Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 91 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH TUYT MAI

HON THIN PHP LUT U I X HI
VIT NAM

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hữu Chí

Hµ néi - 2009



MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Ch-¬ng 1: Mét sè vÊn ®Ò lý luËn chung vÒ ph¸p luËt

1
4

-u ®·i x· héi

1.1.
1.1.1..
1.1.2.
1.2.
1.3.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.
1.4.3.
1.4.4.
1.4.5.

Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội
Định nghĩa pháp luật ưu đãi xã hội
Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của pháp luật ưu đãi xã hội

Các nguyên tắc của pháp luật ưu đãi xã hội
Vai trò, ý nghĩa của pháp luật ưu đãi xã hội
Lược sử phát triển của pháp luật ưu đãi xã hội (từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945 đến nay)
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám-1945 đến năm 1954
Giai đoạn từ 1954 đến 1975
Giai đoạn từ 1975 đến 1985
Giai đoạn từ 1986 đến 1994
Giai đoạn từ 1995 đến nay
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ƢU ĐÃI XÃ HỘI Ở VIỆT

4
4
9
10
15
18
19
20
23
24
25
28

NAM VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG

2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.

2.1.4.
2.1.5.
2.1.6.
2.1.7.
2.1.8.
2.1.9.
2.1.10.
2.1.11.
2.2.
2.2.1.
2.2.1.1.
2.2.1.2.
2.2.1.3.
2.2.1.4.
2.2.1.5.
2.2.1.6.
2.2.1.7.
2.2.1.8.
2.2.1.9.
2.2.1.10.

Đối tượng được hưởng ưu đãi xã hội
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945
Người hoạt động cách mạng từ 01/01/1945 đến trước Tổng khởi
nghĩa 19 tháng Tám năm 1945
Liệt sĩ
Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động
Thương binh, người được hưởng chính sách như thương binh
Bệnh binh

Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt
tù, đày
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc và làm nghĩa vụ quốc tế
Các chế độ ưu đãi xã hội
Các chế độ ưu đãi xã hội
Chế độ ưu đãi trợ cấp
Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng trước ngày
01 tháng 01 năm 1945 và thân nhân của họ
Đối với người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945
đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945 và thân nhân của họ
Chế độ ưu đãi đối với liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ
Chế độ đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Chế độ đối với Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động
Chế độ đối với thương binh, người hưởng chính sách như
thương binh, thương binh loại B (gọi chung là thương binh)
Chế độ đối với bệnh binh
Chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc
hóa học
Chế độ đối với người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động
kháng chiến bị địch bắt, tù đày
Chế độ đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc,

1

29
29
29
29

31
31
32
33
34
35
35
36
36
37
38
39
40
41
41
42
43
45
45
46


2.2.1.11.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.


bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế
Chế độ đối với người có công giúp đỡ cách mạng
Chế độ chăm sóc sức khỏe
Chế độ đảm bảo về việc làm
Chế độ ưu đãi về giáo dục - đào tạo
Các chế độ khác
Thực trạng áp dụng pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam hiện
nay
Những thành tựu, kết quả đạt được
Những hạn chế và tồn tại
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP

46
47
48
50
51
52
52
55
60

LUẬT ƢU ĐÃI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.1.4.


3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội
Pháp luật ưu đãi xã hội phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội của đất nước
Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính toàn diện
Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính thực tiễn
Xã hội hóa hoạt động ưu đãi xã hội, thiết lập mối quan hệ chặt
chẽ giữa ba chủ thể Nhà nước, đối tượng được hưởng ưu đãi và
cộng đồng, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội
Về đối tượng hưởng ưu đãi xã hội
Về các chế độ trợ cấp ưu đãi
Hoàn thiện cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật ưu đãi xã hội
Về việc xây dựng pháp luật ưu đãi xã hội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

60
60
63
64

65

67
67
69
72
73
80
82


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước chúng ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài
với rất nhiều sự hy sinh và mất mát. Ở bất kỳ thời kỳ nào những người có
công đều được kính trọng, được hưởng những chính sách ưu đãi từ phía Nhà
nước, các tổ chức và cộng đồng xã hội.
Trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam thì ưu đãi xã hội chiếm
một vị trí rất quan trọng. Ưu đãi xã hội đó là minh chứng cho truyền thống
"Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" của dân tộc ta, là tình cảm và là sự biết ơn của thế
hệ đi sau đối với những người đã hy sinh xương máu vì độc lập tự do của Tổ
quốc. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi xã hội sẽ tạo ra không những cho người
thuộc đối tượng chính sách mà còn là những đối tượng khác niềm tin vào một
xã hội tốt đẹp, vào sự công bằng của đất nước, là sự động viên, khích lệ họ
cống hiến, hy sinh cho đất nước...
Từ sau khi giành được chính quyền cho đến nay, Nhà nước ta đã ban
hành một loạt hệ thống các văn bản pháp luật để điều chỉnh vấn đề này. Các
văn bản pháp luật qua từng giai đoạn, từng thời kỳ đã được sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với thực tiễn.

Những năm gần đây, nền kinh tế của đất nước ta đã có sự tăng trưởng
vượt bậc, đời sống của người dân được nâng cao và từ đó những chính sách
dành cho người có công có những bước tiến đáng kể, góp phần làm ổn định
đời sống cho các đối tượng chính sách, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Tuy nhiên, pháp luật về ưu đãi xã hội hiện nay còn một số mặt hạn chế.
Có thể thấy như mức trợ cấp còn thấp so với tốc độ gia tăng giá cả của đời sống

