Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.76 KB, 44 trang )

PHẦN 1 : MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài :
Lịch sử đã chứng minh, giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử rất
quan trọng trong việc lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trong
đấu tranh từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, đó là giai cấp tiên tiến nhất, có tư tưởng các mạng, chính trị triệt để nhất trong xã
hội. Tuy rằng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải trải qua
những khó khăn, khổ cực, những bước thăng trầm, nhưng họ vẫn hằng ngày, hằng giờ
gắng sức hoàn thành nhiệm vụ của lịch sử giao phó.
Ở Việt Nam, giai cấp công nhân giữ một vai trò hết sức quan trọng. Là một bộ
phận của giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam luôn thể hiện và
phát huy tinh thần trách nhiệm của mình trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Bước ra từ khói lửa chiến tranh, trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm, giai cấp
công nhân Việt Nam đã chứng minh họ là những người lãnh đạo xứng đáng trong sự
nghiệp chung của đất nước. Họ vẫn không ngừng đấu tranh. Trong chiến tranh thì đấu
tranh giải phóng dân tộc, trong hòa bình thì đấu tranh xây dựng đất nước.
Trong thời đại hiện nay, công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đang diễn ra
khắp cả nước. Đây là cơ sở, là chỗ dựa vững chắc về vật chất để nước ta thực hiện
việc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên bối cảnh lúc này vẫn còn nhiều khó khăn
và thách thức, nhất là chúng ta đang đứng trước những vấn đề mang tính quốc tế và
phải đối mặt với sự chống phá của các thế lực thù địch. Để thực hiện được sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đòi hỏi sự chung tay góp sức của toàn quân
và toàn dân, trong đó cần có lực lượng lãnh đạo có khả năng định hướng một cách
hiệu quả về lối đi cho sự nghiệp chung của đất nước. Lực lượng lãnh đạo ấy chỉ có thể
là giai cấp công nhân. Vì thế vấn đề làm sáng tỏ vai trò của giai cấp công nhân Việt
Nam được đặt ra ngày càng bức thiết hơn bao giờ hết, kể cả trên phương diện lý luận
lẫn thực tiễn. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển mới của đất nước và thế giới,
nhiều ý kiến cho rằng cần xây dựng và phát huy tối đa lực lượng giai cấp công nhân.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam vẫn là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Vì thế, vai trò


của giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các Văn kiện Đại hội Đảng mà còn
là một đề tài khoa học được nhiều nhà lý luận nghiên cứu. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài
“ VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ” để góp một phần nào đó vào việc làm sáng tỏ
thêm vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
1


2.
Tình hình nghiên cứu :
Từ quá khứ cho đến hiện tại, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân luôn là đề
tài được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu để chứng minh vai trò quan trọng
của giai cấp công nhân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc
xây dựng đất nước, xây dựng xã hội mới – XHCN.
Các tác giả đã nghiên cứu đề tài này :
+ Giai cấp công nhân Việt Nam – Trần Văn Giàu.
+ Vị trí lịch sử của giai cấp công nhân trong thời kỳ xây dựng CNXH – Lê Huy
Phan.
+ Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam – Nguyễn Công Bình.
+ Một số vấn đề xây dựng giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay – Cao Văn
Lượng.
+ Giai cấp công nhân trong sự nghiệp CNH – HĐH ở Việt Nam – Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn – Bùi Đình Thanh.
3.
Mục đích – yêu cầu của việc nghiên cứu đề tài:
•Mục đích nghiên cứu : Tiểu luận được thực hiện nhằm mục đích làm rõ “ Vai
trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước”
•Yêu cầu của việc nghiên cứu đề tài :
- Nêu được vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới nói chung

và giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng trong xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội
- Nêu được tình hình của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, nhất là
mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp khác trong xã hội.
- Phân tích và đánh giá xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong thời kỳ
mới, thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá
- Tìm hiểu quan điểm của Đảng, Nhà nước và đưa ra được các giải pháp về việc
nâng cao vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước.
4.
Phương pháp nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu của tiểu luận về lĩnh vực cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó,
việc nghiên cứu để phân tích và giải quyết các vấn đề trong tiểu luận sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau. Trong đó những phương pháp chủ yếu được sử dụng là dựa
trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân
tích tổng hợp, logic, lịch sử, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh
đối chiếu…..

2


Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu còn bám sát các chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước ta về vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam và hướng phát triển
của nó trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
5.
Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò của giai cấp công nhân ở Việt Nam
6.
Giới hạn và đóng góp của đề tài :
•Giới hạn của đề tài :
Đề tài chỉ nghiên cứu về vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình

công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
•Đóng góp của đề tài :
- Một là, khẳng định vị trí, vai trò hàng đầu của giai cấp công nhân trong quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, vị trí trung tâm tập hợp lực lượng của
xã hội và vai trò tiên phong lãnh đạo cả nước tiến hành quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa.
- Hai là, đưa ra những đánh giá về ưu điểm và hạn chế của giai cấp công nhân
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
- Ba là, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay.
- Bốn là, về ý nghĩa thực tiễn : Bài tiểu luận góp phần làm sáng rõ và khẳng định
vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đất nước tiến hành công nghiệp
hóa – hiện đại hóa. Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng vào mục đích học tập và giảng
dạy sau này, là tài liệu để nghiên cứu các vấn đề có liên quan.

3


PHẦN 2 : NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1.
Điều kiện khách quan và chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân :
1.1.1. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân :
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C. Mác và
Ph. Ăng ghen trình bày sâu sắc trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác
phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
- Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với

lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và, với tính cách như vậy, nó
là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành
chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy
nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn
luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực
tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để
nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách
quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã
hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài
xiềng xích và được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Đó là
khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử
của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả
năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là khả năng đi
đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân
tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I.
Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không
4


phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió. Phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề,
nhưng xem xét toàn cảnh của sự phát triển xã hội, giai cấp công nhân, lực lượng sản

xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục
diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.
Đúng là ở những nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ
trong giai cấp công nhân đã được cải thiện, có thu nhập cao; một bộ phận công nhân ở
các nước trên đã có mức sống "trung lưu hóa", song điều đó không có nghĩa là công
nhân ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể.
Một thực tế đã, đang và còn tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản phát
triển, đó là sự bất công, bất bình đẳng và thu nhập càng cách xa giữa giai cấp tư sản
với giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dù có cố gắng tìm cách "thích nghi"
và mọi biện pháp xoa dịu nhưng giai cấp tư sản không thể khắc phục được mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Thực tế, cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân vẫn diễn ra ở các nước tư bản chủ nghĩa dưới nhiều hình thức phong phú, với
những nội dung khác nhau.
1.1.2. Điều kiện chủ quan quy định sử mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan, tức là không phụ
thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Nhưng cũng như các quy luật xã hội khác, nó không
“ tự động” diễn ra như các quy luật tự nhiên mà nó chỉ diễn ra khi có những hoạt động
chủ quan của số đông con người, ở đây là của bản thân giai cấp công nhân, Đảng cộng
sản, toàn thể nhân dân. Có 3 yếu tố chủ quan:
- Thứ nhất : Bản thân giai cấp công nhân: Phải trưởng thành về số lượng và chất
lượng ngay trong quá trình sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và trong các hoạt
động công tác – xã hội; có trình độ văn hoá, khoa học - công nghệ, tay nghề ngày
càng cao để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất; đời sống vật chất, tinh
thần ngày càng tốt hơn. Giác ngộ về Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa Mác -Lênin, lập
trường giai cấp vững vàng; hoạt động nghiệp đoàn, công đoàn có chất lượng cao, xây
dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ. Đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, mọi
âm mưu của kẻ thù; thực sự đi đầu trong quá trình sản xuất hiện đại, xây dựng, bảo vệ
Chủ nghĩa Xã hội.

