hiệu quả giờ học không cao.
- Đôi khi giáo viên còn dập khuôn, máy móc, nặng về các bước lên lớp,
chưa linh hoạt. Vì vậy tiết Tập đọc cứng nhắc, chưa khuyến khích được các em,
chưa phát huy hết tiềm năng ở mỗi cá nhân học sinh. Chưa khuyến khích các em
đọc thêm sách báo ở nhà.
Với tình hình và thực tế như vậy tôi đã đưa ra các giải pháp nhằm rèn kĩ
năng đọc cho học sinh lớp 2 như sau:
4


III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO
HỌC SINH LỚP 2:

1, Giải pháp 1: Chuẩn bị tốt các công việc trước giờ lên lớp dạy học Tập
đọc cho học sinh lớp 2:
1.1: Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa; các tài liệu dạy học:
- Nghiên cứu chương trình tổng thể và các bài tập đọc của sách giáo khoa
Tiếng Việt 2. Công việc này đòi hỏi chúng ta phải nắm được mục tiêu dạy Tiếng
Việt 2 và phân môn Tập đọc; nắm được cấu trúc tổng thể và đặc điểm cấu trúc
chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt 2 mà mình đang dạy. Nắm được nội
dung dạy học một cách chắc chắn và có hệ thống, xác định được vị trí của bài
Tập đọc sẽ dạy trong chương trình.
- Nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu dạy học có liên quan đến bài
Tập đọc sẽ dạy; đọc kĩ văn bản- bài tập đọc trong sách giáo khoa; nghiên cứu
nội dung hướng dẫn đọc, hệ thống nội dung bài tập của sách giáo khoa và tài
liệu tham khảo.
1.2: Xác định mục tiêu, nội dung dạy học của giờ Tập đọc: Chúng ta cần trả lời
được các câu hỏi:
- Học sinh cần đọc bài Tập đọc trong thời gian bao lâu?
- Những từ ngữ, câu nào học sinh cần luyện đọc thành tiếng?
- Toàn bài cần đọc với giọng điệu chung như thế nào?
- Những từ ngữ, câu nào cần dạy nghĩa và dạy nghĩa chúng ra sao?
- Nội dung chính của bài Tập đọc là gì?
- Học sinh được giáo dục điều gì sau khi học bài Tập đọc?
1.3: Nắm vững phương pháp dạy học Tập đọc:
- Xác định phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học.
- Dự kiến thời gian cho từng hoạt động dạy học.
- Xây dựng hệ thống nhiệm vụ, soạn thảo, lựa chọn các câu hỏi, bài tập
phù hợp.
- Dự kiến tình huống dạy học và điều chỉnh câu hỏi, bài tập.
1.4: Chuẩn bị về việc đọc mẫu bài tập đọc định dạy:
Để giúp các em đọc tốt, việc đọc mẫu đóng vai trò hết sức quan trọng

trong việc rèn đọc cho học sinh; Việc phát âm đúng, phát âm chuẩn; Việc đọc
hay (đọc diễn cảm) sẽ giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài Tập
đọc. Trong quá trình đọc mẫu, giáo viên ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ, dùng ngữ điệu,
nhấn giọng, hạ giọng, lên giọng… để làm nổi bật ý nghĩa và tình cảm của tác giả
đã gửi gắm vào bài đọc đó. Từ đó giúp học sinh thấy sôi nổi, hào hứng tham gia
vào việc tìm hiểu, khám phá bài Tập đọc hơn và học sinh có ý thức đọc diễn
cảm tốt hơn.
1.5: Chuẩn bị về việc nhận xét, đánh giá học sinh sau khi đọc:
Tiếp thu và nghiên cứu kĩ Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28
tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về đánh giá
học sinh Tiểu học và được áp dụng kể từ ngày 15/10/2014 cho năm học này thay
5


cho Thông tư số 32/2009/TT- BGDĐT ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy định đánh giá và xếp loại
học sinh Tiểu học. Với TT30 việc Đánh giá học sinh bằng nhận xét coi trọng
việc động viên, khuyến khích tính tích cực và vượt khó trong học tập, rèn luyện
của học sinh; giúp học sinh phát huy tất cả khả năng, đảm bảo kịp thời, công
bằng, khách quan; không ghi điểm số không gây áp lực, sẽ gây được hứng thú
cho học sinh, làm cho học sinh không cảm thấy ngại học sẽ giúp cho phương
pháp dạy học theo hướng đổi mới tích cực hoá hiệu quả hơn. Góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học.
Sau khi học sinh đọc bài xong, giáo viên phải có lời nhận xét. Kết quả của
quá trình rèn đọc cho học sinh còn phụ thuộc vào lời nhận xét mà giáo viên để
lại trong các em sau khi đọc. Vì vậy, lời nhận xét của giáo viên không thể là tuỳ
tiện mà lời nhận xét của giáo viên cần phải có động lực, thúc đẩy em học sinh đó
biết cố gắng vươn lên trong các lần đọc sau. Việc này quả là không đơn giản,
nếu lời nhận xét mà thoái quá thì các em có thể mãn nguyện sẽ không cố gắng
nữa, nếu lời nhận xét mà khắt khe thì các em dễ chán nản, dẫn đến tiêu cực. Vì

vậy, trước khi đưa ra lời nhận xét, giáo viên cần phải cân nhắc kĩ lưỡng, tuỳ vào
sự cố gắng của các em, tuỳ vào cá tính của mỗi học sinh đồng thời lời nhận xét
trước và sau quá trình đọc của các em phải có sự liên kết,...
2. Giải pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm lí học sinh và công tác xã hội hoá
giáo dục:
- Cần phải gần gủi học sinh nắm bắt từng đối tượng về đặc điểm tâm lí về
hoàn cảnh gia đình.
- Khảo sát chất lượng học sinh ngay đầu năm học để phân loại đối tượng
học sinh và phân làm nhiều nhóm nhỏ, sao cho mức chênh lệch trong nhóm về
khả năng, về năng lực là tương đương.
- Đầu năm tôi tổ chức họp phụ huynh, gặp gỡ phụ huynh trao đổi phối
hợp giáo dục:
+ Hướng dẫn cách học ở nhà: giờ học, giờ chơi hợp lí để các em học đủ,
chơi khoẻ có ích;
+ Hướng dẫn phụ huynh cách chăm sóc chế độ dinh dưỡng để tăng cường
sức khoẻ, thể lực cho các em nhất là những em hiện đang thiếu cân; vì có sức
khoẻ, có thể lực thì các em mới có thể học được, tiếp thu bài được.
- Quan tâm, đôn đốc nhắc nhở học sinh thường xuyên học tập trong đó có
phân môn Tập đọc.
- Có kế hoạch theo dõi sự tiến bộ, tồn tại hàng tuần, hàng tháng của từng
cá nhân học sinh để kịp thời có biện pháp phù hợp với từng đối tượng.
- Phối hợp với nhà trường, với tổ chuyên môn, thường xuyên báo cáo về
sự chuyển biến của học sinh để có kế hoạch chỉ đạo và sự giúp đỡ về cả phương
pháp dạy học và thời lượng.
- Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh để phản hồi và nhận sự hỗ
trợ của gia đình học sinh về việc học tập, rèn luyện nói chung.
- Liên kết với thôn, phố,.. địa phương, các ban ngành liên quan để nhận sự
6