3


xã hội đã dẫn đến tình trạng đời sống của nhiều người, nhiều gia đình chính sách
chưa được bảo đảm. Thủ tục để được công nhận là đối tượng chính sách (liệt sĩ,
thương binh...) nhìn chung là đầy đủ, khá đơn giản nhưng lại không linh hoạt;
thực tiễn tồn tại rất nhiều trường hợp do thời gian hay những lý do khác đã
không đáp ứng được những yêu cầu về mặt thủ tục, giấy tờ mà pháp luật yêu cầu
nên đã không được công nhận là đối tượng chính sách để được hưởng ưu đãi
xã hội...
Nhằm mục đích tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề lý luận về ưu đãi
xã hội, thông qua thực tiễn để tìm ra những hạn chế của pháp luật ưu đãi xã
hội, từ đó hoàn thiện hơn nữa pháp luật về ưu đãi xã hội. Đó chính là lý do mà
tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về
pháp luật ưu đãi xã hội. Trong nội dung của đề tài, tác giả sẽ đưa ra những nhận
xét, đánh giá thực tiễn cũng như những hạn chế của pháp luật ưu đãi xã hội từ
đó nêu lên những kiến nghị có thể được áp dụng để hoàn thiện hơn pháp luật
về ưu đãi xã hội, góp phần nâng cao đời sống, đảm bảo công bằng cho các đối
tượng được hưởng ưu đãi xã hội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu chính là những vấn đề thực tiễn

cũng như lý luận về pháp luật ưu đãi xã hội, phân tích và tìm ra những tồn tại
của pháp luật ưu đãi xã hội từ đó đưa ra những cách thức hoàn thiện các quy
phạm pháp luật ưu đãi xã hội.
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những quy phạm pháp luật về chính
sách đối với người có công trong giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

4


Luận văn được viết dựa trên sự tổng hợp các phương pháp nghiên cứu,
trong đó tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính như phương
pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh…
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề lý luận cơ
bản về pháp luật ưu đãi xã hội.
Đưa ra khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội. Phân tích vai trò, ý nghĩa
cũng như những nguyên tắc điều chỉnh xuyên suốt pháp luật ưu đãi xã hội.
Phân tích thực trạng pháp luật ưu đãi xã hội, đưa ra những kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội.
Đưa ra những vấn đề cơ bản cũng như mô hình để xây dựng pháp luật
ưu đãi xã hội ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật ưu đãi xã hội.
Chương 2: Quy định pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam và thực trạng
áp dụng.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội
ở Việt Nam.


5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÁP LUẬT ƢU ĐÃI XÃ HỘI

1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT ƢU ĐÃI XÃ HỘI

1.1.1. Định nghĩa pháp luật ƣu đãi xã hội
Ở bất kỳ thời kỳ nào của một quốc gia, một dân tộc đều có những con
người cống hiến hết mình cho hòa bình, ổn định và sự phát triển bền vững của
đất nước. Những sự cống hiến đó đều được Nhà nước và xã hội ghi nhận, tôn
vinh và biết ơn thông qua những ưu đãi về cả vật chất lẫn tinh thần mà Nhà
nước, xã hội dành cho họ.
Trải qua hơn 4000 năm dựng và giữ nước, với các chế độ chính trị xã
hội khác nhau, với những quan niệm về con người, xã hội, chính trị… khác
nhau, nhưng có thể khẳng định dù ở bất kỳ thời kỳ nào, giai đoạn lịch sử nào,
chế độ nào của đất nước thì những người có công với đất nước đều được suy
tôn và chính quyền luôn có chính sách ưu đãi đối với họ. Ở mỗi thời kỳ khác
nhau, chế độ khác nhau thì chính sách đối với người có công cũng khác nhau.
Nhưng suy cho cùng thì chính sách ưu đãi đối với người có công là sự ghi
nhận những công lao của họ cho đất nước, là những chế độ đãi ngộ về vật
chất và tinh thần, là sự bày tỏ lòng biết ơn đến những người đã hy sinh, đã
cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Với đặc điểm lịch sử của dân tộc Việt Nam, lịch sử của những cuộc
đấu tranh giành và giữ nước nên những người có công là một bộ phận lớn
những người đã hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đó là
những Bà mẹ Việt Nam anh hùng, những thương binh, liệt sĩ, người có công

giúp đỡ cách mạng,… Họ là những người có công với cách mạng, với đất

6


nước, được Nhà nước và nhân dân ghi nhận, biết ơn sâu sắc. Do vậy, ưu đãi
xã hội xét ở một góc độ nào đó chính là những ưu đãi đối với người có công
với cách mạng (pháp luật ưu đãi xã hội Việt Nam hiện nay chỉ quy định về
đối tượng này).
Tuy nhiên, những người có công với đất nước không chỉ bao gồm
những người có công với cách mạng, những người đã xả thân vì sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc, vì độc lập dân tộc. Bên cạnh đó còn một bộ phận những
người đã cống hiến, hy sinh hết sức mình để bảo vệ, xây dựng và giữ vững đất
nước không phải chỉ trong thời chiến mà cả trong thời bình, họ đã đem lại
những thành tích, sự vinh quang cho đất nước, góp phần vào sự phát triển của
đất nước cũng như khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế… Vì
thế, đối tượng người có công được hưởng ưu đãi xã hội không chỉ bó hẹp
trong phạm vi những người có công với cách mạng mà còn được hiểu theo
nghĩa rộng, đó là những người đã cống hiến sức lực, năng lực, trí tuệ và mạng
sống của mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước mà không
có bất kỳ sự đòi hỏi, yêu cầu bù đắp nào. Họ là những người có thành tích
xuất sắc bảo vệ cho sự bình an của xã hội, làm rạng danh đất nước, cống hiến,
hy sinh vì lợi ích của đất nước, của dân tộc, được sự công nhận của pháp luật
mà không có sự phân biệt tôn giáo, dân tộc, tín ngưỡng, tuổi tác, giới tính,
nghề nghiệp…, như Nhà giáo nhân dân, Nghệ sĩ nhân dân, Thầy thuốc ưu tú,
Nhà kinh tế, Nhà khoa học có đóng góp xuất sắc…
Lịch sử đã chứng minh, dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng.
Gần một thập kỷ qua dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhân dân ta đã đồng lòng quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập tự do"; "Thà hy sinh tất cả

chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Với quyết tâm ấy, dân tộc
Việt Nam đã giành được thắng lợi trước kẻ thù xâm lược. Để có được thắng
lợi to lớn ấy, hàng triệu đồng bào, chiến sĩ ta đã vượt qua bao gian lao, vất vả,

7


hàng triệu người đã hy sinh, bị thương, hay bệnh tật, không biết bao nhiêu
người đã mất đi người thân, những hậu quả to lớn, những dấu ấn tàn khốc của
chiến tranh vẫn còn in đậm trong tâm trí bao thế hệ người Việt Nam. Khi
chiến tranh đã đi qua, những đối tượng này và cả người thân của họ đã gặp
không ít khó khăn trong cuộc sống. Sức khỏe của họ đã bị suy giảm, tuổi tác
cũng gây ra khó khăn không kém, những di chứng của chiến tranh làm cho họ
khó có thể phấn đấu, học tập, rèn luyện, làm việc để có thể thích nghi với
cuộc sống đang ngày phát triển. Hơn nữa, họ không có điều kiện để chăm lo
cho gia đình, con cái, người thân của họ bị thiệt thòi, cuộc sống gia đình bị
ảnh hưởng. Họ là những đối tượng cần tới sự trợ giúp của Nhà nước, sự giúp
đỡ của xã hội. Những hy sinh, mất mát, cống hiến, công lao của họ cũng như
thân nhân của họ xứng đáng được Nhà nước, xã hội ghi nhận và trợ giúp.
Vì vậy, "ưu đãi xã hội được hiểu là sự đãi ngộ của Nhà nước, cộng
đồng và toàn xã hội về đời sống vật chất cũng như tinh thần đối với người có
công và gia đình họ" [31, tr. 263].
Chính sách ưu đãi xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
ta. Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, kế hoạch phát triển, tình hình kinh tế chính trị - xã hội ở mỗi thời kỳ mà Đảng, Nhà nước đưa ra những chính sách
ưu đãi khác nhau đối với người có công để ghi nhận những đóng góp, công
lao to lớn của người có công; thể hiện sự quan tâm, biết ơn của Đảng, Nhà
nước và nhân dân đối với sự hy sinh, cống hiến của họ cho đất nước; bù đắp
một phần nào đó cho họ về đời sống vật chất cũng như tinh thần. Ngay từ
những ngày đầu giành được chính quyền (năm 1945), tuy còn nhiều khó khăn,
phải đương đầu với thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược nhưng Đảng và Nhà

nước ta vẫn rất chú trọng đến công tác xây dựng cũng như thực hiện chính
sách này. Chính sách ưu đãi đối với người có công là một chính sách đặc biệt
giành cho những đối tượng đặc biệt. Vì thế, Nhà nước với vai trò và chức
năng của mình, sử dụng các biện pháp khác nhau để xây dựng và triển khai

8


đưa các chính sách ưu đãi đối với người có công vào cuộc sống. Không những
vậy, Đảng và Nhà nước còn vận động, kêu gọi và khuyến khích mọi người
dân, các tổ chức tham gia các phong trào thiết thực nhằm mục đích thực hiện
tốt nhất chính sách ưu đãi đối với người có công.
Thực hiện tốt chính sách đối với người có công là việc làm có ý nghĩa
quan trọng, nó không chỉ giúp ổn định đời sống của các đối tượng đặc biệt
này, giúp họ hòa nhập với cộng đồng mà còn góp phần vào sự ổn định và phát
triển của xã hội. Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công
không chỉ thể hiện trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà còn thể hiện sự biết
ơn đối với những cống hiến của họ, hơn nữa nó còn góp phần giáo dục thế hệ
đi sau nhận thức được trách nhiệm của mình, tiếp tục phát huy hơn nữa tinh
thần xả thân vì đất nước, lòng dũng cảm, những thành quả mà thế hệ cha anh
đã ra sức bảo vệ, vun đắp nên. Do đó, chính sách ưu đãi xã hội đối với người
có công mang tính nhân văn sâu sắc, nó góp phần tạo ra môi trường lành
mạnh, nâng cao ý thức trách nhiệm cho mỗi công dân trong xã hội.
Ở Việt Nam chính sách ưu đãi xã hội là một bộ phận quan trọng của
chính sách an sinh xã hội. Chính sách an sinh xã hội là sự bảo vệ của Nhà
nước, xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các chính sách và
chương trình cụ thể nhằm giúp cho họ có cuộc sống ổn định, phát triển lành
mạnh. Hệ thống chính sách an sinh xã hội của nước ta chủ yếu điều chỉnh ba
nhóm quan hệ chủ yếu là bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
Trong đó, chính sách bảo hiểm xã hội nhằm mục đích bảo vệ cho người lao

động ở mọi thành phần kinh tế khi họ gặp phải những rủi ro không may trong
quá trình lao động làm cho khả năng lao động của họ bị giảm sút, hay trong
trường hợp người lao động già yếu không có khả năng lao động. Chính sách
cứu trợ xã hội là sự trợ giúp của Nhà nước đối với các thành viên của xã hội
khi họ bị rơi vào hoàn cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, khó khăn, hiểm
nghèo… nhằm giúp họ tồn tại, ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng.

9


Còn chính sách ưu đãi xã hội như đã phân tích ở trên chính là chính sách ưu
đãi người có công. Tuy nhiên, khác với các chính sách còn lại trong hệ thống
an sinh xã hội thì chính sách ưu đãi xã hội không chỉ là sự bảo vệ, trợ giúp
của Nhà nước mà nó còn là nghĩa vụ, là trách nhiệm của Nhà nước, của cộng
đồng đối với người có công, thể hiện sự biết ơn sâu sắc đến họ. Vì thế, chính
sách ưu đãi xã hội có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã
hội. Đó không chỉ là vấn đề truyền thống, đạo lý mà còn là vấn đề chính trị,
giáo dục, là vấn đề kinh tế, xã hội có ý nghĩa lâu dài.
Để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, Nhà nước đặt ra pháp luật, quy
định những quy tắc xử sự chung nhất cho các mối quan hệ xã hội và đảm bảo việc
thực thi bằng những biện pháp thuyết phục, cưỡng chế của mình. "Pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và đảm bảo
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh
các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội" [22, tr. 226].
Pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể chế hóa các chính sách ưu đãi của
Đảng, Nhà nước đối với người có công, các quyền ưu đãi của người có công
và những đảm bảo về mặt pháp lý cho việc thực hiện các quyền đó. Pháp luật
ưu đãi người có công quy định những nguyên tắc, cách thức, phương pháp
thực hiện các chế độ ưu đãi đối với người có công; quy định quyền hạn, trách
nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện ưu đãi đối với người có

công; điều chỉnh tất cả các hoạt động ưu đãi đối với người có công nhằm mục
đích đảm bảo thực hiện một cách tốt nhất, hữu hiệu nhất các chế độ, ưu đãi
đối với đối tượng đặc biệt này.
Từ những phân tích trên có thể rút ra kết luận, pháp luật ưu đãi xã hội
(ưu đãi người có công) là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ hình thành trong việc tổ chức và thực hiện
chính sách ưu đãi đối với người có công trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể hiện rõ nhất tính dân tộc, tính xã hội

10


của pháp luật. Pháp luật ưu đãi xã hội là công cụ quản lý hữu hiệu mọi mặt
đời sống, tinh thần của người có công, giúp phát huy những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội và góp phần làm cho xã
hội phát triển bền vững.
1.1.2. Đối tƣợng và phƣơng pháp điều chỉnh của pháp luật ƣu đãi
xã hội
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những quan hệ xã hội mà
ngành luật đó hướng tới, là những tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt giữa các
ngành luật với nhau.
Luật ưu đãi xã hội điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong
lĩnh vực ưu đãi đối với người có công. Đó là quan hệ giữa hai bên Nhà nước
và người có công cùng với gia đình của họ trong nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội như quan hệ về trợ cấp, ưu đãi, quan hệ về việc làm, quan
hệ về chăm sóc y tế… Với đặc điểm này, pháp luật ưu đãi xã hội đã trở thành
một nét đặc thù trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam.
Đối tượng điều chỉnh là tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt các ngành
luật với nhau nhưng có nhiều trường hợp còn cần đến một căn cứ khác là
phương pháp điều chỉnh để phân định rõ ràng sự khác nhau đó. Phương pháp

điều chỉnh, nhìn chung được hiểu là cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác
động vào các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật ấy.
Đối với mỗi ngành luật, dựa trên những quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh thì
phương pháp điều chỉnh cũng khác nhau, việc sử dụng phương pháp nào đều
đã được tính toán sao cho phù hợp và đem lại hiệu quả tốt nhất.
Phương pháp điều chỉnh của pháp luật ưu đãi xã hội chủ yếu là những
phương pháp mệnh lệnh - quyền uy (hay còn gọi là quyền uy - phục tùng), đó
là những quy định về đối tượng được trợ cấp, mức trợ cấp, thủ tục xác nhận là
đối tượng được hưởng trợ cấp… Tuy nhiên, trong quan hệ ưu đãi xã hội

11


phương pháp mệnh lệnh - quyền uy này không giống như trong pháp luật
hành chính. Trong pháp luật hành chính, đó là sự bắt buộc của một bên là Nhà
nước đối với bên kia là các cơ quan, tổ chức hay cá nhân, những người có
nghĩa vụ phải phục tùng các mệnh lệnh đó, là quan hệ giữa cấp trên và cấp
dưới. Quyền uy - phục tùng trong pháp luật ưu đãi xã hội mang tính chất
"mềm" hơn nhiều. Thực hiện việc ưu đãi xã hội, trước hết đó là trách nhiệm
của Nhà nước, trách nhiệm "đền ơn, đáp nghĩa"; ưu đãi xã hội là sự "ưu đãi",
"trợ giúp" cho những đối tượng đặc biệt. Bởi vậy, để thực hiện được những
chính sách ưu đãi đối với người có công, Nhà nước với chức năng của mình,
đưa chính sách thành pháp luật, thành các quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia các quan hệ ưu đãi xã hội và đảm bảo thực hiện chúng, để cho
những người có công có được sự đền đáp xứng đáng, thể hiện sự biết ơn của
Nhà nước, thể hiện tình cảm, trách nhiệm của toàn xã hội đối với họ.
Ngoài phương pháp điều chỉnh chủ yếu trên, qua các quan hệ pháp
luật ưu đãi xã hội còn có thể thấy được sự điều chỉnh của phương pháp tùy
nghi. Những người có công đối với đất nước, họ đã hy sinh, cống hiến cho cả
đất nước, cho cả dân tộc, cho toàn xã hội, vì thế mà việc thực hiện ưu đãi xã

hội không phải chỉ là trách nhiệm của riêng Nhà nước mà còn là trách nhiệm
của toàn xã hội. Cộng đồng, xã hội cần phải cùng với Nhà nước thực hiện
công tác ưu đãi đối với người có công. Phương pháp tùy nghi này có thể nhận
thấy thông qua các quy định về việc Nhà nước khuyến khích các cá nhân, tổ
chức, cộng đồng xây dựng nhà tình nghĩa, nhận phụng dưỡng các Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, lập quỹ "đền ơn đáp nghĩa"…
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA PHÁP LUẬT ƢU ĐÃI XÃ HỘI

Nguyên tắc cơ bản của một ngành luật chính là những tư tưởng, quan
điểm chủ đạo điều chỉnh, chi phối đến toàn bộ ngành luật đó. Các nguyên tắc
cơ bản của luật ưu đãi xã hội cũng vậy, đó là những tư tưởng chủ đạo điều

12


chỉnh, chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật ưu đãi xã hội. Nội
dung của các nguyên tắc này được thể hiện qua các quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Qua tìm hiểu có thể nhận thấy có bốn nguyên tắc cơ bản điều chỉnh
xuyên suốt và toàn bộ hệ thống pháp luật ưu đãi xã hội của nước ta.
Thứ nhất, Nhà nước thống nhất quản lý vấn đề ưu đãi xã hội
Như đã nói ở trên, đối tượng được hưởng ưu đãi xã hội là những
người có công, họ là những người đã cống hiến, hy sinh để bảo vệ Tổ quốc,
để góp phần phát triển đất nước. Họ là những người anh hùng đối với đất
nước nhưng cũng chính là những người phải chịu "thiệt thòi" khi sức khỏe bị
suy giảm, bị thương tật, tuổi già, hoàn cảnh gia đình khó khăn… Vì thế, Nhà
nước với tư cách là người quản lý xã hội, là người đại diện cho toàn thể nhân
dân, là người có trách nhiệm trước hết trong việc xây dựng và triển khai thực
hiện pháp luật ưu đãi xã hội. Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng của
mình xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn

đề về ưu đãi xã hội như đối tượng được hưởng ưu đãi, chế độ cụ thể đối với
từng đối tượng, trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
thi pháp luật ưu đãi xã hội… Trên cơ sở các văn bản pháp luật được ban hành,
Nhà nước giao cho các ngành, các cấp, các địa phương triển khai thực hiện
các quy định của pháp luật ưu đãi xã hội, đưa pháp luật ưu đãi xã hội vào
cuộc sống.
Với trách nhiệm là chủ thể quản lý xã hội, Nhà nước mà cụ thể là các
cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương, với nhiệm vụ, quyền hạn
của mình phải đóng vai trò là người lãnh đạo, phát động các phong trào như
"đền ơn đáp nghĩa", "đi tìm địa chỉ đỏ"… để huy động tối đa sự tham gia, ủng
hộ của toàn thể nhân dân vào việc thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội một
cách hiệu quả nhất, để cho pháp luật ưu đãi xã hội được thực thi trong cuộc

13


sống. Thông qua các ngành, các cấp, các đoàn thể, Nhà nước hàng năm phải
đánh giá, tổng kết quá trình thực hiện chính sách ưu đãi xã hội, từ đó rút ra
những kinh nghiệm và đưa ra những sửa đổi, bổ sung để pháp luật ưu đãi xã
hội hoàn chỉnh hơn, phù hợp hơn.
Thứ hai, nguyên tắc công bằng, công khai
Nguyên tắc công bằng được thể hiện ở sự bình đẳng giữa cùng đối
tượng phải được hưởng cùng một loại chế độ ưu đãi như nhau. Những người
chịu sự mất mát, hy sinh, cống hiến như nhau phải được hưởng sự ưu đãi như
nhau. Những người có công phải được tạo điều kiện, tạo cơ hội như nhau để
hòa nhập với cộng đồng, phải được Nhà nước, xã hội ưu tiên như nhau bất kể
là nam hay nữ, giàu hay nghèo, dân tộc ở vùng miền nào. "Sự bình đẳng ở đây
được hiểu theo nghĩa rộng hơn, không chỉ đơn thuần là sự bình đẳng giữa
những người có công với nhau mà còn là sự bình đẳng giữa những người có
công với các thành viên khác của cộng đồng" [31, tr. 277].

Một trong những mục đích của chế độ ưu đãi xã hội là ổn định đời
sống cho người có công, đảm bảo mức sống cho các đối tượng này ít nhất
bằng mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi họ sinh sống. Chế độ ưu
đãi cũng cần được thiết kế một cách hợp lý. Các chế độ, mức ưu đãi nhìn
chung phải đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của người có công, tạo
điều kiện cho họ tái hòa nhập vào cộng đồng, tự lập trong cuộc sống. Mức ưu
đãi phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho họ nhưng nói chung mức ưu đãi
không quá cao so với các đối tượng khác trong xã hội, nếu không sẽ dễ tạo
nên sự thiếu công bằng, phân biệt đối xử giữa các thành viên trong xã hội.
Chính sách ưu đãi xã hội mang tính nhân văn sâu sắc. Thực hiện tốt
chính sách ưu đãi xã hội sẽ giúp cho đất nước, cho dân tộc sự phát triển bền
vững. Để đảm bảo cho nguyên tắc công bằng, để cho pháp luật ưu đãi xã hội
được thực thi một cách hiệu quả nhất thì việc giám sát của người dân nói

14


chung và của chính đối tượng được hưởng ưu đãi là rất cần thiết. Vì vậy,
những chính sách, những chế độ ưu đãi, mức ưu đãi, quy trình thực hiện, cơ
quan thực thi… cần phải được công khai cho toàn dân được biết để đảm bảo
cho việc triển khai pháp luật ưu đãi xã hội (hay chính sách ưu đãi xã hội)
được công bằng, minh bạch và hiệu quả. Việc công khai các vấn đề liên quan
đến chế độ ưu đãi xã hội còn giúp cho thế hệ trẻ hiểu hơn về những cống hiến,
sự hy sinh, lòng dũng cảm của thế hệ đi trước từ đó ý thức hơn về trách nhiệm
của mình đối với xã hội, với Tổ quốc, sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp của dân tộc, của đất nước.
Thứ ba, nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và mức
ưu đãi
Nguồn vốn để thực hiện chính sách ưu đãi xã hội được dựa chủ yếu
vào nguồn ngân sách Nhà nước. Do vậy, khi đưa ra mức ưu đãi đối với các

đối tượng cần tính toán đến khả năng đáp ứng của nền kinh tế. Để cho những
chế độ ưu đãi được khả thi thì nên tránh đặt ra những mức trợ cấp, những
khoản ưu đãi vượt quá khả năng của nền kinh tế. Ngoài việc thể hiện sự biết
ơn đối với những cống hiến của người có công, ưu đãi xã hội còn nhằm mục
đích đảm bảo, cải thiện đời sống cho người có công, hỗ trợ phần nào cuộc
sống vật chất, tinh thần của họ. Vì thế, pháp luật ưu đãi xã hội không được đặt
ra những chế độ trợ cấp thấp hơn mức thu nhập trung bình của cộng đồng.
Tùy từng thời kỳ, tùy thuộc vào mức độ phát triển của nền kinh tế mà
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xây dựng, sửa đổi và bổ sung mức trợ
cấp, các chế độ ưu đãi sao cho phù hợp với sự phát triển, với thu nhập của
cộng đồng dân cư, với chỉ số giá tiêu dùng trong xã hội. Xã hội ngày càng
phát triển, nền kinh tế ngày càng đi lên thì đời sống vật chất cũng như tinh
thần của những người có công càng được quan tâm và mức trợ cấp sẽ ngày
một tăng lên để phù hợp hơn với nhu cầu ngày càng cao của con người.

15


Ở mỗi địa phương, tùy tình hình phát triển kinh tế - xã hội của mình
mà địa phương đó sẽ có những chính sách khác nhau ngoài những chính sách
chung do Nhà nước đặt ra để cải thiện hơn nữa đời sống vật chất cũng như
tinh thần của người có công, nhưng những cải thiện đó đều phải trên nguyên
tắc đảm bảo cho người có công có được mức sống trung bình hoặc trên trung
bình so với dân cư nơi cư trú, nhằm ổn định cuộc sống lâu dài cho họ và giúp
họ có điều kiện để tham gia các hoạt động ích cho xã hội, tái hòa nhập với
cộng đồng, tham gia sản xuất, kinh doanh để cải thiện, nâng cao chất lượng
cuộc sống của mình cũng như góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Thứ tư, xã hội hóa công tác ưu đãi xã hội
Người có công là những người đã tình nguyện hy sinh tuổi trẻ, sức lực
và cả tính mạng mình; có những cống hiến lớn lao cho sự nghiệp xây dựng,

bảo vệ và phát triển đất nước. Những đóng góp của họ đã đem lại sự hòa bình,
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, những giá trị tinh thần vô giá. Vì thế, chăm lo
cho đời sống vật chất, tinh thần của người có công không chỉ là trách nhiệm
của Đảng, của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn dân, toàn xã hội, của
cả cộng đồng. Đây là một nguồn lực rất lớn để giúp thực hiện tốt nhất những
chính sách ưu đãi đối với người có công mà Nhà nước đặt ra, chủ thể này
cũng sẽ là một nhân tố quan trọng cùng với Nhà nước giải quyết những yêu
cầu bức xúc của những người có công. Thực hiện chính sách ưu đãi người có
công không chỉ thể hiện trách nhiệm mà đó còn là tình cảm, là sự biết ơn của
cộng đồng đối với những cống hiến của họ, là sự thể hiện truyền thống đạo
đức tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc ta, truyền thống "ăn quả nhớ kẻ trồng
cây", truyền thống "uống nước nhớ nguồn".
Số lượng người có công mà chủ yếu là người có công với cách mạng ở
nước ta là rất lớn. Nền kinh tế xã hội của nước ta đang trên đà phát triển; đời
sống, nhu cầu của người dân ngày càng tăng cao; chi phí xã hội theo đó cũng

16


gia tăng không ngừng. Điều này đòi hỏi những chế độ, ưu đãi trong pháp luật
ưu đãi xã hội cũng phải tăng lên. Thế nhưng, điều kiện kinh tế hay nói chính
xác hơn là ngân sách nhà nước không đủ khả năng đáp ứng để đảm bảo cho
các đối tượng ưu đãi có được cuộc sống ổn định. Vì vậy, sự trợ giúp của cộng
đồng hay việc xã hội hóa công tác ưu đãi xã hội là rất cần thiết.
Trong việc thực hiện xã hội hóa công tác ưu đãi xã hội thì Nhà nước
phải đóng vai trò là người lãnh đạo, chỉ đạo, và cùng với các tổ chức, đoàn
thể, các thành viên trong xã hội thực hiện chính sách ưu đãi xã hội. Nhà nước
phát động, định hướng cho các hoạt động, phong trào, chương trình hỗ trợ,
chăm sóc người có công.
Thực tiễn cho thấy, các cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể, các doanh

nghiệp, cộng đồng dân cư đã có những đóng góp rất lớn và thiết thực cho
công tác ưu đãi xã hội thông qua các hoạt động, phong trào như: "đền ơn đáp
nghĩa", "đi tìm đồng đội", "tặng nhà tình nghĩa", "nhận phụng dưỡng Bà mẹ
Việt Nam anh hùng"…
1.3. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA PHÁP LUẬT ƢU ĐÃI XÃ HỘI

Như đã nói ở trên, ưu đãi xã hội là một phần quan trọng và đặc biệt
trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Pháp luật ưu đãi xã hội được ban
hành nhằm bảo vệ một số đối tượng đặc biệt đã đóng góp xương máu, tuổi trẻ,
công sức, trí tuệ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể chế hóa những chính sách ưu đãi đối
với người có công của Nhà nước trong đời sống xã hội. Chính sách người có
công là một chính sách lớn trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và
Nhà nước ta. Nó mang tính chính trị, kinh tế, xã hội và nhân văn sâu sắc.
Những người có công là một bộ phận đặc biệt của xã hội. Họ là
những người đã cống hiến cả cuộc đời hay hy sinh cả tính mạng, thân thể

17


mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ là những người đã đem
lại hòa bình, tự do cho đất nước, đã có những đóng góp lớn lao vào sự phát
triển vững mạnh của đất nước, sự bình an, cuộc sống của dân tộc. Để thực
hiện được điều đó, họ phải có niềm tin, lòng yêu nước mãnh liệt và quyết
tâm xây dựng đất nước bền vững. Vì thế, họ rất cần sự quan tâm, động viên,
công nhận và trân trọng của Nhà nước, nhân dân tạo cho họ động lực để tiếp
cống hiến. Những chế độ, ưu đãi mà Nhà nước giành cho họ không chỉ là
những sự hỗ trợ về vật chất, tinh thần mà nó còn tạo cho họ niềm tin vào
một chế độ xã hội tốt đẹp, là động lực giúp họ tiếp tục phấn đấu; khuyến
khích những thành viên khác trong xã hội cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và

phát triển đất nước.
Hiện nay, chúng ta đang ở thời bình, là thời kỳ xây dựng và phát triển
đất nước nhưng những thế lực thù địch vẫn không ngừng chống phá ta bằng
các thủ đoạn khác nhau. Cùng với những mặt trái của nền cơ chế thị trường
đặt đất nước chúng ta trước rất nhiều khó khăn. Trước những biến đổi, khó
khăn ấy, pháp luật ưu đãi xã hội càng có ý nghĩa lớn lao. Thực hiện tốt pháp
luật ưu đãi xã hội là việc làm có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ giúp ổn
định cuộc sống của những người có công mà còn góp phần vào sự ổn định và
phát triển của xã hội, của đất nước.
Phần lớn những người có công là những người đang phải chịu đựng
những hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện nay, nhiều người có công đang gặp không ít khó khăn trong đời
sống hằng ngày vì thương tật, vì tuổi già, vì thiếu vốn làm ăn… Vì vậy, chính
sách ưu đãi người có công không chỉ mang ý nghĩa chính trị mà còn mang
tính kinh tế. Những chế độ trợ cấp của Nhà nước đóng vai trò hết sức quan
trọng, nó đảm bảo và nâng cao đời sống cho những người có công; đối với
một số đối tượng đặc biệt như không còn khả năng lao động, không còn nơi
nương tựa, già yếu… thì đây còn là nguồn thu nhập của họ để ổn định đời

18


sống.
Bên cạnh sự trợ cấp, những ưu đãi về giáo dục, nhà ở, việc làm, chăm
sóc sức khỏe đã giúp ích rất nhiều cho người có công và gia đình họ. Những
hỗ trợ này không chỉ giúp họ ổn định đời sống mà còn tạo cho họ cơ hội để
phát triển kinh tế, để làm giàu, từ đó đời sống của họ được ổn định và nâng
cao hơn. Thực tế đã cho thấy không ít tấm gương những thương binh, người
có công cách mạng làm ăn kinh tế giỏi, góp phần vào sự phát triển kinh tế của
đất nước, là những người "tàn nhưng không phế". Những chính sách phù hợp,

hợp lý sẽ là động lực để những người có công trở thành một nguồn lực trong
sự phát triển kinh tế và khuyến khích những người khác phấn đấu cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Thực hiện chính sách ưu đãi người có công là sự thể hiện những
truyền thống đạo đức tốt đẹp, quý báu của dân tộc ta, là thể hiện sự biết ơn đối
với những mất mát, hy sinh, cống hiến của họ. Chính sách ưu đãi đối với
người có công hay là pháp luật ưu đãi xã hội thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước và cộng đồng đối với những người có công chứ không
phải sự ban ơn, sự làm phúc cho họ. Những quy định về mức trợ cấp, ưu đãi
về học tập, việc làm, nhà ở, chăm sóc sức khỏe… đã thể hiện rõ sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước và xã hội đến mọi mặt đời sống của bộ phận dân cư đặc
biệt này. Chế độ ưu đãi xã hội phải đảm bảo đời sống vật chất đối với người
có công trong những sinh hoạt thiết yếu hàng ngày, nhất là đối với những đối
tượng có công lao, thành tích lớn; bệnh tật, thương tật nặng, giúp cho họ vượt
qua những mặc cảm, tự ti về tuổi tác, sức khỏe… để họ tái hòa nhập vào cộng
đồng, phấn đấu vươn lên, khẳng định mình trong thời kỳ hội nhập và phát
triển của đất nước.
Những đóng góp, cống hiến, hy sinh của người có công là những điều
vô giá, không chỉ có giá trị ở quá khứ, hiện tại mà còn có giá trị lớn lao cho

19


tương lai. Họ luôn là tấm gương cho các thế hệ con cháu mai sau học tập và
phấn đấu. Vì thế, thực hiện tốt pháp luật ưu đãi xã hội còn có tác dụng giáo
dục cho thế hệ trẻ truyền thống cách mạng anh hùng, bất khuất của thế hệ đi
trước, động viên thế hệ trẻ giữ vững truyền thống đó và tiếp bước cha anh giữ
gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Bên cạnh đó, thực hiện tốt pháp luật ưu đãi xã hội cũng góp phần tạo
ra môi trường xã hội lành mạnh, nâng cao ý thức trách nhiệm cho mỗi thành

viên của xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Như đã nói ở trên, pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể chế hóa những
chính sách ưu đãi đối với người có công của Đảng, Nhà nước ta, là sự đảm
bảo cho những ưu tiên, ưu đãi cho người có công được thực hiện hay nói cách
khác là sự đảm bảo về mặt pháp lý cho những quyền được hưởng ưu đãi của
người có công. Việc đưa những chính sách ưu đãi thành pháp luật đã khẳng
định rõ việc thực hiện ưu đãi xã hội là trách nhiệm của Nhà nước, của các
ngành, các cấp có liên quan và việc hưởng những trợ cấp, ưu đãi đó chính là
quyền của những người có công. Do đó, khi nhận những ưu đãi này họ sẽ
không bị tâm lý là kẻ được ban ơn mà tự hào về những cống hiến, hy sinh,
đóng góp của mình để có được quyền hưởng những ưu đãi ấy.
1.4. LƢỢC SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT ƢU ĐÃI XÃ HỘI (TỪ
SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN NAY)

Có thể nói, trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, trải qua nhiều triều
đại, nhiều chế độ khác nhau nhưng ở thời kỳ nào, giai đoạn nào, chế độ nào
thì những người có công với đất nước đặc biệt là những người có công trong
sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, giành độc lập tự do cho đất nước đều được
ghi nhận, suy tôn và Nhà nước đều có những chính sách, những ưu đãi đối với
họ. Ở mỗi thời kỳ khác nhau do quan điểm, chế độ chính trị, sự phát triển của

20


nền kinh tế, xã hội… mà quan niệm về đối tượng được công nhận là người có
công cũng khác nhau, những ưu đãi, trợ cấp đối với họ cũng khác nhau, nó
phản ánh bản chất của từng chế độ xã hội, từng thời kỳ. Nhưng nhìn chung,
những người có công là những người đã hy sinh, cống hiến hết sức mình, có
những đóng góp lớn lao để bảo vệ, xây dựng, giữ vững đất nước, đem lại hòa
bình, độc lập, vẻ vang cho đất nước và họ được Nhà nước công nhận, xã hội

suy tôn và thể hiện lòng biết ơn bằng những ưu tiên, ưu đãi trong mọi mặt của
đời sống, cả về vật chất lẫn tinh thần.
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8-1945 đến năm 1954
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tuy phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn trong công cuộc giành, giữ chính quyền, kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn quan tâm đến những
người có công mà cụ thể là những người có công với cách mạng, với sự
nghiệp giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
Ngày 16/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 20/SL (sau
đó được sửa đổi, bổ sung bằng Sắc lệnh 242/SL ngày 12/10/1948) về "Hưu
bổng thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ", quy định về tiêu chuẩn xác
nhận thương binh, truy tặng tử sĩ, thực hiện chế độ lương hưu thương tật đối
với thương binh, chế độ tiền tuất đối với gia đình tử sĩ. Đây là văn bản pháp
luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về những ưu
đãi đối với người có công với cách mạng. Sau đó, Đảng, Nhà nước ta còn ban
hành nhiều chính sách, văn bản có liên quan quy định những vấn đề về
thương binh, tử sĩ… và những ưu đãi dành cho họ. Đồng thời, Đảng, Nhà
nước cũng khuyến khích, động viên toàn dân dấy lên phong trào giúp đỡ,
chăm sóc những đối tượng này như phong trào đón thương binh về làng, giúp
binh sĩ tử nạn, lập quỹ tình nghĩa…

21


Trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban hành một số Sắc lệnh, Nghị
định, Thông tư, Thông lệnh quy định về một số vấn đề như:
- Khái niệm thương binh, tử sĩ;
- Trợ cấp hàng tháng đối với thương binh, thân nhân tử sĩ;
- Trợ cấp tạm thời, trợ cấp đặc biệt đối với những trường hợp chưa
được hưởng trợ cấp hàng tháng mà hoàn cảnh khó khăn;

- Sắp xếp việc làm, ưu tiên chia cấp ruộng đất, miễn giảm thuế nông
nghiệp, miễn đi dân công;
- Lập hồ sơ thương binh, tử sĩ và thân nhân tử sĩ;
- Gia đình tử sĩ được tặng bằng Tổ quốc ghi công, thương binh được
tặng Huy hiệu thương binh do Bộ Thương binh - Cựu binh và Bộ Quốc phòng
cấp;
- Tổ chức bộ máy Bộ Thương binh - Cựu binh. Ở mỗi khu kháng
chiến thành lập một Sở Thương binh - Cựu binh, mỗi tỉnh hoặc liên tỉnh thành
lập một Ty Thương binh - Cựu binh [24, tr. 46-47].
Đặc biệt, theo Nghị định số 51/TB-NĐ ngày 27/7/1949 và Nghị định
367/TB-NĐ ngày 30/8/1950 thì Nhà nước sẽ tổ chức các trại an dưỡng để thu
nhận và chăm sóc thương binh, bệnh binh.
Tóm lại, trong giai đoạn này, khi đất nước phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhưng
Đảng và Nhà nước ta vẫn quan tâm đến những người có công với cách mạng
thông qua những chính sách, những văn bản pháp luật quy định về những ưu
đãi đối với họ. Những chính sách, văn bản này tuy còn sơ sài, đơn giản nhưng
nhìn chung đã giải quyết được những yêu cầu cấp bách của việc cần phải có
sự quan tâm, ưu đãi đối với nhưng người có công với cách mạng. "Thực hiện

22


chế độ ưu đãi đối với người có công ở giai đoạn này chủ yếu là phát huy
truyền thống dân tộc, của các cộng đồng dân cư; việc chăm sóc thương binh,
gia đình liệt sĩ chủ yếu dựa vào nguồn lực địa phương và tình cảm, sự quan
tâm của nhân dân" [31, tr. 282].
1.4.2. Giai đoạn từ 1954 đến 1975
Giai đoạn này, hòa bình đã được lập lại ở miền Bắc, miền Bắc ra sức
xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tập trung đấu tranh chống giặc Mỹ. Do

đó, công tác ưu đãi người có công với cách mạng cũng được gắn liền với
nhiệm vụ khắc phục những hậu quả tàn khốc của chiến tranh, phát triển sản
xuất, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, động viên toàn dân tham
gia vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
"Với 184 văn bản pháp luật về người có công được ban hành giai đoạn
1954 - 1975 có thể nói rằng chế độ ưu đãi thương binh, gia đình liệt sĩ đã có
điều kiện thực hiện trên nhiều lĩnh vực và ngày càng phát triển" [24, tr. 49].
Có thể liệt kê một số điểm quan trọng của các văn bản được ban hành
trong giai đoạn này như sau:
- Thông qua bản Điều lệ ưu đãi thương binh, dân quân, du kích, thanh
niên xung phong bị thương tật; Điều lệ ưu đãi bệnh binh; Điều lệ ưu đãi gia
đình liệt sĩ ban hành kèm theo Nghị định 980/TTg ngày 27/7/1950 của Thủ
tướng Chính phủ và một số văn bản khác.
Có thể thấy, do điều kiện đã thay đổi, khả năng kinh tế cho phép nên
những đối tượng được hưởng trợ cấp thương tật đã được mở rộng đến những
đối tượng như dân quân, du kích, thanh niên xung phong.
- Tuy nhiên, những văn bản trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954 - 1964) đã bộc lộ một số điềm bất hợp lý như: đối với
thương binh thì mức khởi điểm để hưởng trợ cấp thương tật còn thấp, khoảng

23


×