Thứ hai: Đảng cộng sản: Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo cả
giai cấp và cả dân tộc. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp phong trào công nhân với
Chủ nghĩa Mác - Lênin ( ở Việt Nam còn kết hợp với phong trào yêu nước). Đảng là
5


nhân tố chủ quan hàng đầu, lãnh đạo và tổ chức quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Vì thế, Đảng Cộng sản phải luôn luôn được xây dựng, củng cố, phát triển vững
vàng về chính trị ( đường lối cách mạng), về tư tưởng ( Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam) và về tổ chức ( nguyên tắc tập trung dân chủ, sinh
hoạt Đảng để có các quyết định đúng; cán bộ, Đảng viên, cấp uỷ và tổ chức cơ sở
Đảng vững mạnh, trong sạch, có uy tín với nhân dân và có khả năng lãnh đạo tốt).
- Thứ ba: Giai cấp công nhân và đảng của nó phải là trung tâm đoàn kết dân
tộc, đoàn kết quốc tế: Có ý chí, nhận thức và hành động thống nhất, đồng thời đấu
tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực và mọi âm mưu phá hoạt của các kẻ thù của nhân
dân và Chủ nghĩa Xã hội.
1.2.
Khái niệm giai cấp công nhân :
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của hoàn
cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn phát triển với
những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số lượng người
vô sản mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vô
sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại gắn liền
với sự phát triển của nền đại công nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp
cơ bản, chủ yếu đối lập với giai cấp tư sản là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết
tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị

thặng dư. Họ là người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tuỳ theo
cung - cầu hàng hoá sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hoá
về vật chất và tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc vào cung - cầu hàng hoá sức lao
động, phụ thuộc vào kết quả sức lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng
dư, nhưng giá trị thặng dư lại giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng : “Giai cấp
vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của
bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình để sống”.
Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm nhưng công việc khác
nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ là hai tiêu chí
cơ bản để xác định phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là người lao động
trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp hay gián tiếp
6


vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội
hoá ngày càng cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi
vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân,
bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta phải
xem xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản
hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà
tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp công
nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà người công
nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm
quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp
thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã

hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ tư
liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hoá. Như vậy họ không còn là những người vô sản
như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra làm nguồn gốc cho sự giàu có và phát
triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp công
nhân như sau:
“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, là lực lượng lao động
cơ bản trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và
cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất
tiên tiến trong thời đại ngày nay.
1.3.
Đặc điểm của giai cấp công nhân :
Có thể hiểu: Giai cấp công nhân của những người lao động được hình thành và
phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại có trình độ xã hội hoá
ngày càng cao, đại biểu cho phương thức tiên tiến thời đại ngày nay, nên là giai cấp
duy nhất có sứ mệnh lịch sử tổ chức và lãnh đạo tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản.
Giai cấp công nhân có đặc điểm chung là :

7


Thứ nhất: Ra đời từ nền sản xuất công nghiệp và tuyển mộ trong các tầng lớp
dân cư. Do đó còn nền công nghiệp còn tồn tại, phát triển thì giai cấp công nhân cũng
tồn tại và phát triển theo.
Thứ hai: Xu hướng đội ngũ công nhân có kỹ thuật cao, công nhân có trí tuệ ngày
càng tăng lên cùng với xu hướng phát triển lực lượng sản xuất và khoa học kỹ thuậtcông nghệ, không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Thứ ba: Xét về lợi ích cơ bản thì giai cấp công nhân có mâu thuẫn không thể

điều hoà được với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Nhưng xét về lợi ích trực tiếp
trước mắt, công ty xí nghiệp tư bản thì giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản có
mối liên hệ và ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau cùng tồn tại và phát triển trong điều
kiện Chủ nghĩa tư bản.
Thứ tư: Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế, bản sắc dân tộc. Ngày nay, trên
thế giới các nhà tư bản liên minh với nhau do xu hướng toàn cầu hoá. Do vậy, cũng
hình thành nên bản chất giai cấp công nhân mang tính quốc tế, bên cạnh đó cũng
mang tính riêng, bản sắc riêng dân tộc mình. Mác và Ăngnghen chỉ rõ: sự nghiệp cách
mạng của giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành nếu giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa dân tộc và quốc tế. Đây là mối quan hệ thống nhất biện chứng của quá trình
phát triển phong trào công nhân.
Thứ năm: Giai cấp công nhân là giai cấp gắn liền với nền sản xuất đại công
nghiệp và được nền đại công nghiệp rèn luyện. Giai cấp công nhân có tính tổ chức kỷ
luật cao, tính tự giác cao. Do vậy giai cấp công nhân có hệ tư tưởng riêng của mình đó
là Chủ nghĩa Mác Lênin và tổ chức riêng của mình đó là Đảng cộng sản. Đây cũng
chính là đặc trưng nói lên giai cấp công nhân có thể đứng lên làm cách mạng.
Ngoài ra, với sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và quá
trình toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động mạnh mẽ đến giai cấp công nhân các
nước. Đối với giai cấp công nhân ở các nước đang phát triển, sự tác động này tạo ra
những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu của nó cả về số lượng và chất lượng, đồng thời
cũng làm xuất hiện nhiều biểu hiện mới. Nhìn tổng quát, có thể thấy rõ một số đặc
điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu dân cư của từng nước (khoảng
15 - 30%), song lại có chiều hướng gia tăng tỷ trọng trong tổng số giai cấp công nhân
trên thế giới. Bởi lẽ đa phần dân số thế giới là dân cư các nước đang phát triển (trong
tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới hiện nay, chỉ có gần 2 tỷ người sống ở các nước
công nghiệp phát triển - các nước OECD, còn lại sống ở các nước đang phát triển). Ở
các nước này, trong thế kỷ XX, giai cấp nông dân chiếm số đông, nhưng hiện nay do
8



diễn ra quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên giai cấp công nhân có sự gia tăng
nhanh chóng.
Thứ hai: Là lực lượng lao động có trình độ học vấn ngày càng được nâng cao,
được đào tạo nghề nghiệp nhất định trong cơ cấu lao động chung. So với giai cấp
nông dân và những người làm dịch vụ giản đơn, giai cấp công nhân được đào tạo
chuyên môn, nghề nghiệp tốt hơn.
Thứ ba: Là nhóm người lao động đang từng bước được tiếp xúc với khoa học công nghệ tiên tiến, được rèn luyện tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp.
Thứ tư: Giai cấp công nhân khá đa dạng, phức tạp về thành phần xã hội, về nghề
nghiệp chuyên môn. Khác với các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân ở các
nước đang phát triển đang gia tăng về số lượng, cả ở bộ phận công nhân công nghiệp
truyền thống, cả ở bộ phận công nhân làm việc trong các lĩnh vực sản xuất mới, lĩnh
vực công nghệ cao. Điều này được các nhà nghiên cứu xã hội học lý giải là do các
nước đang phát triển đang trong quá trình công nghiệp hoá (còn các nước phát triển
đã hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, chuyển các ngành công nghiệp truyền
thống, sử dụng nhiều lao động sang khu vực các nước đang phát triển), đang thu hút
đầu tư nước ngoài mà chủ yếu là của các nước phát triển. Mặt khác, trong khi ở các
nước công nghiệp phát triển, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp đang dần thu hẹp lại,
lĩnh vực dịch vụ mở rộng, thì ở các nước đang phát triển, lĩnh vực công nghiệp có xu
hướng ngày càng mở rộng.
Thứ năm: Một bộ phận giai cấp công nhân các nước đang phát triển làm việc tại
các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đang (hoặc
sẵn sàng) chấp nhận sự bóc lột trực tiếp của tư bản nước ngoài. Tuy nhiên, đây cũng
là bộ phận công nhân có mức thu nhập khá hơn so với mặt bằng thu nhập chung của
giai cấp công nhân tại đây.
Cũng như phần lớn các giai tầng lao động khác, giai cấp công nhân ở các nước
này có cơ hội và điều kiện thuận hơn để tiếp cận thông tin, các giá trị văn hoá tinh
thần từ các dân tộc, các cộng đồng người khác nhau. Nhiều kết quả điều tra xã hội học
cho thấy, đa số họ không chấp nhận kiểu tuyên truyền một chiều, mang tính áp đặt,
mà có xu hướng tự do hơn trong việc tiếp nhận các tư tưởng chính trị khác nhau. Hiện

nay, giống như đa phần các tầng lớp lao động khác trên thế giới, giai cấp công nhân ở
các nước đang phát triển thường ít quan tâm hơn đến lý tưởng, chủ nghĩa. Mối quan
tâm hàng đầu của họ là việc làm, thu nhập và các chế độ phúc lợi xã hội cấp thiết mà
họ cần được hưởng. Đây là một khó khăn lớn trong công tác tư tưởng đối với giai cấp
công nhân ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở các nước mà Đảng Cộng sản chưa
nắm quyền lãnh đạo.
9


1.4.
Vai trò của giai cấp công nhân :
Sau những kịch biến chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, ở một loạt nước đang phát
triển dấy lên làn sóng đa nguyên, đa Đảng, khiến cho đất nước rơi vào bất ổn chính
trị, khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiên trọng, phong trào công nhân bị phân hóa và
phân liệt sâu sắc. Tuy nhiên, phong trào cộng sản và công nhân ở các nước đang phát
triển vẫn tồn tại. Từ những năm cuối thế kỷ XX đầu XXI, phong trào từng bước hồi
phục và thu được những thành tựu nhất định. Trước tác động khách quan của cách
mạng khoa học- công nghệ và quá trình toàn cầu hóa, mặc dù số lượng, chất lượng và
cơ cấu giai cấp công nhân ở các nước đang phát triển có những thay đổi đáng kể, song
vẫn thể hiện vai trò khá nổi bật trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội: Giai cấp công nhân ở các nước đang phát triển
không chỉ là lực lượng lao động quan trọng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mà còn
là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Với việc ứng dụng khoa học
kỹ thuật, công nghệ và cách thức tổ chức hiện đại trong sản xuất, giai cấp công nhân
có ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ phát triển kinh tế, tăng năng suất lao động. Tại các
nước đang phát triển, tỷ trọng sản xuất nông nghiệp giảm mạnh, sản xuất công nghiệp
và dịch vụ đang gia tăng. Đóng góp của công nghiệp và dịch vụ cho GDP cũng liên
tục tăng (ở Việt Nam, các ngành công nghiệp đóng góp tới 40% GDP). Điều đó khẳng
định vai trò lao động sáng tạo của giai cấp công nhân trong xã hội - đó là lao động
công nghiệp hiện đại. Giai cấp này ngày càng tạo ra nhiều giá trị vật chất và tinh thần

cho xã hội.
Quá trình công nghiệp hoá và phát triển khoa học kỹ thuật làm cho kết cấu giai
cấp có sự thay đổi rõ nét. Chiều hướng gia tăng về số lượng được khẳng định. Hiện
nay đội ngũ giai cấp công nhân ở đây đa số là công nhân công nghiệp, số lượng tiếp
tục tăng so với số người làm việc trong các lĩnh vực sản xuất khác. Một trong những
nguyên nhân của sự gia tăng này trước hết phải kể đến chiến lược công nghiệp hoá
của các nước đang phát triển. Mặt khác, các công ty của các nước tư bản phát triển
cũng đang chuyển mạnh sang đầu tư tại các nước đang phát triển để thu hút nguồn lao
động dồi dào, chi phí nhân công rẻ. Ngoài ra, lợi nhuận thu được lại khá cao cũng dẫn
đến sự gia tăng giai cấp công nhân ở đây.
- Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng - văn hoá: Giai cấp công nhân ở các nước
đang phát triển đóng vai trò là một lực lượng tích cực nhất trong đời sống chính trị đất
nước, gắn với sự vận động chính trị của từng quốc gia dân tộc trong tiến trình giải
phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Tại các nước do Đảng cộng sản cầm
quyền (Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba, Triều Tiên), giai cấp công nhân là lực lượng
không còn thuần tuý là lao động làm thuê, mà đã dần từng bước làm chủ đất nước trên
10


các lĩnh vực, là cơ sở xã hội cơ bản nhất của các đảng cộng sản bên cạnh các tầng lớp
lao động khác.
Tóm lại, trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, giai cấp công
nhân ở các nước đang phát triển có nhiều biến đổi quan trọng. Tuy nhiên, xét đến
cùng, vị thế, tư cách làm thuê, bị bóc lột của họ ở tuyệt đại đa số các nước đang phát
triển vẫn không thay đổi. Do địa vị kinh tế - xã hội quy định nên giai cấp công nhân ở
các nước này vẫn tiếp tục là lực lượng cách mạng tiên phong trong tiến trình giải
phóng và phát triển vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

11



CHƯƠNG 2 : VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
2.1. Tình hình giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay:
2.1.1. Về số lượng :
Sau gần 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến
quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng
góp trực tiếp to lớn vào sự phát triển của đất nước. Về mặt sản xuất, giai cấp công
nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc
dù về số lượng giai cấp công nhân ở nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân
cư (chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội) nhưng nắm giữ những
cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định
phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Giai cấp công nhân là lực lượng lao
động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm giai cấp công nhân
"đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước"
Năm 2011, cả nước có 51,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao
động, bao gồm 50,35 triệu người có việc làm và 1,05 triệu người thất nghiệp. 70,3%
lực lượng lao động ở nông thôn. Trong tổng số lực lượng lao động của cả nước, nữ
giới chiếm tỷ trọng thấp hơn nam giới (48,5% và 51,5%). Theo kết quả Tổng điều tra
dân số, trong vòng 30 năm qua, tỷ trọng nữ giới chiếm trong lực lượng lao động thay
đổi rất ít (Tổng điều tra 1989: 48,8%; Tổng điều tra 1999: 48,2%; Tổng điều tra 2009:
48,0%)
Năm 2012, số lượng công nhân đang làm việc tăng cao gấp 1,8 lần năm 1990 và
tăng nhanh qua các năm, bình quân 1 năm tăng 2,58%.Tính đến thời điểm
1/10/2012, dân số cả nước có 68,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên, trong đó có 53,1
triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động (bao gồm 52,1 triệu người có

việc làm và gần 1 triệu người thất nghiệp). Lực lượng lao động của khu vực nông
thôn là chủ yếu và chiếm 69,4%.
Nguồn lao động của Việt Nam còn tiếp tục tăng, do thời kỳ “dân số vàng” được
dự đoán sẽ còn kéo dài trong trên 30 năm nữa.

12


Nguồn: Tổng cục Thống kê

Nơi cư trú/vùng

Tỷ trọng lực lượng lao
động
9 tháng đầu năm
C
N
N
%
C
hung
am

Nữ hung
100,0 100,0 100,0 48,6 76,8
30,6 30,7 30,5 48,5 70,1
69,4 69,3 69,5 48,7 80,1

Cả nước
Thành thị

Nông thôn
Các vùng
Trung du và miền núi phía Bắc

13,8

13,4

14,2

50,1

Tỷ lệ tham gia lực
lượng lao
động
Q
Q
Q
uý 1 uý 2 uý 3
76,4 76,9
77,2
70,2 70,3
70,2
79,5 80,2
80,8
84,3

83,7

84,2


85,3
15,3 14,7 15,9 50,5 75,6 74,5 75,5
76,9
Đồng bằng sông Hồng (*)
21,6 21,1 22,0 49,6 77,7 77,4
77,7
Bắc Trung bộ và DH miền Trung
78,3
6,0
6,1
5,9 48,0 83,1 82,9 83,4
83,0
Tây Nguyên
8,7
8,8
8,5 47,7 77,9 77,7 78,4
78,1
Đông Nam bộ (*)
77,7
Đồng bằng sông Cửu Long 19,8 20,9 18,7 45,8 77,6 77,2 78,0
(*) Đồng bằng sông Hồng không bao gồm Hà Nội và Đông Nam bộ không bao gồm thành
phố Hồ Chí Minh

Đơn vị tính: %
Tỷ trọng lực lượng lao động và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, 9 tháng
đầu năm 2012 (Báo cáo điều tra Lao động việc làm 9 tháng đầu năm 2012 –
Tổng cục Thống Kê )

13



Tốc độ tăng khá cao của số lao động đang làm việc do nhiều nguyên nhân. Có
nguyên nhân do tốc độ tăng dân số mặc dù đã chậm lại nhưng vẫn ở mức trên 1% trên
1 năm, tức là mỗi năm vẫn tăng gần 1 triệu người. Một nguyên nhân khác là do việc
chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp hiện vật sang cơ chế thị trường.
Sự chuyển đổi này đã tạo điều kiện cho sự hình thành của doanh nghiệp; thị trường
lao động hình thành. Một nguyên nhân khác là Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp, người lao động trong lĩnh vực công ăn việc làm. Trong 6 tháng năm
2012, cả nước đã giải quyết việc làm cho 735 nghìn lao động, tăng 1,5% so với cùng
kỳ năm trước và bằng 45,9% kế hoạch cả năm.
2.1.2. Về chất lượng:
Trong những năm gần đây, nước ta đã tập trung mở rộng quy mô và nâng cao
chất lượng đào tạo, dạy nghề để phát triển đội ngũ công nhân có trình độ chuyên môn,
kỹ năng nghề nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế,
từng bước đi vào kinh tế tri thức. Việc quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo, dạy
nghề trên phạm vi toàn quốc, các vùng kinh tế trọng điểm và các địa phương tạo điều
kiện để công tác đào tạo, dạy nghề phát triển tập trung, bảo đảm cung ứng công nhân
kỹ thuật lành nghề tại chỗ cho các doanh nghiệp, nhất là ở các đô thị lớn, các vùng
kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, đã và đang thực hiện, từng
bước khắc phục tình trạng mất cân đối cung - cầu công nhân kỹ thuật hiện nay, giảm
sức ép di chuyển lao động giữa các vùng, miền.
Theo số liệu của Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, từ
năm 2006 đến năm 2010, cả nước đã đào tạo nghề cho 7.769.500 người, bình quân
mỗi năm đào tạo nghề cho 1.553.900 người. Cụ thể ở bảng sau:

14


Cấp, trình

Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
độ đào tạo
1. Dài
hạn, cao
đẳng,
260.000
305.500
258.000
287.000
trung cấp
nghề
2. Sơ cấp
nghề và
dạy nghề 1.080.000 1.131.000 1.280.000 1.420.000
thường
xuyên
Tổng
cộng của 1.340.000 1.436.500 1.538.000 1.707.000
từng năm

Năm 2010

Tổng cộng
của 5 năm

360.400

1.470.900

1.387.600


6.298.600

1.748.000

7.769.500

Đến năm 2011, tỷ trọng lao động qua đào tạo vẫn còn thấp. Trong 51,4 triệu
người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, chỉ có hơn 8 triệu người (15,6%) đã
được đào tạo, chiếm 15,6% tổng lực lượng lao động. Như vậy, tuy nguồn nhân lực
của Việt Nam trẻ và dồi dào nhưng trình độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật thấp. Tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất là ở Hà Nội (30,7%) và thấp nhất là Đồng Bằng
sông Cửu Long (8,6%). Tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên khác
nhau đáng kể giữa các vùng. Nơi có tỷ trọng này cao nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh (17,0%), Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ trọng lực lượng lao động có trình
độ đại học trở lên thấp nhất (3,4%).
2.1.3. Đời sống của người công nhân Việt Nam hiện nay:
Theo kết quả khảo sát mới nhất của Viện Công nhân và Công đoàn (thuộc Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam) thì mức sống tối thiểu của một lao động thuộc vùng 1
khoảng 3,7 triệu đồng/tháng. Trong khi đó lương tối thiểu vùng 1 hiện nay của người
lao động là 2.35 triệu đồng, chỉ đáp ứng được hơn 63% mức sống tối thiểu; còn công
nhân lao động trực tiếp trong các Doanh nghiệp ở Hà Nội thu nhập bình quân là 3,2
triệu đồng/tháng.
Đời sống của người công nhân còn rất nhiều khó khăn với mức lương tối thiểu
đáp ứng đời sống tối thiểu. Một cuộc khảo sát tại các loại hình doanh nghiệp ở mười
tỉnh, thành phố trên cả nước về tiền lương cho thấy, để đảm bảo có đủ dinh dưỡng
15


2.300kcal/ngày, người lao động phải chi trả 750.000 - 900.000 đồng/tháng. Cộng với

nhu cầu lương thực, thực phẩm và chi phí nuôi con, mức sống tối thiểu của người lao
động vào khoảng 2,4 - 3,7 triệu đồng/tháng. Từ tính toán này, ông Đặng Quang Điều,
Viện trưởng Viện Công nhân - Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho
rằng, tiền lương tối thiểu khu vực sản xuất kinh doanh chỉ đáp ứng được 65 - 70%
mức sống tối thiểu. “Tiền lương tối thiểu và mức sống tối thiểu vẫn như hình với
bóng, chưa bao giờ gặp nhau. Mục tiêu năm 2015 lương tối thiểu đủ sống còn viển
vông lắm” - ông Đặng Quang Điều đánh giá, đồng thời đề nghị cần tăng cường quản
lý tiền lương khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước, quy định bắt buộc các doanh
nghiệp phải xây dựng thang bảng lương, định mức lao động và đăng ký với cơ quan
quản lý lao động địa phương cũng như nâng cao năng lực của Công đoàn cơ sở trong
thương lượng tiền lương.
Kế hoạch lương tối thiểu đảm bảo được mức sống tối thiểu cho công nhân lao
động vào năm 2015 dường như đã bị vỡ bởi mức tăng năm 2013 chỉ bằng nửa so với
lộ trình đã đề ra. Nếu thực hiện đúng như kế hoạch thì mức tăng năm 2014 và 2015
rất cao, doanh nghiệp sẽ khó có thể chịu được với bối cảnh kinh tế như hiện nay. Bộ
trưởng Phạm Thị Hải Chuyền cho biết, theo phân công của Thủ tướng Chính phủ,
hiện nay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã xây dựng phương án báo cáo Thủ
tướng về lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng để đạt nhu cầu sống tối thiểu
của người lao động vào năm 2016 hoặc năm 2017. Trong quá trình thực hiện, nếu
điều kiện kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thuận lợi thì điều
chỉnh mức lương tối thiểu vùng nhanh hơn để đạt nhu cầu sống tối thiểu của người lao
động. Theo đó, hai phương án được cơ quan này đưa ra là lương tối thiểu sẽ đảm bảo
nhu cầu tối thiểu vào năm 2017, khi đó, mức tăng bình quân chung trong các năm từ
nay đến 2017 sẽ khoảng 16,5 - 20% mỗi năm. Phương án hai là lương tối thiểu sẽ đảm
bảo nhu cầu tối thiểu vào năm 2016. Ở phương án này, mức tăng bình quân chung các
năm sẽ khoảng 18 - 23% mỗi năm. Dù vậy, từ nay cho đến khi các phương án trên
được phê duyệt và thực hiện, kết quả của việc thu hẹp dần khoảng cách giữa lương tối
thiểu và mức sống tối thiểu có vẻ như vẫn còn là một ẩn số.

16



2.2. Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước:
Như chúng ta đã biết, khi đất nước có giặc ngoại xâm, giai cấp công nhân thông
qua Đảng tiên phong của mình đã tập hợp nhân dân, lãnh đạo cả nước đứng lên chống
giặc cứu nước. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, nước ta lại tiếp
tục bước vào giai đoạn làm cách mạng xã hội chủ nghĩa – một cuộc cách mạng cũng
hết sức quan trọng, khó khăn, đòi hỏi góp sức của toàn Đảng, toàn dân và giai cấp
công nhân Việt Nam trong cuộc cách mạng này, đứng trước rất nhiều cơ hội và thách
thức mới. Phát huy truyền thống, tính ưu việt và bản lĩnh của mình công nhân Việt
Nam đang vươn lên mạnh mẽ, hoà nhịp với vận hội mới của đất nước. Đến nay, tuy
chưa thật đông đảo về mặt số lượng nhưng do địa vị kinh tế - xã hội của mình, giai
cấp công nhân Việt Nam có vị trí, vai trò ngày càng to lớn trên tất cả lĩnh vực kinh tế,
xã hội, văn hoá.
Thứ nhất: Giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu, giữ vai trò lãnh đạo quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Như đã nói ở trên, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và đã sớm bước lên vũ
đài chính trị, giành quyền lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng của giai cấp công nhân, trong hơn nửa thế kỷ qua, dân tộc ta đã giành
được nhiều thắng lợi vẻ vang. Điều đó cho thấy, vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân đã được hình thành trong lịch sử và được quần chúng nhân dân thừa nhận, được
cả dân tộc suy tồn, được thực tế lịch sử chứng nhận.
Ngày nay, khi đất nước bước sang thời kỳ xây dựng và phát triển, Đảng ta vẫn
luôn xác định giai cấp công nhân là lực lượng duy nhất lãnh đạo Cách mạng Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta có thể chứng minh điều này qua một số luận điểm sau:
Đầu tiên giai cấp công nhân phải đảm bảo về tri thức và sức khỏe để có thể nắm
giữ vai trò lãnh đạo của mình. Hiện nay, ở Việt Nam lực lượng công nhân trí thức
chiếm khoảng 10,1% tổng số công nhân, có mặt trong một số ngành, lĩnh vực công
nghệ cao: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, công

nghệ laser, công nghệ vật liệu mới, công nghệ xây dựng cầu đường, cơ khí điện tử,
khai thác dầu khí, điện lực, hàng không…
Công nhân trí thức hình thành và phát triển cùng với quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, biểu hiện rõ nét nhất là sự hình thành và phát triển công
nhân trí thức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, nơi có nền kinh tế phát triển sôi
động nhất của cả nước xét cả về quy mô và tốc độ. Đội ngũ công nhân trí thức tập
trung chủ yếu ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu công nghệ cao, các khu
công nghiệp phần mềm công nghệ thông tin, một số tập đoàn và doanh nghiệp lớn
17


trên địa bàn Thành phố, trong các ngành công nghiệp và công nghệ mới, với trình độ
học vấn, chuyên môn cao; tư duy năng động, sáng tạo; lĩnh vực hoạt động, cơ cấu
ngành nghề đa dạng, phong phú.
Bên cạnh vấn đề về tri thức, vấn đề sức khỏe của công nhân cũng được quan tâm
và đảm bảo. Với chuỗi hoạt động của Hành trình nhân ái làm theo lời Bác do Liên
đoàn Lao động tỉnh và Tỉnh Đoàn Quảng Ngãi phối hợp thực hiện, sáng ngày 16-52013, Ngày hội nhân ái vì sức khỏe thanh niên, công nhân lao động năm 2013 đã đến
với công nhân Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Vinatex Quảng Ngãi, tại
Khu công nghiệp Tịnh Phong. Tại Ngày hội, 500 công nhân lao động của Công ty đã
được các bác sĩ trong Câu lạc bộ “Thầy thuốc trẻ” khám và tư vấn kiến thức về chăm
sóc sức khỏe hằng ngày, trong lao động sản xuất và sức khỏe sinh sản,… và được cấp
thuốc miễn phí, mỗi suất trị giá 80.000 đồng, do Tỉnh Đoàn Quảng Ngãi tài trợ. Đây
là hoạt động có ý nghĩa thiết thực góp phần nâng cao ý thức, định hướng cho công
nhân trong việc chăm sóc sức khỏe bản thân, có đủ thể lực lao động tốt và có cuộc
sống vui khỏe.
Ngoài ra, tuy trong mỗi giai đoạn lịch sử giai cấp công nhân có những nhiệm vụ
cụ thể khác nhau, nhưng lý tưởng và mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và
của giai cấp công nhân nước ta từ năm 1930 đến nay không thay đổi, vẫn là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đòi hỏi
phải nắm chắc và kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa

xã hội và bảo vệ tổ quốc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Lợi ích cao nhất của dân tộc ta và cũng là của giai cấp
công nhân nước ta lúc này là: Ra sức phát triển kinh tế, văn hoá, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình thực hiện đường
lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng ta luôn luôn nhấn
mạnh phải “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, “kiên định chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh” Muốn kiên định và phấn đấu vì lý
tưởng và mục tiêu đó, tất yếu phải khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và xây dựng quan hệ sản
xuất mới. Chính Đảng ta cũng đã nhiều lần khẳng định “giai cấp công nhân thông
qua Đảng tiên phong của mình thực hiện sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
Nếu xét về tương quan lực lượng xã hội, giai cấp công nhân vẫn là giai cấp lãnh
đạo cách mạng, lãnh đạo xã hội. Ngoài giai cấp công nhân ra không còn một giai tầng
nào có thể thay thế vai trò lãnh đạo của họ, bởi giai cấp công nhân có đầy đủ những
phẩm chất, điều kiện hơn hẳn những giai tầng khác, để đưa sự nghiệp công nghiệp
18


hoá điện đại hoá đến thành công trong thời gian ngắn nhất. Hiện nay, từ sự phát triển
mạnh mẽ và vai trò ngày càng to lớn của khoa học và công nghệ có nhiều ý kiến cho
rằng: thời đại ngày nay là thời đại của nền “văn minh trí tuệ” thời đại của “quyền lực
trí tuệ” thời đại mà khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp cho
nên trí thức phải là lực lượng lãnh đạo xã hội, lực lượng tiên phong trong mọi cuộc
cách mạng. Đây là một quan điểm không đúng cả về lí luận và thực tiễn. Trí thức
ngày càng có vai trò to lớn đóng góp cho sự phát triển, văn minh của xã hội. Điều đó
là không thể phủ nhận được vì trong bất cứ thời đại nào trí thức cũng có địa vụ và vai
trò quan trọng trong xã hội, bất cứ chế độ xã hội nào cũng phải coi trọng trí thức.
Trong thời đại bấy giờ, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, trí thức
càng có vai trò quan trọng. Họ là tầng lớp đi đầu trong việc phát triển các lý thuyết

khoa học và công nghệ khoa học quản lý, khoa học quân sự, khoa học xã hội. Trong
việc giáo dục, nâng cao dân trí. Họ là tầng lớp người không thể thiếu được trong việc
tham gia, đóng góp và sự phát triển nhanh chóng của đất nước. Song, nếu vị trí mà
quan niệm trí thức trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội thì lại là một sự sai lầm nghiêm
trọng. Trong xã hội, trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt và không thuần nhất,
thường bao gồm những người xuất thân từ nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Trí
thức chưa bao giờ hình thành một giai cấp, bởi vì nó không đại biểu cho một phương
thức sản xuất, không phải là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập, nó phụ thuộc và
các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, do đó nó không có một hệ tư tưởng riêng. Nó chỉ
đi theo và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp nó phục vụ. Thực tế lịch sử phát
triển của xã hội cho thấy chưa bao giờ tầng lớp trí thức lãnh đạo thành công một cuộc
cách mạng xã hội. Những cuộc đấu tranh của quần chúng do tầng lớp trí thức lãnh đạo
tuy có tiếng vang nhưng kết quả không vượt quá khuôn khổ pháp luật, không thoát lý
khỏi ảnh hưởng của giai cấp thống trị. Vì vậy, trí thức không thể là lực lượng lãnh đạo
cách mạng (xét theo nghĩa giai cấp lãnh đạo), mặc dù tất cả các giai cấp thống trị
trong lịch sử đều cần đến trí thức và đào tạo ra một đội ngũ trí thức của mình để thực
hiện vai trò lãnh đạo của nó đối với xã hội. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta
hiện nay, trí thức xã hội chủ nghĩa gắn liền với giai cấp công nhân, có nhiệm vụ giúp
đỡ giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, chứ không thể thay cho
giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng được. Tuy những người lãnh đạo và quản lý
bấy giờ hầu như là người trí thức nhưng đó là trí thức của giai cấp công nhân, theo
đường lối chính trị của giai cấp công nhân, đứng trên lập trường của giai cấp công
nhân phục vụ sự nghiệp của giai cấp công nhân của đất nước và cả dân tộc. Họ chỉ lấy
tư cách là đại diện của tầng lớp trí thức để lãnh đạo và quản lý. Như vậy, về mặt xã
hội vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân vẫn là một thực tế không thể phủ nhận.
19


các giai tầng khác chỉ có nhiệm vụ liên minh với giai cấp công nhân để nhanh chóng
đưa sự nghiệp đổi mới đất nước đạt được đích cuối cùng.

Giai cấp công nhân Việt Nam từ khi ra đời đến nay do luôn phải sống trong điều
kiện kinh tế - xã hội kém phát triển nên không tránh khỏi việc mang trong mình
những hạn chế nhất định. Nhưng xét cho cùng, đó không phải là những nhược điểm
thuộc bản chất và vấn đề có thể khắc phục được. Do đó, nó vẫn đủ khả năng và điều
kiện để đảm nhận và hoàn thành thắng lợi sứ mạng mà Đảng và nhân dân giao phó là
đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng và điều kiện đó khá đầy đủ:
Một là, giai cấp công nhân vẫn là lực lượng xã hội tiên tiến nhất - cả về tư tưởng
lý luận, lẫn thực tiễn sản xuất và cải biến xã hội so với các giai cấp khác ở Việt Nam
hiện nay.
Hai là, giai cấp công nhân Việt Nam ngoài vai trò tiên phong lãnh đạo cách
mạng còn có vị trí quan trọng trong xây dựng nền kinh tế đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Ba là, giai cấp công nhân Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ, máu thịt với giai
cấp nông dân, khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức ngày càng được củng cố và tăng cường.
Bốn là, giai cấp công nhân Việt Nam có đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt
Nam dày dạn kinh nghiệm có bản lĩnh chính trị vững vàng, được thử thách tôi luyện
và trưởng thành trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ cũng như trước
những bước ngoặc của thời đại, của cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam qua thực
tiễn đã tích luỹ được nhiều bài học kinh nghiệm. Những bài học ấy là vốn quý để vận
dụng vào giai đoạn cách mạng mới, nhằm làm phong phú, phát triển chủ nghĩa Mác
Lênin, sáng tạo ra lý luận và đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đưa
sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi. Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định nhất
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Năm là, Giai cấp công nhân Việt Nam đã, đang và sẽ là lực lượng sản xuất cơ bản,
có vai trò quan trọng và ngày càng tăng trong nền kinh tế quốc dân đang chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Sáu là, Giai cấp công nhân Việt Nam thực sự có năng lực và trí tuệ trong sản
xuất, chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, cũng như trong việc tổ chức, quản lí, xây dựng xã
hội mới, có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng

và bảo vệ Tổ Quốc Xã hội Chủ nghĩa.
Năng lực, trí tuệ của giai cấp công nhân lại không ngừng được nâng cao cùng
với sự phát triển của lực lượng sản sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
20


Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng giai cấp công nhân Việt Nam
vẫn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của
mình, giai cấp công nhân phải tiến hành cách mạng không ngừng qua nhiều giai đoạn
mà trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai đoạn tiếp theo của cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân, là cuộc cách mạng cuối cùng để giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh được giao. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực chất là nội dung chủ yếu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, là cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường, là cách thức, là phương tiện để giai cấp công
nhân thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của mình. Do đó, quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá phải do giai cấp công nhân lãnh đạo mới đảm bảo thắng lợi, đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được rót kinh nghiệm từ sự sụp đổ của Liên Xô và
Đảng An đã khẳng định: Một khi Đảng cộng sản mất quyền lãnh đạo cách mạng, lãnh
đạo đất nước thì mục tiêu cách mạng của giai cấp công nhân bị chuyển hướng và
ngược lại, đời sống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị đảo lộn, những
thành tựu mà cách mạng đem đến cho giai cấp công nhân và nhân dân tan thành mây
khói. Vì vậy, “xác định vai trò lãnh đạo cảu giai cấp công nhân là vấn đề cốt tử của
cách mạng mỗi nước”. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước luôn được đề cao và được thực hiện
bằng việc thông qua Đảng đề ra và tổ chức thực hiện với những bước đi cụ thể, sát
hợp với hoàn cảnh thế giới và đất nước.
Thứ ba: Vai trò của giai cấp công nhân trong sự phát triển lực lượng sản xuất
và xây dựng quan hệ sản xuất mới trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta hiện nay.

Đối với bất kỳ một cuộc cách mạng nào, việc thành công hay thất bại của nó
không những phụ thuộc vào việc hoạch định được đường lối, chiến lược, sách lược
đúng đắn mà còn phụ thuộc vào việc xác định đúng lực lượng cơ bản, chủ yếu để thực
hiện đường lối đã để ra. Đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
hiện nay, Đảng ta đã vạch được “đường đi, nước bước” khá cụ thể, mang tính chiến
lược lâu dài, đồng thời cũng đưa ra các mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt được sau quá
trình ấy. Đảng còn chỉ ra rằng lực lượng cơ bản, đi đầu trong việc thực hiện công
nghiệp hoá hiện đại không ai khác chính là giai cấp công nhân giai cấp tiên tiến nhất
trong xã hội.
Quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hoá xây dựng quan hệ sản xuất
mới và sự phát triển của giai cấp công nhân là hai quá trình có sự tác động biện chứng
với nhau, công nghiệp hoá hiện đại hoá và xây dùng dùng quan hệ sản xuất mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là điều kiện, tiền đề cho sự phát triển lớn mạnh của giai
21


cấp công nhân. Ngược lại, sự phát triển, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân sẽ thúc
đẩy mạnh mẽ sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng
quan hệ sản xuất mới. Không có giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt thì không
thể tiến hành thắng lợi sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa được.
Trải qua quá trình thực hiện đường lối đổi mới từ 1986 đến nay với việc phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần và từng bước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, cùng với sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, phát triển công
nghiệp và công nghệ giai cấp công nghiệp nước ta đã có những biến động về số lượng
và cơ cấu ngành nghề cơ cấu xã hội. Cơ cấu đội ngũ công nhân đa dạng, phong phú
hơn trước. Giai cấp công nhân có mặt trong mọi ngành kinh tế: công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ, và có
mặt trong hầu hết thành phần kinh tế: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, 100% vốn của nước ngoài

Giai cấp công nhân còn có mặt trên các vùng, các địa bàn của cả nước từ miền
núi xa xôi đến biên giới hải đảo. Như vậy, giai cấp công nhân càng ngày càng phát
triển về số lượng và phạm vi hoạt động được mở rộng.
Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng của đội ngũ công nhân cũng được
tăng lên rõ rệt lớp công nhân trẻ, có sức khoẻ, có trình độ văn hoá, trình độ tay nghề
khá ngày càng phát triển. Đội ngũ kỹ sư, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật xuất thân từ
công nhân và công nhân có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cao, tay nghề giỏi
cũng ngày càng tăng lên. Nói một cách khác, công nghiệp nước ta đang ngày một
được trí thức hoá mạnh mẽ.
Nhiều công nhân, nhất là đội ngũ công nhân trẻ đã thích nghi nhanh với cơ chế
mới, năng động, sáng tạo, tiếp thu nhanh khoa học tiên tiến và công nghệ hiện đại,
góp phần làm ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá trị kinh tế lớn, đưa một sè
ngành nghề trở thành mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân như: công nghiệp chế biến,
lương thực, thực phẩm, công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện
tử, công nghiệp thông tin.
Nếu như so với số dân hiện có thì đội ngũ công nhân lao động nước ta còn nhỏ
bé nhưng với trình độ học vấn ngày càng cao nó vẫn là lực lượng sản xuất tiên tiến
nhất trong xã hội, đang nắm giữ những có sở sản xuất vật chất - kỹ thuật quan trọng,
then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Kết quả lao động của họ đã ảnh hưởng trực tiếp
đến phát triển sản xuất, tưng trưởng kinh tế và đến đời sống hàng ngày của toàn xã
hội. Năm 2012, công nhân lao động đã tạo ra hơn 60% tổng sản phẩm xã hội, đảm
bảo hơn 70% ngân sách Nhà nước.
22


Ngoài việc tác động trực tiếp vào sản xuất công nghiệp, giai cấp công nhân còn
đóng vai trò quan trọng việc phát triển khoa học kỹ thuật và ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào phục vụ trực tiếp cho các ngành kinh tế quốc dân. Sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đã tạo ra cho nước ta một đội ngũ công nhân kỹ thuật hiện đại và
công nhân được trí thức hoá trình độ cao. Họ có khả năng tham gia trực tiếp vào quá

trình sáng tạo công nghệ mới. Đặc biệt là sự vận dụng kỹ thuật tiên tiến vào điều kiện
nước ta. Công nhân từ chỗ là người đứng máy, người lao động chủ yếu bằng cơ bắp
đã trở thành sáng tạo. Do đó ở nước ta hàng năm đã xuất hiện hàng chục vạn sáng
kiến có giá trị, hàng vạn người đạt danh hiệu lao động giỏi được Nhà nước và tổng
liên đoàn lao động Việt Nam tặng thưởng nhiều bằng khen và huy hiệu lao động sáng
tạo, nhiều người được tuyên dương Anh hùng lao động. Đó là một thực tế hùng hồn
để bác bỏ những luận điệu sai trái cho rằng giai cấp công nhân Việt Nam không tiêu
biểu cho trí tuệ, hoặc là trí tuệ kém cỏi. Với sự thông minh, sáng tạo bền bỉ của mình
giai cấp công nhân đang dần dần đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về khoa học,
công nghệ của quá trình công nghiệp hoá được đòi hỏi ngày càng cao về khoa học,
công nghệ của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cùng với việc trí thức hoá giai
cấp công nhân thì hàm lượng chất xám trong các sản phẩm do giai cấp công nhân sáng
tạo ra sẽ ngày càng to lớn và chắc chắn các sản phẩm đó sẽ có chỗ đứng không chỉ
trong thị trường trong nước mà còn cả thị trường quốc tế.
Như vậy là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai cấp công nhân với vai
trò là lực lượng sản xuất chính đang từng ngày từng giờ phát triển cả về số lượng và
chất lượng đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
mở rộng hợp tác liên doanh với nước ngoài thì giai cấp công nhân Việt nam còn đóng
một vai trò quan trọng trong việc xác lập các quan hệ sản xuất trong các thành phần
kinh tế.
Nhanh chóng ta đều biết, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao
động trong các doanh nghiệp tư nhân và trong các doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài chủ yếu là quan hệ chủ thợ. Nhưng trong điều kiện nước ta một nước độc lập, tự
do, trong đó chính quyền là của nhân dân lao động, thì mối quan hệ chủ thợ phải khác
với mỗi quan hệ chủ thợ ở các nước tư bản chủ nghĩa. Người công nhân ở đây không
phải là bị phụ thuộc hoàn toàn vào chủ mà họ vừa là người làm thuê, vừa là người làm
chủ. Họ thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc ký kết hợp đồng lao động,
thoả ước lao động tập thể với giới chủ qua người đại diện của mình là tổ chức công
đoàn, qua đại hội công nhân viên chức, qua tổ chức thanh tra công nhân, việc tiến

23


hành cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước cũng là nhằm thực hiện quyền
làm chủ trực tiếp của công nhân.
Có thể nói, giai cấp công nhân giữ vững quyền làm chủ của mình trong tất cả các
doanh nghiệp dù là nhà nước hay tư nhân, hay có vốn đầu tư nước ngoài. Với những
hình thức khác nhau và với bản chất của người lao động, giai cấp công nhân dù ở
trong khu vực kinh tế, tiểu chủ, hay tư bản tư nhân đều giữ vị trí, vai trò quan trọng
trong việc đẩy mạnh sản xuất, thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
và nhà nước, đảm bảo sự phát triển các thành phần kinh tế theo định hướng Xã hội
Chủ nghĩa.
Theo chủ trương của Đảng, mọi thành phần kinh tế đều được bình đẳng trước
pháp luật, đều được tạo điều kiện phát triển, trong đó “kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng” của nền kinh tế quốc
dân. Mặc dù hiện nay, kinh tế nhà nước còn nhỏ và nhiều mặt yếu kém nhưng doanh
nghiệp nhà nước vẫn chiếm đại bộ phận các ngành quan trọng trong công nghiệp nhà
nước vẫn chiếm đại bộ phận các ngành quan trọng trong công nghiệp và tài chính, tín
dụng, dịch vụ, nắm hầu hết vai trò đối tác phía Việt nam trong các cơ sở hợp tác và
liên doanh với Nước ngoài. Doanh nghiệp nhà nước là nơi tập trung một lực lượng
khá lớn công nhân (chiếm 6% dân số cả nước, 16% lao động xã hội). Trong đó có một
phần khá lớn công nhân có trình độ học vấn tay nghề cao, góp phần quan trọng vào
nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian qua và đóng vai trò nòng cốt đưa
các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo của ngành công nghiệp trên cả 2 mặt
quy mô và tốc độ. Ở thành phố Vĩnh Yên, năm 2012, giá trị sản xuất công nghiệp trên
địa bàn thành phố đạt khá, với tổng doanh thu trên 6.200 tỷ đồng, tăng 2,8% so với
năm 2011. Trong đó, công nghiệp quốc doanh tăng 13,5%; công nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 8,3%.
Như vậy, cùng với sự không ngừng tăng lên về vị trí, vai trò, tỷ trọng của thành
phần kinh tế Nhà nước nói chung và công nghiệp nhà nước nói riêng, số lượng và chất

lượng của giai cấp công nhân sẽ tăng lên, đồng thời vị trí, vai trò của nó cũng ngày
càng tăng thêm.
Ngoài các vai trò trên, giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn này còn giữ vai
trò nòng cốt trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Sở dĩ như vậy vì đi đôi với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, Đảng
và nhà nước ta còn chủ trương đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp
với tình hình mới: Trong những năm qua, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta
diễn ra theo hướng tích cực. Số lượng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ
cũng tăng lên dù chưa nhiều, số lượng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ
24


tăng lên nhanh chóng. Đó là một xu hướng tích cực và yêu cầu giữ vai trò chính trong
xu hướng đó.
Thứ ba: Vai trò của giai cấp công nhân trong việc đoàn kết các lực lượng xã
hội.
Giai cấp công nhân Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ, máu thịt với giai cấp
nông dân ngay từ khi mới ra đời cũng như trong suốt quá trình phát triển của nó. Sở dĩ
có mối quan hệ khăng khít này là do giai cấp công nhân nước ta không phải là sản
phẩm trực tiếp của thời đại công nghiệp của nước ta, mà là sản phẩm trực tiếp của nền
đại công nghiệp du nhập từ “chính quốc” và Việt Nam.
Phần đông nhân dân xuất thân từ nông dân đều xuất thân từ nông dân hoặc có bố
mẹ, vợ chồng, cả anh chị em là nông dân. Điều đó sẽ tạo nên mối quan hệ gắn bó giữa
giai cấp công nhân và giai cấp nông dân một cách hết sức tất nhiên.,
Không chỉ có mối quan hệ thân thiết với giai cấp nông dân mà giai cấp công
nhân có khả năng đoàn kết tầng lớp trí thức vào khối liên minh xã hội rộng lớn. Trong
Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã nhận định rằng “giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức nước ta vốn gắn bó khăng khít. Đó là vì
cùng chung cảnh ngộ mất nước trước đây, vì đa số trí thức là con em công – nông,
được đào tạo dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, có nhiều trí thức xuất thân từ các giai cấp

khác nhưng trong quá trình cách mạng đã tự nguyện đứng về lập trường công nhân”.
Chính thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng từ khi bước lên vũ đài
chính trị và trong suốt mất chục năm qua, thông qua chính Đảng của mình, giai cấp
công nhân Việt Nam đã lôi cuốn được nông dân, phát huy cao độ năng lực cách mạng
to lớn của nông dân và đoàn kết được tầng lớp trí thức trong một mặt trận dân tộc
thống nhất, tạo thành sức mạnh to lớn bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng nước ta.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, giai cấp công nhân đã đóng vai trò nòng cốt trong
việc xây dựng, củng cố khối liên minh vững chắc. Giai cấp với giai cấp nông dân và
tầng lớp tri thức và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công
nhân nước ta vẫn là cơ sở xã hội của Đảng, Nhà nước và là lực lượng nòng cốt trong
quá trình xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức và tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc.
Liên minh giữa công nhân, nông dân, tri thức trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước có nội dung phong phú và toàn diện hơn giai đoạn trước. