Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

MỘT số vấn đề PHÁP lý cơ bản về THU hút vốn đầu tư nước NGOÀI THÔNG QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.18 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN HÒA

Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thu hút vốn đầu tư
nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán ở
Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Thu Thủy

Hà nội - 2004


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

5

CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG

11

KHOÁN VÀ VẤN ĐỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
THÔNG QUA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1.1.

Khái quát chung về thị trƣờng chứng khoán



11

1.1.1.

Khái niệm thị trƣờng chứng khoán

11

1.1.2.

Các chủ thể trên thị trƣờng chứng khoán

15

1.1.3.

Vai trò của thị trƣờng chứng khoán

22

1.2.

Vấn đề thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài thông qua thị trƣờng

25

chứng khoán Việt Nam
1.2.1


Khái niệm thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài thông qua thị trƣờng

25

chứng khoán
1.2.2

Các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đầu tƣ tại thị trƣờng chứng

28

khóan Việt Nam
1.2.3

Những điều kiện thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong 31
việc thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài qua thị trƣờng chứng khoán

1.2.4

Những tác động cơ bản đối với nền kinh tế - xã hội do việc

35

thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài qua thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam
CHƢƠNG II: PHÁP LUẬT VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC

39

NGOÀI THÔNG QUA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT

NAM
2.1

Các quy định về bảo hộ của nhà nƣớc đối với các nguồn vốn 40


nƣớc ngoài đầu tƣ vào thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
2.1.1

Nhà nƣớc Việt Nam khuyến khích và bảo đảm về quyền và

40

lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài khi đầu tƣ
vào thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
2.1.2

Đảm bảo quyền tự chủ vốn, lựa chọn hình thức đầu tƣ phù

43

hợp khi đầu tƣ tại thị trƣờng chứng khoán
2.2

Các hình thức đầu tƣ của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại thị

44

trƣờng chứng khoán Việt Nam
2.2.1


Đầu tƣ mua bán chứng khoán

44

2.2.2

Thành lập tổ chức kinh doanh chứng khoán liên doanh

47

2.3

Các quy định về ƣu đãi thuế quan đối với nhà đầu tƣ nƣớc

68

ngoài khi đầu tƣ tại thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
2.3.1

Ƣu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp

69

2.3.2

Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc phép chuyển lợi nhuận,

72


chuyển vốn đầu tƣ nƣớc ngoài khi đầu tƣ tại thị trƣờng
chứng khoán Việt Nam
CHƢƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THU

74

HÚT ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI QUA THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1

Thực tiễn áp dụng pháp luật

74

3.1.1

Những ƣu điểm

74

3.1.2

Những vấn đề bất cập

77

3.2

Một số kiến nghị


83

3.2.1

Về việc ban hành luật chứng khoán

3.2.2

Điều chỉnh các quy định về thuế quan tạo ra sự ƣu đãi hơn
cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đầu tƣ tại thị trƣờng chứng

85


khoán
3.2.3

Hoàn thiện khung pháp lý trong việc cho phép chuyển đổi

89

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài
3.2.4

Cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nƣớc ngoài

91

thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện và doanh nghiệp
100% vốn nƣớc ngoài hoạt động tại thị trƣờng chứng

khoán Việt Nam
3.2.5

Các kiến nghị khác nhằm thu hút hơn nữa các nguồn vốn

91

đầu tƣ nƣớc ngoài thông qua thị trƣờng chứng khoán
KẾT LUẬN

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

98


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những thập niên gần đây, chu chuyển vốn đầu tư vào các nước đang
phát triển ngày càng tăng lên nhanh chóng. Các dòng vốn được đưa vào khu vực
này dưới hình thức các khoản vay, đầu tư trực tiếp, viện trợ phát triển, đầu tư
thông qua thị trường chứng khoán.... Trong đó, đầu tư qua thị trường chứng
khoán là một hình thức đầu tư mới song kết quả đạt được tại các thị trường
chứng khoán đó rất khả quan. Các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi
cơ chế kinh tế đã thiết lập thị trường chứng khoán trong nước và mở cửa thị
trường cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư. Mặc dù mới hình thành nhưng
thị trường chứng khoán đã nhanh chóng góp phần quan trọng trong việc củng cố
hệ thống tài chính, phục vụ cho phát triển kinh tế quốc gia.
Đối với Việt Nam, thị trường chứng khoán ra đời và đi vào hoạt động

trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ từ cơ chế tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và đang phát triển với tốc độ cao, ổn định; đồng thời, trong bối
cảnh Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Mục
đích đặt ra khi xây dựng thị trường chứng khoán Việt Nam là nhằm thông qua thị
trường để huy động và luân chuyển các nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn phục
vụ cho phát triển đất nước; tận dụng các cơ hội để mở rộng và phát triển thị
trường, trong đó coi các yếu tố nội lực là quyết định. Để phù hợp với yêu cầu của
quá trình hội nhập và sử dụng thị trường chứng khoán là một kênh thu hút các
nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Việt Nam đã mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia
ngay từ khi thị trường mới đi vào hoạt động. Như vậy, việc mở cửa thị trường

5


chứng khoán Việt Nam vừa do ảnh hưởng, tác động bởi yêu cầu của quá trình
hội nhập, vừa là đòi hỏi của nội tại nền kinh tế đang trong giai đoạn cần vốn đầu
tư.
Thực tế các nước đang phát triển trên thế giới và tại Việt Nam trong
những năm qua cho thấy, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã và đang đóng một
vai trò quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội.
Phát triển và mở cửa thị trường chứng khoán, bên cạnh các kênh huy động
vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và viện trợ phát triển (ODA), chúng ta có thêm một
kênh cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam đầy tiềm năng và
hiệu quả. Nếu Việt Nam có những chính sách phù hợp thì thông qua thị trường
chứng khoán sẽ huy động được các nguồn vốn trong và ngoài nước, đặc biệt là
các nguồn vốn dài hạn để tăng thêm sức mạnh cho hệ thống tài chính quốc gia.
Trong Phƣơng hƣớng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5
năm 2001-2005, đại hội IX của Đảng đã đề ra mục tiêu là trong giai đoạn 2001 –

2005 có thể thu hút được 18-20 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển,
trong đó 1-2 tỷ là thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài, mở
thị trường chứng khoán [ 5, tr 269 ].
Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, Nhà nước Việt Nam đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh liên quan đến chứng khoán và thị trường
chứng khoán Việt Nam, khuyến khích và ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào thị trường chứng khoán. Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày ngày

11/7/1998, sau được thay thế bởi Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Quyết
định số 146/2003/QĐ-TTg ngày 17/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ quy định
về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam,
Quyết định số 55/2000/QĐ-TTg ngày 27/3/2000 của Thủ tướng Chính phủ quy

6


định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán và các
văn bản khác đã tạo ra một khung pháp lý thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam ở mức độ ban đầu.
Tuy vậy, vấn đề đặt ra là thị trường chứng khoán Việt Nam đã hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài hay chưa khi mà sự cạnh tranh nhằm thu hút các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực và trên thế giới đang ngày
càng gay gắt ? Những vướng mắc nào đang cản trở việc thu hút các nguồn vốn
nước ngoài vào thị trường ? Mức độ phù hợp với luật pháp và thông lệ các nước
trong việc mở cửa và huy động các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường
chứng khoán ? Cách thức quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư này đã
tạo thuận lợi cho việc đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài chưa ? Đây thực sự là
những vấn đề đáng lưu ý trong quá trình phát triển và hoàn thiện pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung, pháp luật về thu hút đầu tư

nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán nói riêng.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài “ Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thu hút
đầu tƣ nƣớc ngoài thông qua thị trƣờng chứng khoán Việt Nam” để góp
phần hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhằm huy
động được tối đa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán ở
Việt Nam .
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, phần lớn các công trình
nghiên cứu đó được thực hiện dưới khía cạnh kinh tế, những vấn đề thuộc
chuyên môn nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, những tác động của thị trường
chứng khoán đối với nền kinh tế...

7


Tại Việt Nam, mặc dù nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường mới được hơn 15 năm, song cho đến nay cũng đã
có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà kinh tế về chứng
khoán và thị trường chứng khoán đã được công bố và các công trình nghiên cứu
đó đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao kiến thức cho người dân về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Các nhà nghiên cứu hàng đầu tại Việt nam về
chứng khoán và thị trường chứng khoán phải kể đến như Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn
Tư, Giáo sư Nguyễn Duy Gia và nhiều các nhà nghiên cứu khác.
Dưới góc độ pháp lý, các công trình nghiên cứu còn rất ít, chủ yếu là các
bài viết đăng trên các Báo, tạp chí. Nội dung của các bài viết đó tập trung vào
các vấn đề như : Những vấn đề bất cập trong các quy định của pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán, các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán …
Cho đến nay, tại Việt nam chưa có một công trình nghiên cứu khoa học

nào ở cấp độ luận văn Thạc sĩ hoặc luận án Tiến sĩ hoặc cấp Bộ, Ngành đề cập
về vấn đề pháp lý về thu hút đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng
khoán Việt nam. Việc nghiên cứu về vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài thông qua
thị trường chứng khoán Việt nam mới chỉ dừng lại ở một số bài báo mà trong đó
mỗi bài viết đề cập tới một phạm vi nhỏ khác nhau như: Những tác động và
thách thức đối với thị trường chứng khoán Việt nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế; So sánh sự ưu đãi đối với các hoạt động đầu tư chứng khoán tại
thị trường chứng khoán Việt nam và thị trường chứng khoán các nước …. Do
vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát và có hệ thống về các vấn đề pháp lý
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán Việt nam
là rất cần thiết.

8


3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm phân tích và đưa ra cách nhìn
nhận tổng quát và có hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về thu hút đầu tư
nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra các kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Để thực hiện được điều đó, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ khái niệm về thị trường chứng khoán và vấn đề thu hút đầu tư
nước ngoài qua thị trường chứng khoán.
- Phân tích thực trạng pháp luật về thu hút đầu tư nước ngoài qua thị
trường chứng khoán.
- Nêu ra thực trạng áp dụng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật về thu hút đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng
khoán Việt Nam .
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào một số vấn đề pháp lý cơ bản nhất liên quan đến

việc thu hút, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường
chứng khoán Việt Nam thông qua các hình thức đầu tư, các biện pháp đảm bảo
đầu tư và các uư đãi thuế quan đối với nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia thị
trường chứng khoán .
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử: Sử dụng phương pháp
này trong phân tích và đánh giá để thấy các quy định về khuyến khích đầu tư
nước ngoài vào thị trường chứng khoán ngày càng hoàn thiện, phù hợp với tình
hình thực tiễn hơn; các quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán, các

9


quy định nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán có
mối liên hệ chặt chẽ với các quy định của hệ thống pháp luật nói chung; đồng
thời nhìn nhận các quy định được xây dựng theo thời gian và trong những điều
kiện thực tế nhất định để hiểu vấn đề sâu sắc hơn.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng thường xuyên trong mỗi vấn đề
qua việc đánh giá các quy định về thu hút đầu tư nước ngoài vào thị trường
chứng khoán của Việt Nam có sự tương đồng hay khác biệt với luật pháp các
nước và thông lệ quốc tế về vấn đề này cũng như so sánh giữa các văn bản điều
chỉnh một vấn đề nhưng được xây dựng trong những thời gian khác nhau.
- Phương pháp thống kê: Thống kê tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam nói chung và tình hình đầu tư vào thị trường chứng khoán qua các số liệu
về vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào Việt Nam qua thị trường
này.
6. Những đóng góp của Luận văn:
- Luận văn đã phân tích và làm sáng tỏ được vai trò của thị trường chứng

khoán, vai trò và sự tác động của các nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị
trường chứng khoán đối với nền kinh tế xã hội
- Nêu và phân tích chuyên sâu về thực trạng của các quy định pháp luật
về thu hút và khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán
- Đánh gía những ưu điểm, những vấn đề còn bất cập qua áp dụng thực tế
các quy định pháp luật về thu hút đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng
khoán và từ đó nêu lên những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật .
7. Nội dung cơ bản của luận văn
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, ngoài phần mở đầu, phần kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được trình bày làm 03 chương với các
vấn đề:

10


Chƣơng I:

Khái quát chung về thị trường chứng khoán và vấn đề thu hút

đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam
Chƣơng II: Pháp luật về thu hút đầu tư nước ngoài thông qua thị trường
chứng khoán Việt Nam
Chƣơng III: Thực tiễn áp dụng pháp luật về thu hút đầu tư nước ngoài qua
thị trường chứng khoán Việt Nam và một số kiến nghị

CHƢƠNG I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VÀ VẤN ĐỀ THU HÚT ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
THÔNG QUA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

1.1 Khái quát chung về thị trƣờng chứng khoán
1.1.1 Khái niệm thị trƣờng chứng khoán
1.1.1.1 Sự ra đời của thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán đã ra đời và phát triển trên thế giới cách đây hàng
trăm năm và đã trải qua nhiều bước thăng trầm.
Hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán xuất hiện vào khoảng thế
kỷ 15 tại các trung tâm thương mại của các nước phương Tây, nơi các thương
gia trao đổi, thương lượng mua bán hàng hoá với nhau. Sự trao đổi, thoả thuận
đó diễn ra tại các quán cà phê và thông qua lời nói với nhau về các hợp đồng
mua bán mà không có sự xuất hiện trực tiếp của hàng hoá. Nguyên bản đầu tiên
của thị trường giao dịch phải kể tới thị trường tại thành phố Bruges của Vương
quốc Bỉ vào năm 1453, tiếp theo là sự ra đời của các thị trường ở Anh, Đức …
vào thế kỷ 18. Nội dung giao dịch tại đó bao gồm cho cả thị trường hàng hoá, thị
trường ngoại tệ và thị trường chứng khoán động sản (giao dịch các loại giấy tờ
xác định quyền đối với tài sản). Quá trình hoạt động của thị trường giao dịch đó
đã làm xuất hiện các quy ước xác định cho các cuộc thương lượng và rồi trở

11


thành các quy tắc có tính bắt buộc đối với các thành viên tham gia thị trường. Do
sự phát triển của kinh tế và lưu thông hàng hoá, sau một thời gian hoạt động, thị
trường đã không đáp ứng được yêu cầu cho cả ba giao dịch nữa nên đã dẫn đến
sự chia tách thành: các khu thương mại ( từ thị trường hàng hoá), thị trường hối
đoái (từ thị trường ngoại tệ) và thị trường chứng khoán (từ thị trường chứng
khoán động sản).
Thị trường chứng khoán ra đời đã có tác động tích cực đến nền kinh tế,
đặc biệt là ở một số nước Tây Âu và bắc Mỹ. Các nước đã nhận thấy vai trò của
thị trường chứng khoán như một kênh thu hút và lưu thông các nguồn vốn đầu tư
phát triển và thông qua thị trường, Nhà nước có thể quản lý và tác động đến nền

kinh tế đầy hiệu quả. Dần dần, thị trường chứng khoán đã ra đời và phát triển cả
ở các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Xuất phát từ vai trò to lớn của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế,
nên các quốc gia đều có các chính sách ưu đãi, khuyến khích thị trường này phát
triển. Đến nay, thị trường chứng khoán đã trở thành một thể chế tài chính không
thể thiếu trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, được xem là đặc
trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại.
Trong quá trình phát triển, thị trường chứng khoán luôn chịu sự tác động
và chi phối bởi sự phát triển của nền kinh tế, của khoa học kỹ thuật và sự biến
động xã hội. Mặt khác, do sự năng động của thị trường chứng khoán tại mỗi
nước trên cơ sở nền kinh tế của nước đó, ngày nay trên thế giới đã nổi lên một số
thị trường lớn, có tính quốc tế như thị trường chứng khoán London (ra đời năm
1773), thị trường chứng khoán New York (ra đời năm 1792 bằng việc 24 thương
gia ký thoả thuận “ Cây ngô đồng ” ở phố Wall ); thị trường chứng khoán Tokyo
( thị trường chứng khoán Nhật Bản ra đời năm 1878, thời kỳ Minh trị duy tân).
Trong đó nổi bật về quy mô và uy tín cũng như doanh số đạt được là thị trường
chứng khoán New York với khoảng 3000 công ty có chứng khoán niêm yết, bao

12


gồm các tập đoàn khổng lồ như IBM, GE, AT&T …. với giá trị hàng nghìn tỷ
USD [ 58, tr53], [53, tr18].
Số lượng thành viên của Tổ chức Quốc tế các Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước (IOSCO) đã tới hàng trăm và còn tiếp tục gia tăng, trong đó có Uỷ ban
chứng khoán nhà nước Nhà nước Việt nam (chính thức gia nhập IOSCO từ tháng
5/2001).
1.1.1.2 Khái niệm:
Thị trường chứng khoán đã ra đời được hàng trăm năm, những hoạt động
giao dịch, mua bán chứng khoán tại thị trường chứng khoán ngày càng phát triển

và có nhiều điểm khác so với thời kỳ ban đầu. Theo sự phát triển của thị trường
chứng khoán mỗi thời kỳ và dưới các góc độ khác nhau, khái niệm về thị trường
chứng khoán cũng có sự khác nhau nhất định.
Theo Christine Stopp – một nhà kinh tế học người Mỹ, thì thị trường
chứng khoán là địa điểm mua bán chứng khoán của các công ty. Nó được công
nhận là một biện pháp hữu hiệu nhằm giúp cho các doanh nghiệp huy động vốn
kinh doanh , đồng thời cống hiến cơ hội cho những cá nhân và định chế sẵn lòng
cho vay tiền [ 42 ].
Tại Việt nam, các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế về thị trường chứng
khoán trong các tác phẩm, các công trình nghiên cứu cũng đã nêu khái niệm về
thị trường chứng khoán khác nhau. Theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Gia thì:
Thị trường chứng khoán là hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán
trung, dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các loại chứng
khoán khác) có tổ chức, theo pháp luật quy định [ 56, tr10].
Còn theo Ts. Trần Thị Minh Châu, trong cuốn sách nghiên cứu về thị
trường chứng khoán với điều kiện thực tiễn của Việt nam, xuất bản năm 2003 “
Thị trường chứng khoán và những điều kiện kinh tế – xã hội hình thành và phát
triển thị trường chứng khoán ở Việt nam ” thì cho rằng: Thị trường chứng

13


khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, trong đó chuyên môn hoá giao
dịch một số loại hàng hoá đặc biệt như cổ phiếu, trái phiếu dài hạn, kể cả các
công cụ tài chính phái sinh từ cổ phiếu, trái phiếu, theo những phương thức có
tổ chức như giao dịch qua sở giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán , giao
dịch trực tiếp và qua mạng [34, tr 10]. Quan điểm này về thị trường chứng
khoán được tác giả đưa ra trên cơ sở nghiên cứu thị trường tài chính nói chung
và vị trí, mối quan hệ của thị trường chứng khoán và thị trường tài chính.
Như vậy, các quan điểm nêu trên về thị trường chứng khoán tuy có một số

điểm khác nhau, song nhìn chung không có sự khác biệt cơ bản.
Quan điểm chung được thừa nhận rộng rãi nhất và phản ánh đúng nội
dung hoạt động của thị trường chứng khoán là: Thị trường chứng khoán là nơi
diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Đây cũng là quan
điểm của Gs Lê Văn Tư - một trong những chuyên gia hàng đầu về chứng khoán
và thị trường chứng khoán hiện nay [54, tr 12].
Chứng khoán ( là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và
lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ
chức phát hành) được giao dịch trên thị trường chứng khoán là chứng khoán
được phát hành hợp pháp.
Dựa trên hình thức tổ chức của thị trường, thị trường chứng khoán bao
gồm thị trường giao dịch tập trung ( nơi mua bán, trao đổi các loại chứng khoán
đủ tiêu chuẩn niêm yết tại các Trung tâm, Sở giao dịch chứng khoán) và thị
trường giao dịch phi tập trung ( thị trường OTC – là thị trường giao dịch các loại
chứng khoán không đủ điều kiện niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán và thị
trường này không có địa điểm giao dịch chính thức). Khi tham gia vào thị
trường, các chủ thể phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy tắc giao dịch đã được
ấn định trước nhằm đảm bảo sự trật tự và an toàn cho thị trường. Các quy tắc đó
xuất phát là từ các thông lệ do các thương gia thoả thuận đặt ra để điều hành thị

14


trường khi thị trường chứng khoán mới ra đời, sau đó phần nhiều đã được Nhà
nước thừa nhận dưới hình thức các quy phạm pháp luật.
Việc mua bán, trao đổi các loại chứng khoán làm thay đổi chủ sở hữu của
chứng khoán. Đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở
hữu sang tư bản kinh doanh. Đối tượng giao dịch trên thị trường chứng khoán là
loại hàng hoá đặc biệt, đó là quyền sở hữu về tài sản, khác biệt với các thị trường
hàng hoá thông thường. Bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường biểu

hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng
khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư.
Thị trường chứng khoán là một thể chế tài chính cấp cao, là thị trường
giao dịch các công cụ tài chính trung và dài hạn. Đặc trưng của thị trường chứng
khoán là tính tự do và xã hội hoá rất cao với sự tham gia của nhiều chủ thể bao
gồm các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán
của Việt nam cũng như trong Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán của
các nước có nêu khái niệm chứng khoán nhưng không nêu khái niệm cụ thể về
thị trường chứng khoán. Trong Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003
của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán chỉ quy định về giao
dịch chứng khoán và thị trường giao dịch tập trung. Theo đó, thị trường giao
dịch tập trung được hiểu là địa điểm hoặc hệ thống thông tin, tại đó các chứng
khoán được mua, bán hoặc là nơi tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng
khoán.
1.1.2 Các chủ thể trên thị trƣờng chứng khoán

1.1.2.1 Tổ chức phát hành:
Tổ chức phát hành là tổ chức đã đăng ký phát hành chứng khoán ra công
chúng ( phát hành chứng khoán ra công chúng là việc chào bán một đợt chứng
khoán có thể chuyển nhượng được thông qua tổ chức trung gian cho ít nhất 50

15


nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành) theo các thủ tục và điều kiện pháp luật quy
định ( khoản 6, Điều 3 Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về
chứng khoán và thị trường chứng khoán ). Như vậy, tổ chức phát hành là người
cung cấp chứng khoán (hàng hoá) cho thị trường chứng khoán .
Chứng khoán được phép phát hành bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng

chỉ quỹ đầu tư, các loại chứng khoán khác. Khi phát hành chứng khoán, tổ chức
phát hành phải tuân thủ các điều kiện phát hành đối với mỗi loại chứng khoán và
việc phát hành đó phải được đăng ký với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo
quy định hiện nay, các tổ chức phát hành có thể phân nhóm bao gồm:
* Chính phủ: Là tổ chức phát hành các loại chứng khoán gồm: Trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu công trình, tín phiếu kho bạc.
* Các doanh nghiệp: Công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước cổ phần
hoá là tổ chức được phép phát hành cả trái phiếu và cổ phiếu; Doanh nghiệp
Nhà nước, các Công ty TNHH được phép phát hành trái phiếu; Các loại hình
doanh nghiệp khác (Hợp tác xã, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) không
được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào ra thị trường.
* Các quỹ đầu tư : là tổ chức vừa phát hành ra các loại chứng khoán là
chứng chỉ quỹ đầu tư , cổ phiếu vừa là tổ chức đầu tư , kinh doanh các loại
chứng khoán.
Sau khi phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức có chứng khoán đã
phát hành muốn niêm yết chứng khoán để giao dịch tại thị trường giao dịch tập
trung thì phải đăng ký và phải được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy
phép. Mỗi loại chứng khoán chỉ được niêm yết tại một Trung tâm giao dịch
chứng khoán.
Hiện tại, số lượng các tổ chức phát hành chứng khoán đủ điều kiện niêm
yết, giao dịch trên thị trường tập trung còn rất hạn chế, dẫn đến lượng cung hàng

16


hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam còn sơ sài, chưa tạo được sự sôi động
trên thị trường.
Trước mắt cũng như về lâu dài, các công ty cổ phần từ chương trình cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ, các Ngân hàng thương mại, một
số quỹ đầu tư sẽ là những chủ thể phát hành chứng khoán chủ yếu cung cấp cho

thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.1.2.2 Các nhà đầu tư
Nhà đầu tư được hiểu là những người sở hữu chứng khoán, người mua
hoặc dự kiến mua chứng khoán cho mình. Khi tham gia vào thị trường chứng
khoán, các nhà đầu tư với khả năng về vốn của mình thực hiện việc mua bán,
trao đổi chứng khoán trên thị trường chứng khoán với mục đích lớn nhất là nhằm
tìm kiếm lợi nhuận.
Nhà đầu tư bao gồm các nhà đầu tư cá nhân, các nhà đầu tư có tổ chức:
- Nhà đầu tư cá nhân: là các cá nhân có vốn, trên cơ sở nắm bắt thông tin
thị trường một cách trực tiếp hoặc thông qua các nhà tư vấn, thực hiện các giao
dịch mua bán, sở hữu chứng khoán. Nhà đầu tư cá nhân bao gồm các nhà đầu tư
cá nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài.
Thực tế hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam trong 03 năm qua
cho thấy, do đặc điểm của một thị trường mới ra đời, các nhà đầu tư cá nhân
chiếm tỷ trọng lớn trong số các nhà đầu tư (tính đến ngày 30/6/2003 có hơn
14.500 tài khoản giao dịch thì tuyệt đại đa số là tài khoản của nhà đầu tư cá
nhân) . Tuy nhiên, các nhà đầu tư là nhà đầu tư cá nhân ít vốn, tham gia thị
trường mang tính thăm dò, khi thị trường có dấu hiệu bất ổn thì rút vốn.
- Nhà đầu tư có tổ chức: là các tổ chức kinh tế, tài chính như các ngân
hàng thương mại, các công ty bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm, quỹ tương hỗ … Các
tổ chức này tham gia thị trường và hoạt động đầu tư chứng khoán được coi là
một phần trong những hoạt động đầu tư tài chính mà tổ chức được phép thực

17


hiện. Việc đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư có tổ chức rất đa dạng về danh
mục đầu tư và có tính chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm. Hiện nay, do thị
trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời, hơn nữa hành lang pháp lý chưa rõ
ràng nên số lượng các nhà đầu tư có tổ chức tham gia còn quá ít, đặc biệt là sự

thiếu vắng các nhà đầu tư chứng khoán là các quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí. Theo
thống kê, tính tới tháng 6/2003, trong số 14.500 tài khoản giao dịch, mới có 90
nhà đầu tư là các nhà đầu tư có tổ chức [20].
1.1.2.3 Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước:
Thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng và sự hoạt động của nó có
ảnh hưởng, tác động rất lớn đến nền kinh tế nói chung. Do vậy việc quản lý,
giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động phát hành và kinh doanh chứng
khoán là cần thiết. Từ nhận thức đó, tại các nước có thị trường chứng khoán hoạt
động đều thành lập một cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Cơ quan quản lý
Nhà nước về chứng khoán ở các nước thông thường là một Uỷ ban, có thể là cơ
quan thuộc Chính phủ như ở Anh (Uỷ ban đầu tư chứng khoán), Nhật bản (Uỷ
ban giám sát chứng khoán và giao dịch chứng khoán ), Hoa kỳ (Uỷ ban chứng
khoán và giao dịch chứng khoán ) …. hoặc thuộc một bộ thuộc lĩnh vự tài chính
như ở Hàn Quốc là Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán thuộc Bộ
Kinh tế – Tài chính….
Tuy cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán ở các nước
khác nhau có thể có tên gọi khác nhau, song đều có mục đích quản lý nhằm đảm
bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền
vững, vì lợi ích của các nhà đầu tư, lợi ích quốc gia…

18


Trên cơ sở học tập và vận dụng vào điều kiện thực tế, Việt nam đã thành
lập cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán là Uỷ
ban chứng khoán Nhà nước (Thành lập theo Nghị định số 75/CP/1996 của Chính
phủ ngày 28/11/1996, sau được thay thế bởi Nghị định số 90/2003 NĐ-CP ngày
12/8/2003). Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là một cơ quan thuộc Chính phủ,

thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt
Nam.
- Sở giao dịch chứng khoán - Trung tâm giao dịch chứng khoán:
Thị trường giao dịch tập trung được tổ chức dưới hình thức Trung tâm
giao dịch chứng khoán hoặc Sở giao dịch chứng khoán. Trên cơ sở điều kiện
thực tế, Việt Nam chủ trương xây dựng thị trường chứng khoán theo mô hình tổ
chức từ Trung tâm giao dịch chứng khoán lên Sở giao dịch chứng khoán. Điều
này là phù hợp với thực tiễn Việt Nam khi thị trường chứng khoán còn nhỏ bé và
trong giai đoạn vận hành ban đầu.
Ngày 11/7/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
127/1998/QĐ-TTg thành lập các trung tâm giao dịch chứng khoán tại Tp Hồ Chí
Minh và Hà nội. Tuy nhiên, cho đến nay mới có Trung tâm giao dịch chứng
khoán Tp Hồ Chí Minh đi vào hoạt động ( từ tháng 7/ 2000 ).
Tại khoản 1 điều 61, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về
chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định về Trung tâm giao dịch chứng
khoán: là đơn vị sự gnhiệp có thu, trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, có
tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng; kinh phí hoạt động của
Trung tâm giao dịch chứng khoán do ngân sách Nhà nước cấp. Đồng thời, điều
64 Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 cũng đã quy định về Sở giao
dịch chứng khoán: là một pháp nhân tự chủ về tài chính, chịu sự giám sát và
quản lý của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.

19


Trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán có chức năng
quản lý, điều hành và giám sát cũng như cung cấp các dịch vụ liên quan đến các
hoạt động mua bán chứng khoán tại Trung tâm. Trung tâm giao dịch chứng
khoán, sở giao dịch chứng khoán có các thành viên đăng ký là các công ty
chứng khoán có giấy phép hoạt động môi giới, tự doanh. Chỉ có các thành viên

Trung tâm giao dịch chứng khoán mới được mua bán chứng khoán qua hệ thống
giao dịch tại Trung tâm và sở mà không được mua, bán chứng khoán bên ngoài.
Qua hơn 3 năm hoạt động, Trung tâm này đã thực hiện tốt các nhiệm vụ
được giao và là trung tâm thu hút sự quan tâm của các nhà phát hành chứng
khoán, các nhà đầu tư và xã hội đối với tình hình phát triển của thị trường chứng
khoán Việt nam.
- Công ty chứng khoán:
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Căn cứ theo các điều từ điều 65 đến điều
75 Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị
trường chứng khoán; Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998 và
Quyết định số 78/2000/QĐ-UBCK ngày 29/12/2000 về việc ban hành Quy chế
về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán thì Công ty chứng khoán được
hiểu là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập hợp
pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt
động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán và chịu sự giám sát, quản lý chặt chẽ của
cơ quan đó cũng như của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Hoạt động của công
ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất
và thương mại thông thường. Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói
riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát

20


hành tới người đầu tư và có tính thanh khoản, qua đó huy động được các nguồn
vốn trong xã hội phục vụ cho phát triển kinh tế.
- Các tổ chức lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán:
Đây là các ngân hàng thương mại Việt Nam, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam, các công ty chứng khoán ( chỉ các công ty chứng

khoán có giấy phép hoạt động môi giới hoặc tự doanh ) đáp ứng đủ các điều kiện
và được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động lưu ký để tham
gia lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán tại Trung tâm Giao dịch
chứng khoán. Các thành viên lưu ký này đóng vai trò quan trọng giúp các hoạt
động mua, bán chứng khoán, kiểm soát chứng khoán, các nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán được thực hiện, đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an
toàn và tiện lợi.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán:
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là hình thức tự quản của các
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các ngân hàng lưu ký với chức
năng cơ bản là bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo cho thị trường
phát triển ổn định. Tại các nước như Hoa kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc ... Hiệp hội
các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tập hợp hàng trăm thành viên và có
vai trò rất quan trọng trong các hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, trong Chiến lược phát triển thị
trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 đã xác định: Đẩy mạnh hoạt động
và tăng cường vai trò của Hiệp hội ngành chứng khoán trong việc hỗ trợ cơ quan
quản lý nhà nước trên các phương diện đào tạo, xây dựng khuôn khổ pháp lý,
giám sát tuân thủ pháp luật của các thành viên tham gia thị trường, phát triển thị
trường. Tuy vậy, cho đến nay, mặc dù thị trường chứng khoán đã hoạt động
được 03 năm và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Việt Nam đã có

21


Quyết định thành lập, song thực tế Hiệp hội vẫn chưa triển khai được các hoạt
động của mình nhằm trợ giúp cho sự phát triển của thị trường.
- Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm:
Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên cung cấp dịch
vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm

lực tài chính của tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ
chức phát hành đối với mỗi đợt phát hành cụ thể. Một thị trường chứng khoán
muốn hoạt động lành mạnh, an toàn cho các nhà đầu tư thì không thể thiếu các
công ty cung cấp dịch vụ này.
Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa xuất hiện các công ty
đánh giá hệ số tín nhiệm, nhưng theo yêu cầu và kế hoạch phát triển thị trường
chứng khoán của UBCKNN thì các công ty này sẽ được khuyến khích thành lập
trong thời gian tới đây.
1.1.3 Vai trò của thị trƣờng chứng khoán
1.1.3.1 Thị trường chứng khoán là sợi dây nối liền giữa người cung cấp vốn
và người cần vốn.
Khác với các loại thị trường khác, tại thị trường chứng khoán người phát
hành chứng khoán hoặc cơ quan tài chính rất khó giao dịch trực tiếp với đông
đảo người đầu tư chứng khoán. Để thực hiện được việc mua bán chứng khoán,
cần phải thông qua môi trường và cơ cấu nhất định, đó là trung tâm giao dịch
chứng khoán và người môi giới chứng khoán. Nhiệm vụ của người môi giới
chứng khoán là căn cứ vào yêu cầu của hai bên mua và bán, đứng trung gian tạo
thành thoả thuận giao dịch. Trong giao dịch chứng khoán áp dụng phương thức
thoả thuận công khai giá cả, đấu giá, cạnh tranh lẫn nhau. Thị trường chứng
khoán tạo ra những cơ hội cho cung và cầu được đáp ứng, đảm bảo lợi ích của cả
hai bên mua và bán.

22


1.1.3.2 Tác động luân chuyển vốn đầu tư
Thị trường chứng khoán có thể huy động và luân chuyển một lượ ng vốn
đầu tư lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, nó có thể
chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Việc huy động
vốn trên thị trường chứng khoán giúp làm tăng vốn đầu tư của các doanh nghiệp,

giúp họ tránh được các khoản vay có chi phí cao.
Người phát hành chứng khoán thông qua việc phát hành chứng khoán ra
công chúng để tập trung vốn, nếu một nhà đầu tư không thể hoặc không muốn
tiếp tục sở hữu chứng khoán của tổ chức phát hành thì có thể chuyển nhượng
chứng khoán đó để thu hồi vốn đầu tư thông qua thị trường chứng khoán. Sự
chuyển nhượng đó sẽ không ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động và năng lực tài
chính của tổ chức phát hành.
1.1.3.3 Thị trường chứng khoán là động lực thúc đẩy năng lực quản lý kin h
doanh:
Khi quyết định đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư bao giờ cũng cân nhắc
, lựa chọn nên đầu tư vào chứng khoán của tổ chức phát hành nào để có thể thu
lợi cao nhất. Vì thế, tất yếu là họ sẽ tập trung vào các tổ chức phát hành đang
hoặc sẽ có triển vọng hiệu quả kinh tế cao, tạo cho các tổ chức đó có một nguồn
vốn tập trung phát triển. Ngược lại, đối với các tổ chức phát hành yếu kém, hiệu
quả kinh tế thấp thì không thể tập trung huy động được vốn, thậm chí bị các nhà
đầu tư chuyển vốn đến các tổ chức lành mạnh hơn. Trong sự cạnh tranh đó, tính
tất yếu là các tổ chức phát hành chứng khoán phải không ngừng nâng cao năng
lực quản lý, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư được tiếp nhận.
1.1.3.4 Cung cấp thông tin kinh tế:
Thị trường chứng khoán là nơi quan trọng truyền tin tức kinh tế, cung cấp
dự báo về các chu kỳ và khả năng kinh doanh. Trong quá trình hoạt động của thị

23


trường chứng khoán, các chỉ số giao dịch luôn có sự biến động, lúc phản ảnh sự
tích cực, lúc phản ánh sự tiêu cực, do đó đòi hỏi sự nắm bắt các thông tin kinh tế
– xã hội, các sự kiện nhạy cảm khác phải kịp thời, chính xác. Thực tế hoạt động
của thị trường chứng khoán các nước cho thấy, việc thay đổi giá chứng khoán có
xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh, cho phép Nhà nước cũng như các công ty

có thể có kế hoạch đầu tư hoặc phân bổ các nguồn vốn đầu tư.
Ngoài các tác động tích cực nêu trên, thị trường chứng khoán còn có
những tác động tiêu cực nhất định đối với nền kinh tế, xã hội. Thị trường chứng
khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo, song ở các thị trưòng mới nổi,
thông tin được cung cấp đến các nhà đầu tư không phản ánh được hết tình hình
thực tế. Việc quyết định giá cả, việc mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư
không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin, do đó, giá cả chứng khoán
không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của tổ chức phát hành, không trở thành cơ
sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn vốn, các nguồn lực.
Một số tiêu cực khác của thị trường chứng khoán như hiện tượng đầu cơ,
tạo ra sự khan hiếm giả một loại chứng khoán nhất định trên thị trường giao dịch,
hoặc hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại quyền lợi của các cổ đông
thiểu số, việc mua bán thông tin nội bộ, hiện tượng tung tin thất thiệt, thao túng
thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư . Nhiệm vụ của các nhà quản lý thị
trường là giảm thiểu các tiêu cực của thị trường nhằm bảo đảm quyền lợi của các
nhà đầu tư và đảm bảo tính hiệu quả của thị trường đối với nền kinh tế.
Vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau, song vai trò tiêu cực hay tích cực của thị trường có thực sự được phát huy
hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường, sự quản lý
của các cơ quan Nhà nước hữu quan.

24


1.1.3.5 Thúc đẩy cạnh tranh quốc tế:
Việc mở cửa thị trường chứng khoán cho các nhà đầu tư nước ngoài đã
thúc đẩy năng lực cạnh tranh trên thị trường chứng khoán. Điều này cho phép
các công ty có thể huy động các nguồn vốn đầu tư rẻ hơn, nhiều hơn, tạo ra
những cơ hội kinh doanh cho các công ty trong nước trên thị trường quốc tế.
1.1.3.6 Thông qua thị trường chứng khoán, Nhà nước có thể kiểm soát và điều

tiết được nền tài chính quốc gia:
Trên cơ sở căn cứ vào tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán ,
những biến động của chứng khoán giao dịch mà Nhà nước có những chính sách
điều tiết cho phù hợp như mở rộng hay thắt chặt các nguồn vốn đầu tư vào chứng
khoán , kiểm soát việc cho vay … Mặt khác, thông qua thị trường chứng khoán,
Nhà nước huy động các nguồn vốn tài chính như phát hành trái phiếu .. mà
không tạo áp lực về lạm phát.
1.2 Vấn đề thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài thông qua thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam
1.2.1 Khái niệm thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài qua thị trƣờng chứng khoán
Khi xem xét về huy động các nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn bên ngoài
phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội, thì hiện tại, đối với Việt Nam, các
nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) đang được đánh
giá cao và chiếm vị trí chủ yếu.
Tính đến hết năm 2002, đã có trên 3000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký đạt trên 36 tỷ USD. Khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế và đã
đóng góp rất quan trọng vào vào sự phát triển kinh tế xã hội. Vốn FDI giai đoạn
1996-2000 chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp 10% GDP và 7%
nguồn thu ngân sách (nếu tính cả dầu khí thì tỷ lệ này đạt 20%) [ 52, tr 199].

25


×