hỗ trợ giáo dục.
3, Giải pháp 3: Luyện đọc thành tiếng cho học sinh lớp 2:
- Căn cứ theo nhóm đối tượng học sinh tôi đã phân loại để áp dụng các
hình thức luyện đọc cũng như bố trí thời gian đọc hợp lí cho từng đối tượng học
sinh; đối với những em đọc chưa đạt yêu cầu cần thời gian luyên đọc nhiều hơn,
đọc nhiều lần hơn; đối với những em đọc đạt yêu cầu cần luyện đọc để đọc lưu
loát tiến tới đọc diễn cảm.
- Muốn học sinh đọc tốt, trước hết cần rèn cho học sinh đọc đúng, phát âm
đúng, rõ ràng. Tôi thấy học sinh chủ yếu là phát âm sai: (nguyên nhân là do thói
quen địa phương):
+ Phụ âm đầu tr/ch; r/d; s/x;th/s
+ Vần: ong/ ông; uô/ ui; ươ / ưu
+ Không phân biệt được thanh hỏi/ thanh ngã.
- Để khắc phục tình trạng trên, tôi đã tiến hành như sau:
- Điều tra phân loại lỗi ngay từ đầu năm cho từng em, từng nhóm để có kế
hoạch uốn nắn.
+ Lỗi phát âm sai tr/ch; r/d là lỗi phổ viến đối với các đối tượng học sinh
ở phố, thị trấn,
+ Lỗi phát âm sai th/s; ong/ ông; uô/ ui; ươ / ưu là lỗi phổ viến đối với
các đối tượng học sinh ở trong nông thôn và con em dân tộc.
+ Lỗi phát âm sai s/x; Không phân biệt được thanh hỏi/ thanh ngã là lỗi
phổ viến đối với tất cả các đối tượng học sinh.
- Khi hướng dẫn phát âm đúng, tôi phân tích cho các em thấy sự khác biệt
của phát âm đúng với phát âm sai mà các em mắc phải. Bằng cách dùng trực
giác nghe, nhìn để hướng dẫn cho các em nghe, nhìn khuôn miệng của cô giáo
đọc âm, đọc vần để học sinh theo đọc mẫu.
Ví dụ:
Âm S : Uốn đầu lưỡi về phía vòm, hơi thoát ra xát mạnh, không có tiếng thanh.
Âm X: Khe hẹp giữa đầu lưỡi và răng-lợi, hơi thoát ra xát nhẹ, không có tiếng
thanh.

- Đối với học sinh đọc đánh vần là nhóm những học sinh đọc còn ê a
ngắc ngứ; cũng do các em chưa nhớ hết được âm, được vần nên các em mới đọc
chậm, đọc ê a ngắc ngứ; vì vậy cần phải cho các em đọc đánh vần để các em
được cơ hội nắm bắt âm, vần thuần thục thì các em mới có thể đọc trơn lưu loát
được. Tuy nhiên thời gian luyên đọc đánh vần của số học sinh này không thể
kéo dài chỉ cho phép trong một thời gian nhất định.
Để giúp số học sinh này đuổi kịp bạn tôi lên kế hoạch tăng thêm thời
lượng: Đối với học sinh đại trà ngoài các buổi học chính ra được học tăng thêm 2
buổi/tuần là chiều thứ hai và chiều thứ tư, theo lịch của Chuyên môn nhà trư ờng còn
đối với học sinh đọc ê a ngắc ngứ, đọc còn chậm tôi lập kế hoạch đề xuất với
nhà trường; được sự bàn bạc của tổ chuyên môn và sự chỉ đạo của nhà trường
tôi tổ chức cho số học sinh này học tăng thêm một buổi chiều là 3 buổi
chiều/tuần vào các chiều thứ hai, chiều thứ tư và chiều thứ năm hàng tuần).
7


Đồng thời với việc yêu cầu các em luyện đọc; tôi luôn động viên, khuyến
khích sự cố gắng của các em, luôn quan tâm để phát hiện điểm yếu đối với
từng đối tượng để có kế hoạch giúp đỡ. Như em Phạm Thị Ngọc, hoàn cảnh
của em rất thiệt thòi, bố ham rượu chè, mẹ thì một tay vừa nuôi 3 con ăn học
và một mẹ già nên không những thiếu hụt việc chăm lo cho con học hành mà
còn thiếu cả về mặt chế độ dinh dưỡng cho con; Em Phạm Thị Kim Huế
không có bố, sức khoẻ mẹ thì không bình thường, đời sống của 3 mẹ con em
đều phụ thuộc ở bà ngoại. Hoàn cảnh 2 em học sinh trên là một ví dụ. Những
đối tượng học sinh như trên, tôi luôn chia sẻ những lời động viên và hướng
dẫn các em cách khắc phục, cách tự học ở nhà cũng như ở lớp. Gặp phụ huynh
trao đổi động viên họ vượt khó để quan tâm đến các cháu nhiều hơn.
Qua quá trình luyện đọc cho các em, tuy là các em có chậm, yếu hơn
các bạn nhưng được luyện đọc nhiều, được sự chăm sóc của cô, của nhà
trường, của các bậc phụ huynh sự tiến bộ của các em cũng đã động viên tôi rất

nhiều. Quả là “Có công mài sắt có ngày nên kim”, chỉ trong thời gian 2 tháng
- 8 tuần học đầu năm- tôi đã cắt rốn được số học sinh còn đọc vần, và số
lượng nhóm đối tượng học sinh tôi phân chia hồi đầu năm cũng giảm dần.
- Rèn đọc thành tiếng : Cần rèn cho các em phát âm đúng, rõ ràng, đọc
đúng và đọc trôi chảy. Khi tập đọc lưu ý những dấu thanh mà các em hay bỏ
quên hoặc đọc sai. Đọc rõ từng tiếng, không được kéo dài liền tiếng này sang
tiếng khác. Rèn học sinh biết ngừng, nghỉ đúng chỗ, biết phân biệt câu thơ, dòng
thơ. Đối với câu văn dài, hướng dẫn học sinh biết đọc thành từng cụm từ, biết
giữ hơi để khỏi phải bị ngắt quãng giữa các âm tiết; Phần này tôi đã hướng dẫn
học sinh như sau: Dùng dấu gạch chéo đánh dấu chỗ nghỉ hơi (//), chỗ ngừng,
chỗ ngắt nhịp (/) và gạch dưới từ cần nhấn giọng trong đoạn văn, đoạn thơ; Hay
ra bài tập yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ, câu chứa nhiều tiếng dễ phát âm
sai và đọc lại.
Ví dụ : Hướng dẫn học sinh đúng, biết ngừng, nghỉ đúng chỗ, đọc diễn
cảm các câu văn; đoạn thơ sau:
Lớp ta hôm nay sạch sẽ quá ! // Thật đáng khen ! //
Các em hãy lắng nghe và cho cô biết / mẫu giấy đang nói gì nhé ! //
Các bạn ơi ! // Hãy bỏ tôi vào sọt rác ! //
(Bài Mẫu giấy vụn, Tiếng Việt 2- Tập 1)
Bê Vàng đi tìm cỏ /
Lang thang / quên đường về /
Dê trắng thương bạn quá
Chạy khắp nẻo / tìm Bê /
Đến bây giờ Dê Trắng /
Vẫn gọi hoài: / “Bê ! // Bê !” //
(Bài Gọi bạn, Tiếng Việt 2 - Tập 1)
- Hướng dẫn học sinh đọc thầm:
Trước hết phải cho học sinh biết được đọc như thế nào được gọi là đọc
thầm: Đọc thầm là đọc không thành tiếng, đọc bằng mắt.
8



Các đọc hình thức thầm: Cả lớp đọc thầm, đọc thầm theo bạn hoặc theo
cô; có thể đọc thầm để làm theo yêu cầu của cô giáo: Đọc thầm để tìm tiếng, từ
khó đọc trong đoạn, trong bài ; hay tìm trong bài có những nhân vật nào?... Đọc
thầm giúp các em chuẩn bị tốt cho khâu đọc thành tiếng, tìm hiểu bài và nắm bắt
nội dung bài học tốt hơn. Vì vậy, bước đọc thầm trong tiết Tập đọc rất quan
trọng. Không những thế mà việc làm này còn hình thành kỹ năng, kỹ xảo đọc
thầm cho học sinh và kỹ năng này sẽ theo các em trong suốt cuộc đời.
Đối với học sinh lớp 2, đọc thầm khó hơn đọc thành tiếng do các em chưa
có sức tập trung cao để theo dõi bài đọc. Thường các em dễ bỏ dở giữa chừng
hay bị sót dòng.
Để hướng dẫn học sinh đọc thầm đạt kết quả, khi dạy tôi yêu cầu học sinh
tập trung vào bài. Đọc thầm theo bạn để biết được bạn đã đọc đến đâu, hoặc đặt
câu hỏi để tìm tiếng, từ khó đọc trong đoạn, trong bài; hay tìm trong bài có
những nhân vật nào?... Có như vậy các em mới chú ý và tập trung trong khi đọc
thầm và kích thích tinh thần học tập của học sinh.
Ví dụ 1: Bài “Mẹ hiền” Trang 63, Tiếng việt 2 tập I.
Tôi yêu cầu học sinh đọc thầm để tìm trong bài có những nhân vật nào?
(Minh, Nam; bác bảo vệ; cô giáo, và các bạn cùng lớp Nam và Minh).
Ví dụ 2: Em hãy đọc thầm các câu sau và tìm những từ ngữ, câu chứa
nhiều tiếng dễ phát âm sai và đọc lại:
Lúc này, Mai cứ loay hoay mãi với cái hộp đựng bút. Em mở ra đóng
lại... Cuối cùng em lấy bút đưa cho Lan
Các từ khó đọc: loay hoay, mãi, mở, ra.
(Bài Chiếc bút mực, Tiếng Việt 2 - Tập 1)
- Hướng dẫn học sinh đọc thuộc lòng:
Nếu bài Tập đọc có yêu cầu Học thuộc lòng, giáo viên cần chú ý cho học
sinh luyện đọc kĩ hơn (bước đầu diễn cảm); có thể ghi một số từ ngữ làm “điểm
tựa” để các em tự nhớ và đọc thuộc, sau đó, xoá dần hết “từ điểm tựa” để học

sinh tự nhớ và học thuộc toàn bộ; hoặc tổ chức cuộc thi hay trò chơi luyện học
thuộc lòng để giờ học nhẹ nhàng, gây hứng thú cho các em.
Để luyện Học thuộc lòng: Đối với những tiết có yêu cầu học thuộc lòng
(cũng như phần Luyện đọc lại ở tiết Tập đọc không có yêu cầu Học thuộc lòng)
thì khâu luyện học thuộc lòng được thực hiện sau khi học sinh đã nắm được nội
dung bài đọc (nhưng: đầu giờ học giáo viên cần lưu ý cho học sinh để các em có
ý thức ghi nhớ bài trong quá trình tiết học) và được tiến hành theo các bước sau:
+ Giáo viên đọc mẫu.
+ Giáo viên lưu ý cho học sinh về giọng điệu của từng nhân vật hoặc của toàn
bộ bài đọc, hay đoạn đọc.
+ Giáo viên tổ chức học sinh thi đọc cá nhân và uốn nắn cách đọc cho học sinh.
(Khâu này là luyện cho học sinh đọc trôi chảy, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ,
đúng mức, nếu có học sinh khá, giáo viên có thể giúp học sinh bước đầu rèn đọc
diễn cảm).

9


+ Hướng dẫn học sinh đọc thuộc lòng: Bước luyện đọc này là rèn trí nhớ
cho các em và được tiến hành như đã nêu trên.
- Luyện đọc bằng phương pháp tổ chức các trò chơi.
Để hỗ trợ cho việc rèn đọc tôi còn sử dụng phương pháp trò chơi luyện
đọc. Tổ chức các trò chơi đơn giản, không mất nhiều thời gian, không cần chuẩn
bị công phu. Trò chơi luyện đọc tạo không khí vui tươi, hồn nhiên, tiết học nhẹ
nhàng. Các em tham gia trò chơi sẽ phát triển trí thông minh, khả năng sáng tạo
để đáp ứng yêu cầu giao tiếp hằng ngày và phục vụ cho việc học tập tốt. Các em
tham gia trò chơi còn rèn tinh thần tập thể và sự hỗ trợ lẫn nhau trong học tập,
như vậy trò chơi học tập không những trau dồi kiến thức mà còn rèn những kĩ
năng sống cần thiết cho các em. Nên giáo viên có thể lồng ghép hoạt động trò
chơi vào trong tiết học, bằng các hình thức: Thi đọc to, đọc rõ ràng; hay thi đọc

nhanh, thi đọc tiếp sức,...
Cách tổ chức trò chơi: Có nhiều hình thức tổ chức trò chơi luyện đọc.
Thời gian tổ chức trò chơi có thể là 3’ hoặc 5’; 15’;... Giáo viên có thể lựa chọn
loại trò chơi sao cho phù hợp với nội dung yêu cầu bài học và quỹ thời gian cho
phép của tiết học.
Ví dụ: Trò chơi “Ai nhập vai tốt” (thời gian 5’)
Sau khi học xong bài Tập đọc “Mẫu giấy vụn” Trang 49, Tiếng Việt 2
Tập I. Cuối tiết học tôi tổ chức trò chơi như sau:
Yêu cầu: Đọc thầm đoạn 4 của bài và thể hiện vai bạn gái trong bài.
“Bỗng một em gái đứng dậy, tiến tới chỗ mẫu giấy, nhặt lên rồi mang bỏ
vào sọt rác. Xong xuôi, em mới nói:
- Em có nghe thấy ạ. Mẫu giấy bảo: “Các bạn ơi ! Hãy bỏ tôi và sọt
rác!”
Với trò chơi này, Tôi đã phát huy được cho học sinh các kĩ năng: đọc
thầm, rèn trí nhớ, đọc diễn cảm, nói lưu loát,... mạnh dạn, tự tin,...
4.Giải pháp 4: Luyện đọc hiểu cho học sinh lớp 2:
Ai cũng đã biết, nếu muốn hiểu bài thì phải đọc thông văn bản và ngược
lại muốn đọc tốt văn bản thì cần phải hiểu nội dung. Khi các em đã nắm được
nội dung bài, hiểu được tình cảm của tác giả gửi gắm trong bài đọc, thì khi đọc
học sinh mới có thể thể hiện được tình cảm đó qua bài đọc. Biết vậy, nhưng với
trình độ học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng để các em nắm
được nội dung bài học trong một tiết dạy thời gian (40’) cả luyện đọc cả tìm
hiểu bài quả là không đơn giản. Vì vậy, qua quá trình dạy học “nói về môn Tập
đọc” tôi rất trăn trở và đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài qua các khâu như sau:
4.1: Tìm hiểu bài:
- Việc tìm hiểu bài đóng vai trò rất quan trọng trong việc đọc hay, đọc
diễn cảm đối với các em. Tuy nhiên việc này không cho phép nhiều thời gian vì
thế sẽ làm mất đi thời gian luyện đọc, nếu làm sơ sài cho qua để lấy thời gian
luyện đọc thì các em chưa hiểu nội dung bài việc luyện đọc nâng cao sẽ không
hiệu quả. Vì thế người giáo viên cần phải làm tốt cả hai (tìm hiểu bài và luyện

đọc) muốn vậy, khi chuẩn bị bài, người dạy phải nắm vững nội dung bài Tập
10


đọc, dựa trên hệ thống câu hỏi trong bài để có thể cải tiến các câu hỏi khó thành
các câu hỏi nhỏ, học sinh hiểu, dễ trả lời mà vẫn đảm bảo nội dung bài tập đọc.
Ví dụ: Bài Người thầy cũ – Trang 56, Tiếng Việt 2 - Tập 1:
CH1, trong bài tập đọc là: Bố Dũng đến trường làm gì?
Tôi yêu cầu học sinh đọc lại đoạn 1 của bài và đưa ra câu hỏi thay thế
như sau:
CH1: Chú bộ đội nói đến trong bài là ai và người đó đến trường làm gì?
Mỗi một câu hỏi, giáo viên cần chỉ dẫn cho học sinh đọc đoạn nào trong
bài để trả lời, đồng thời trong tiết học, mỗi khi gọi bạn đọc giáo viên cần yêu cầu
cả lớp đọc thầm theo bạn. Như vậy, trong tiết học em nào cũng đã được đọc bài
nhiều lần kể cả số lần đọc thành tiếng và số lần đọc thầm, điều đó không những
vừa giúp các em dễ dàng trả lời câu hỏi cho nội dung bài mà còn giúp các em
được luyện đọc nhiều lần.
4.2: Giải nghĩa từ:
Đối với các từ ngữ khó cần giải thích, giáo viên giải thích một cách tự
nhiên, không nên rập khuôn nguyên tắc. Có thể gợi mở, dẫn dắt các em tự phát
hiện, hoặc đưa ra các từ gần nghĩa hay trái nghĩa, cũng có thể đưa ra những hành
động gần gủi trong cuộc sống thường ngày,... Tóm lại tuỳ theo từng từ mà chọn
cách giải nghĩa thích hợp.
Ví dụ: Bài Bím tóc đuôi sam - Tiếng Việt 2 - Tập 1. Có từ "tết": (tóc
được đan, kết nhiều sợi thành dài). Giáo viên có thể thông qua việc mô tả làm
mẫu bằng thực tế lấy tóc của mình để học sinh quan sát.
4.3: Rèn đọc giúp học sinh cảm thụ văn học:
Tuy là học sinh lớp 2, trình độ ngôn ngữ tiếng Việt còn non nhưng chúng
ta không nên xem nhẹ việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
Nếu học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt thì các em sẽ thấy được sự phong

phú, trong sáng của Tiếng Việt, cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong thơ - văn
và phục vụ cho khả năng nói - viết tiếng Việt của của các em.
Vì vậy, người dạy cần hướng dẫn, dẫn dắt cho học sinh làm quen với việc
cảm thụ văn học qua khâu tìm hiểu bài, trả lời câu hỏi ở mức độ dễ rồi nâng dần
đến khó. Học sinh được tìm hiểu tín hiệu nghệ thuật (ngầm) và giá trị của các
tín hiệu nghệ thuật trong: Phép so sánh, nhân hoá, điệp từ, điệp ngữ,...
Ví dụ 1: Bài Mẹ (Tác giả: Trần Quốc Nam) - Tiếng Việt 2 - Tập 1:
…Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
*Người mẹ được so sánh với những hình ảnh nào?
Người mẹ được so sánh với hình ảnh những ngôi sao “thức” trên bầu trời
đêm và ngọn gió mát lành; Từ đó, học sinh nhận thấy được biện pháp so sánh
trong bài thơ này tác giả đã làm cho người đọc cảm nhận được công lao của
người mẹ đối với con cái thật là to lớn.

11


* Em có nhận xét gì về cách gieo vần trong các dòng thơ? Tiếng cuối của
dòng thơ 6 tiếng cùng vần với tiếng thứ 6 của dòng thơ 8 tiếng. Đây là cách gieo
vần của thể thơ lục bát.
Ví dụ 2: Bài Mùa nước nổi (Theo Nguyễn Quang Sáng) - Tiếng Việt 2 Tập 2:
Có câu “Ngồi trong nhà, ta thấy cả những đàn cá ròng ròng, từng đàn,
từng đàn theo cá mẹ xuôi theo dòng nước, vào tận đồng sâu”.
Sau khi học sinh đọc xong bài Tôi yêu cầu học sinh đọc lại câu văn trên
và nêu câu hỏi: Em hãy tìm những từ ngữ được lặp lại qua câu em vừa đọc?
Câu văn trên được lặp lại từ từng đàn, từng đàn Từ đó học sinh nhận thấy
biện pháp (ngầm) điệp từ, điệp ngữ trong bài, qua đó tác giả làm cho người đọc

thấy bầy cá rất nhiều và thấy được hình ảnh độc đáo của vùng sông nước nơi
đây.
5.Giải pháp 5: Vận dụng củng cố thông qua các hoạt động khác:
Để hỗ trợ cho việc luyện đọc, để kiểm tra cách đọc đối với học sinh không
chỉ ở môn Tập đọc mà cũng cần nhắc nhở các em trong tất cả các môn học
khác và các hoạt động ngoại khoá. Như môn Toán, môn Tự nhiên và xã hội,...
đặc biệt là môn Kể chuyện. Giáo viên vận dụng kĩ năng đọc để hướng dẫn các
em xây dựng bài mới hay làm các bài tập. Quá trình này không những củng cố
được kĩ năng đọc cho các em mà còn giúp các em học tốt các môn học khác.
Đồng thời, để giúp học sinh có ý thức rèn kỹ năng đọc đúng, đọc hay; phát
âm đúng trong mọi tình huống: nhà trường, đoàn thể,.. cần tạo môi trường giao tiếp
bằng ngôn ngữ chuẩn Tiếng việt trong cộng đồng dân cư cũng như trong trường học.
Khắc phục dần các lỗi ngữ âm và các từ ngữ thiếu thông dụng. Giáo viên và nhà trường
phải quan tâm giải quyết những lỗi ngôn ngữ địa phương; trước tiên, ngôn ngữ giáo
viên phải chuẩn mực. Tổ chức các cuộc thi giao lưu, ngoại khoá dưới hình thức “Sân
chơi dành cho học sinh Tiểu học”, phát triển vốn từ theo hướng chuẩn hoá cho học sinh.
Chăm lo sửa lỗi cho các em có các tật về phát âm, các lỗi đã trở thành thói quen của
từng học sinh. Việc chữa lỗi phải tiến hành thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi và
trong mọi hoạt động.

Xây dựng góc học tập (góc ngôn ngữ): Ngoài việc rèn luyện ở trường, ở
lớp ra. Giáo viên cần hướng dẫn các em xây dựng góc ngôn ngữ ở nhà bằng
nhiều hình thức, tuỳ thuộc và khả năng điều kiện mỗi gia đình, có thể đặt hay
mua, mượn,... sách, báo, truyện,... (Thiếu nhi) để hằng ngày các em được luyện
đọc thêm ở nhà vừa nâng cao kĩ năng đọc vừa đem lại những tri thức quý báu
phục vụ học tập, đời sống,.. của các em.
* Đây chính là mối quan hệ giữa các môn học: môn học này hỗ trợ môn
học kia và ngược lại. Đồng thời các em đọc tốt sẽ tiện cho việc giao tiếp, cho
việc nắm bắt được mọi thông tin diễn ra hàng ngày trong xã hội. Người thầy nếu
nắm bắt được mối quan hệ này và có phương pháp, biết cách tổ chức các hình

thức dạy-học thì sẽ làm tốt nhiệm vụ Giáo dục phát triển con người toàn diện,
đạt được mục tiêu Giáo dục nước nhà.
6. Giải pháp 6: Tổ chức các hoạt động dạy học trong giờ Tập đọc lớp 2
Ví dụ minh hoạ:
12


6.1: Ví dụ 1:
Bài 1: Tập đọc: Sự tích cây vú sữa (2 tiết)
(theo Ngọc Châu)
(Tiếng Việt 2, Tập 1)
I, Mục đích , yêu cầu: Giúp học sinh:
- Biết ngắt nghỉ hơi đúng ở câu có nhiều dấu phẩy .
- Hiểu nội dung: Tình cảm yêu thương sâu nặng của mẹ dành cho con (trả
lời được câu hỏi 1,2, 3,4)
- Yêu cầu mở rộng: khuyến khích học sinh trả lời câu hỏi 5 SGK.
II, Đồ dùng dạy học:
- Tranh minh hoạ bài trong sách học sinh;
- Tranh ảnh chụp cây vú sữa và quả vú sữa.
III, Các hoạt động dạy- học:
TIẾT 1
A) Kiểm tra bài cũ: 2HS đọc bài Cây xoài của ông em. (1 em đọc đoạn 1; 1 em
đọc đoạn 2,3)
Câu hỏi: Tại sao mẹ lại chọn những quả xoài ngon nhất bày lên bàn thờ ông?
B) Dạy bài mới:
1) Giới thiệu chủ điểm mới và bài học:
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh minh họa chủ điểm: Em hãy cho
biết tranh vẽ gì? Giáo viên: tranh muốn nói về một gia đình, các con được sống
trong tình yêu thương của cha, mẹ. Chủ điểm mới chúng ta sẽ học này “Cha
mẹ” nói về Tình cảm của cha mẹ dành cho con cái;

Học sinh quan sát tranh minh họa bài học: cho biết tranh vẽ gì? Giáo viên:
Vú sữa là loại trái thơm ngon. Vì sao có loại cây này? Bài học Sự tích cây vú
sữa hôm nay cho các em biết điều đó. (Cả lớp mở SGK trang 96)
2) Luyện đọc:
2.1: Giáo viên đọc mẫu cả bài: giọng đọc chậm trải, nhẹ nhàng, giầu cảm xúc,
nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
2.2: Hướng dẫn học sinh luyện đọc kết hợp giải nghĩa từ:
a) Đọc từng câu:
Học sinh nối tiếp nhau đọc từng câu trong bài. Giáo viên chú ý hướng
dẫn học sinh đọc đúng các từ ngữ học sinh dễ viết sai chính tả: vú sữa, xòa
cành, chẳng nghĩ, trổ ra, nở trắng, gieo trồng.
b) Đọc từng đoạn trước lớp:
- Học sinh nối tiếp nhau đọc từng đoạn trong bài (Đoạn 2 cần tách làm 2:
“Không biết... như mây”, “Hoa rụng... vỗ về”)
- GV kết hợp nhắc học sinh đọc nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong
một số câu văn, Ví dụ:
Một hôm, / vừa đói vừa rét, / lại bị trẻ lớn hơn đánh, / cậu mới nhớ đến
mẹ, / liền tìm đường về nhà. //
Hoa tàn, / quả xuất hiện, / lớn nhanh, / da căng mịn, / xanh óng ánh, / rồi
chín. //
13


Môi cậu vừa chạm vào, / một dòng sữa trắng trào ra, / ngọt thơm như sữa
mẹ.//
- Học sinh đọc chú giải: vùng vằng, la cà. GV giải nghĩa thêm các từ ngữ
mỏi mắt chờ mong (chờ đợi, mong mỏi quá lâu), trổ ra (mọc ra, nhô ra), đỏ hoe
(màu đỏ của mắt đang khóc), xòa cành (xòe rộng cành để bao bọc).
c) Đọc từng đoạn trong nhóm:
- Lần lượt học sinh cùng bàn đọc, bạn nghe góp ý và ngược lại.

- GV theo dõi hướng dẫn các nhóm đọc đúng.
d) Thi đọc giữa các nhóm:
- Các nhóm thi đọc đồng thanh.
- Các nhóm thi đọc cá nhân “đọc truyền điện”, đọc theo vai)
+ Lưu ý: Cần phân nhóm theo đối tượng học sinh để em đọc tốt thi với
nhau, em đọc chưa tốt thi với nhau.
e) Cả lớp đọc đồng thanh 1 lần.
TIẾT 2
3. Hướng dẫn tìm hiểu bài:
3.1: Câu hỏi 1: (Học sinh đọc thầm đoạn 1 để trả lời)
- Vì sao cậu bé bỏ nhà ra đi ? (cậu bé ham chơi bị mẹ mắng, vùng vằng bỏ đi.)
3.2: Câu hỏi 2: (Học sinh đọc phần đầu đoạn 2)
- Câu hỏi phụ: Vì sao cuối cùng cậu bé lại tìm đường trở về nhà? (Đi la cà
khắp nơi, cậu vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ và trở
về nhà)
- Trở về nhà không thấy mẹ, cậu bé đã làm gì? (gọi mẹ khản cả tiếng rồi ôm
lấy một cây xanh trong vườn mà khóc).
3.3: Câu hỏi 3: (Học sinh đọc phần còn lại của đoạn 2)
- Thứ quả xuất hiện trên cây như thế nào ? (Từ các cành lá, những đà hoa bé
tí trổ ra, nở trắng như mây; rồi hoa rụng, quả xuất hiện...)
- Câu hỏi phụ: Thứ quả ở cây này có gì lạ? (lớn nhanh, da căng mịn, màu
xanh óng ánh... tự rơi vào lòng cậu bé; khi môi cậu vừa chạm vào, bỗng xuất
hiện một dòng sữa trắng trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ).
3.4: Câu hỏi 4: (học sinh đọc thầm đoạn 3)
Những nét nào ở cây gợi lên hình ảnh của mẹ? (lá đỏ hoe như nước mắt mẹ
khóc chờ con; cây xòa cành ôm câu bé như tay mẹ âu yếm vỗ về)
3.5: Câu hỏi 5: (học sinh nêu ý kiến cá nhân)
Theo em nếu được gặp lại mẹ, cậu bé sẽ nói gì? (chẳng hạn: Con đã biết lỗi,
xin mẹ tha thứ cho con, từ nay con sẽ luôn chăm ngoan để mẹ vui lòng,...)
4) Luyện đọc lại:

Học sinh đọc theo nhóm: Các nhóm thi đọc; cả lớp nhận xét và bình chọn
người đọc hay.
Lưu ý: GV cần đưa ra lời nhận xét tùy theo từng đối tượng học sinh, đối với học
sinh đọc tốt thì lời nhận xét có chiều hướng tiến tới đọc diễn cảm; đối với học
sinh đọc chưa tốt cần nhận xét theo chiều hướng đọc rõ ràng, lưu loát.
5) Củng cố dặn dò:
14


- GV hỏi: Câu chuyện này nói lên điều gì? (tình yêu thương sâu nặng của mẹ đối
với con.)
- Nhận xét tiết học.
- Dặn dò về tiếp tục luyện đọc truyện, nhớ nội dung chuẩn bị cho giờ kể chuyện.
6.2: Ví dụ 2: 6.2: Ví dụ 2:
Bài 2: Tập đọc - Học thuộc lòng: Cây dừa (Tiếng Việt 2, Tập 2)
(Trần Đăng Khoa)
I, Mục đích , yêu cầu: Giúp học sinh:
- Biết ngắt nhịp thơ hợp lí khi đọc các câu thơ lục bát.
- Hiểu nội dung: Cây dừa giống như con người, biết gắn bó với đất trời ,
thiên nhiên. (trả lời được câu hỏi 1,2, học thuộc lòng 8 dòng thơ đầu)
- Yêu cầu mở rộng: khuyến khích học sinh trả lời được câu hỏi 3 và thuộc
cả bài thơ.
II, Đồ dùng dạy học:
- Một cây hoa giả có cài 10 câu hỏi về 5 loài cây lạ trong bài đọc Bạn có
biết? về cây cối ở địa phương (Cây cao nhất, thấp nhất, to nhất, đẹp nhất, cây lâu
đời nhất, cây bạn thích nhất, cây mát nhất, cây nhiều quả nhất, cây ăn quả ngon
nhất, cây nở nhiều hoa nhất.) để chơi trò chơi hái hoa dân chủ.
- Tranh minh hoạ nội dung bài trong sách học sinh; thêm tranh ảnh về cây
dừa, rừng dừa Nam Bộ.
III, Các hoạt động dạy- học:

A) Kiểm tra bài cũ: GV bày cây hoa giả có cài 10 câu hỏi trong 10 bông hoa;
Mời học sinh hái hoa và trả lời nhanh câu hỏi. (Cây cao nhất, thấp nhất, to nhất,
đẹp nhất, cây lâu đời nhất, cây bạn thích nhất, cây mát nhất, cây nhiều quả
nhất, cây ăn quả ngon nhất, cây nở nhiều hoa nhất.)
B) Dạy bài mới:
1) Giới thiệu bài: (Giáo viên bắc cầu từ phần kiểm tra bài cũ) Các em đã biết. có
rất nhiều loài cây, mỗi loài cây đều có những ích lợi riêng của nó; Cây dừa cũng
vậy, dừa rất gần gủi và quen thuộc đối với mỗi con người chúng ta. Dừa cho ta
quả để uống nước, cùi dừa chế biến được rất nhiều món ăn, lá dừa để làm chổi
quét nhà, quét sân,... Nhà thơ Thiếu nhi Trần Đăng Khoa sẽ cho chúng ta thấy
được vẻ đẹp thú vị của cây dừa qua bài thơ Cây dừa (Cả lớp mở SGK trang 88)
2) Luyện đọc:
2.1: Giáo viên đọc mẫu cả bài: giọng đọc nhẹ nhàng, hồn nhiên. Nhấn giọng ở
những từ ngữ gợi tả, gợi cảm: toả, gật đầu, bạc phếch, nở, chải, đeo, dịu, đánh
nhịp, canh, đủng đỉnh.
2.2: Hướng dẫn học sinh luyện đọc kết hợp giải nghĩa từ:
a) Đọc từng câu: Học sinh nối tiếp nhau đọc từng câu, chú ý các từ ngữ học sinh
dễ viết sai: trăng, trên, nắng trưa, múa reo, rì rào, bạc phếch.
b) Đọc từng đoạn trước lớp:
- Học sinh nối tiếp nhau đọc từng đoạn trong bài, GV có thể chia bài làm
3 đoạn để hướng dẫn học sinh luyện đọc(đoạn 1: 4 dòng thơ đầu; Đoạn 2: 4dòng
tiếp theo; Đoạn 3: 6 dòngcòn lại)
15


- Hướng dẫn học sinh nghỉ hơi để tách các cụm từ ở một số câu (nếu học
sinh tự đọc đúng thì không cần hướng dẫn: tránh làm cho việc đọc nghỉ hơi trở
thành mất tự nhiên):
Cây dừa xanh / toả nhiều tàu, /
Dang tay đón gió, / gật đầu gọi trăng.//

Thân dừa / bạc phếch tháng năm, /
Quả dừa - / đàn lợn con / nằm trên cao.//
Đêm hè, / hoa nở cùng sao, /
Tàu dừa - / chiếc lược / chải vào mây xanh. //
Ai mang nước ngọt, nước lành. /
Ai đeo / bao hũ rượu / quanh cổ dừa. //
Giúp học sinh hiểu được các từ được chú giải sau bài; giải nghĩa thêm:
bạc phếch (bị mất màu, biến thành màu trắng cũ, xấu): đánh nhịp (động tác đưa
tay lên xuống đều đặn – giáo viên vừa giảng vừa mô tả bằng động tác)
c) Đọc từng đoạn trong nhóm:
d) Thi đọc giữa các nhóm (từng đoạn, cả bài; đọc đồng thanh; đọc cá nhân)
e) Cả lớp đọc đồng thanh 1 lần.
3. Hướng dẫn tìm hiểu bài:
3.1: Câu hỏi 1: Các bộ phận của cây dừa (lá, ngọn, thân, quả) được tác giả so
sánh với những gì ?
GV nêu câu hỏi đồng thời yêu cầu cả lớp đọc thầm 8 dòng thơ đầu, 1 học
sinh đọc to trước lớp để trả lời lần lượt từng ý của câu hỏi?
GV tách câu hỏi 1 thành các ý nhỏ và liệt kê nhanh các ý đó lên bảng lớp
(phần nháp) để học sinh dễ trả lời:
+ lá/ tàu dừa : như bàn tay dang ra đón gió như chiếc lược chải vào mây xanh.
+ ngọn dừa: như cái đầu của người, biết gật gật để gọi trăng.
+ thân dừa: mặc tấm áo bạc phếch, đứng canh trời đất.
+ quả dừa: như đàn lợn con, như những hũ rượu.
2 Học sinh đọc lại 8 dòng thơ đầu, cả lớp đọc thầm theo bạn (giọng tả vui,
nhẹ nhàng, hồn nhiên)
3.2: Câu hỏi 2: Cây dừa gắn bó với thiên nhiên (gió, trăng, mây, nắng, đàn cò)
như thế nào ?
Học sinh đọc 6 dòng thơ còn lại, thảo luận và trả lời các ý của câu hỏi:
+ với gió: dang tay đón gió, gọi gió cùng múa, reo.
+ với trăng: gật đầu gọi trăng.

+ với mây: là chiếc lược chải vào mây xanh
+ với nắng: làm dịu mát nắng trưa
+ với đàn cò: hát rì rào cho đàn cò đánh nhịp.
2 học sinh đọc lại 6 dòng thơ cuối, (cả lớp đọc thầm theo bạn) GV nhắc
học sinh chú ý nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm: làm dịu, gọi, đứng
canh, đủng đỉnh.
3.3: Em thích những câu thơ nào, Vì sao? (Câu hỏi này chỉ khuyến khích học
sinh trả lời, không bắt buộc cả lớp)
16


GV tôn trọng những ý kiến khác nhau của học sinh, khen ngợi những em
có thể giải thích lí do một cách rõ ràng, có sức thuyết phục và có thể hướng dẫn
thêm cách trả lời.
4) Hướng dẫn học thuộc lòng 8 dòng thơ đầu:
Trước khi luyện đọc tôi đưa ra yêu cầu:
Trò chơi: Cô chia lớp thành 4 nhóm; Các em chú ý đọc bài nhanh thuộc,
cô sẽ tổ chức các nhóm thi đọc với nhau. Nhóm nào được nhiều bạn đọc thuộc
nhất thì nhóm đó thắng cuộc.
- 8 dòng thơ cần đọc thuộc lòng, Tôi hướng dẫn học sinh luyện đọc và xóa dần
như sau . (xóa 4 lần, lần cuối sẽ xóa hết)
Xoá lần thứ nhất

Xoá lần thứ hai:

Cây dừa xanh / toả nhiều tàu, /
Dang tay đón gió, / ................
Thân dừa/ bạc phếch tháng năm,/
Quả dừa - / đàn lợn con / .........
Đêm hè, / hoa nở cùng sao, /

Tàu dừa - / chiếc lược / ..........
Ai mang nước ngọt, nước lành. /
Ai đeo / bao hũ rượu / ...........

Cây dừa xanh /.....
Dang tay đón gió,/ .........
Thân dừa/ ...
Quả dừa-/đàn lợn con/ ..
Đêm hè, / ...
Tàu dừa-/chiếc lược/ ......
Ai mang...
Ai đeo/bao hũ rượu/ ......

Xoá lần thứ ba:
Cây dừa /.....
Dang tay .........
Thân dừa/ ...
Quả dừa-/ ...
Đêm hè, / ...
Tàu dừa-/ ......
Ai mang...
Ai đeo/ ......

Tổ chức trò chơi:
+ GV phổ viến luật chơi: 4 nhóm thi đua, mỗi bạn trong nhóm đọc 1 câu
thơ, các em sẽ đọc nối tiếp như vậy đến hết 8 dòng thơ vừa đọc; nếu đến lượt
mình bạn nào không đọc được thì phải đứng ra ngoài hàng để bạn tiếp theo đọc,
cứ như vậy, cả nhóm sẽ đọc hết nhiệm vụ mà nhóm nào có số người không đọc
ít nhất là nhóm đó thắng cuộc.
+ Tiến hành trò chơi: Chia lớp chơi thành 2 đợt:

Đợt 1: 2 nhóm chơi; 2 nhóm kia cỗ vũ.
Đợt 2: 2 nhóm còn lại chơi, học sinh ở 2 nhóm trước cỗ vũ.
Chơi xong giáo viên tổng hợp kết quả cả 4 nhóm và tuyên bố nhóm thắng
cuộc (lưu ý: không chê nhóm thua cuộc mà cần động viên, hướng dẫn)
- Đọc cá nhân: Gọi một 1 -2 học sinh đọc thuộc cả 8 dòng thơ; khuyến khích học
sinh đọc thuộc cả bài (nếu có).
5) Củng cố dặn dò:
- Nhận xét tiết học.
- Dặn dò về tiếp tục học thuộc bài:
Tóm lại: 2 bài dạy này, tôi sử dụng các phương pháp dạy học: phương pháp trực
quan, đàm thoại, luyện tập thực hành, hoạt động theo nhóm, trò chơi,...
- Quan tâm đựơc tất cả các đối tượng học sinh.
- Đồ dùng trực quan sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, khi cho học sinh quan
sát xong cất ngay tránh lạm dụng trực quan trong tiết dạy.

17


* Qua phần dạy thực nghiệm do tôi thiết kế cách dạy này được đồng nghiệp
đánh giá như sau:
- Giáo viên nghiên cứu kĩ bài dạy.
- Phương pháp dạy học sát đối tượng học sinh phát huy được tính tích
cực, chủ động của học sinh, phát triển được tư duy của học sinh.
- Khắc sâu được kiến thức bài dạy, mở rộng được kiến thức phát huy sự
sáng tạo của học sinh, quan tâm giúp đỡ học sinh đọc chưa lưu loát.
Sau khi tôi nghiên cứu, đổi mới một số phương pháp dạy môn Tập đọc
lớp 2 (tôi đã trình bày ở trên) và hoàn thiện SKKN này, qua thực nghiệm với lớp
2B(năm học 2013-2014); lớp 2A2(năm học: 2014-2015) do tôi chủ nhiệm cho
thấy kết quả thật đáng mừng, học sinh ngày càng có kĩ năng đọc tốt hơn. Cách
dạy này đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Vì vậy, theo tôi đổi mới phương pháp là

một việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng dạy - học.
IV. KIỂM NGHIỆM.
1. Mục đích: Đổi mới phương pháp giáo dục; phối hợp giữa gia đình-nhà
trường- xã hội, “lấy học sinh làm trung tâm”. Giáo viên chỉ là người hướng
dẫn, học sinh chủ đạo tìm tòi, lĩnh hội kiến thức; đồng thời việc trau dồi
kiến thức cho các em, ngưòi dạy học cần phải biết quan tâm đến cả về mặt
thể chất, sức khoẻ và đời sống của trẻ.
2. Đối tượng: Tôi đã chọn thực nghiệm qua 2 năm, 2 lớp, đó là:
- Lớp 2B, Năm học 2013 – 1014
- Lớp 2A2, Năm học 2014 – 1015
Tại trường Tiểu học Ngọc Khê 2; Đối tượng ở 2 lớp của 2 năm là
tương đương nhau, đều cùng điểm trường, cùng địa bàn dân cư.
3. Kết quả nghiên cứu:
Trong quá trình giảng dạy, với việc áp dụng các biện pháp trên so với hồi
đầu năm học, cả 2 năm, 2 lớp, tôi thấy học sinh đã có tiến bộ rõ rệt; các em đã
chăm ngoan, tích cực, tự giác hơn hẳn và kĩ năng đọc cũng đáng mừng. Tuy
nhiên, kết quả hết đạt được đây chưa phải là mĩ mãn sức và việc “Rèn kĩ năng

đọc cho học sinh” là một quá trình lâu dài song với những kết quả bước
đầu như trên, nếu tiếp tục rèn luyện sang lớp trên các em sẽ có kỹ năng
đọc đạt yêu cầu. Cụ thể qua bảng chất lượng khảo sát cuối năm học của 2 lớp:

Đọc hay
Lớp
Lớp 2B

Sĩ số

2
2014-2015 0

Lớp 2A2
32
2014-2015

8
3

Đọc rõ ràng,
lưu loát

Đọc ê a,

Đọc đúng

ngắc ngứ

TL

S
L

TL

S
L

TL

SL


TL

40

8

40

4

20

0

0

21

65,2

9,8

8

25

0

0


Năm học 2013 – 1014:

18


Số học sinh đã đọc rất tốt đó là: Phạm Thị Yến Vi; Lê Hoàng Hải; ... Số
học sinh đầu năm đọc còn rất kém như: Lê Tiến Đạt; Phạm Thúc Tuấn; Phạm
Hùng Vĩ,... cuối năm đã đọc đúng, đọc rõ ràng.
Năm học 2014 – 1015:
Số học sinh đọc rất tốt đó là: em Lưu Việt Anh; Ngô Thuỳ Dương;
Nguyễn Huyền Thuỳ Trang; Số học sinh đầu năm đọc còn rất kém như: em
Phạm Thị Yến Nhi; Phạm Thị Kim Huế, Phạm Thị Ngọc,... đến nay đã đọc
đúng, đọc rõ ràng.
C - K ẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận: Trong việc dạy học nói chung và dạy môn Tập đọc nói riêng
“Cách rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2” tôi đã nêu trên là tổng hoà các mối
quan hệ giữa các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và người dạy cần nắm
vững phương pháp đặc trưng bộ môn đồng thời cũng cần có các kĩ năng sư
phạm như:
- Nắm được đặc điểm tâm lí học sinh để phân loại đối tượng học sinh; tìm được
các lỗi, hạn chế ở học sinh.
- Biết cách phối hợp: giữa gia đình-nhà trường- xã hội;
- Biết cách nhận xét, đánh giá học sinh;
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy trước khi lên lớp;
- Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với nội dung bài học;
- Lên kế hoạch dạy học phù hợp với đối tượng học sinh;
- Sử dụng đồ dùng trực quan đúng mức;
- Biết củng cố bài thông qua các môn học khác và các hoạt động ngoại khoá;…
Tóm lại: Trong quá trình truyền thụ kiến thức mới, để học sinh nắm được
nội dung bài người giáo viên phải vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy

học. Không có phương pháp nào là vạn năng, tuyệt đối. Cần lựa chọn các
phương pháp sao cho phù hợp với từng bài dạy, từng đối tượng học sinh sao cho
đảm bảo tính khoa học và vừa sức.
Muốn làm được như vậy thì người giáo viên phải luôn luôn biết tự trau
dồi cho mình các kiến thức, kĩ năng sư phạm, tích luỹ kinh nghiệm giảng dạy;...
thì hiệu quả dạy học chắc hẳn ai cũng có thể làm được.
2. Đề xuất:
- Đề xuất với cấp uỷ chính quyền địa phương:
Đảng và Chính Phủ đã và đang quan tâm tới những học sinh thuộc hộ
nghèo cũng đã phần nào giảm đi những khó khăn cho các em và gia đình, nhưng
tình trạng trẻ em thiếu hụt cân nặng vẫn còn là không ít đối với địa bàn sở tại. Vì
nếu sức khoẻ, thể lực của các em kém thì các em không nổ lực mà học tập được,
sẽ khó khăn cho những nhà làm giáo dục trực tiếp như chúng tôi. Điều đó không
tránh khỏi sự ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng đất nước trong tương lai. Vì
vậy, tôi muốn được chính quyền các cấp quan tâm hơn nữa đối chính sách
khuyến học này.
- Đề xuất với chuyên môn:

19


Hàng năm huyện nhà thường tổ chức các cuộc thi (Sân chơi học sinh Tiểu
học) như Hội thi Kể chuyện; Hội thi Tiếng hát hay,... Sân chơi này rất bổ ích đối
với học trò và đã hỗ trợ rất lớn đối với quá trình giáo dục của những người trực
tiếp như chúng tôi. Vì vậy, tôi mong rằng, sân chơi bổ ích này, hàng năm sẽ
được duy trì và ngày một phát triển.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Ngọc Khê, ngày 10 tháng 4 năm 2015

Tôi xin cam đoan SKKN không sao
chép của người khác. Nếu sai tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Lê Thị Tâm

20



×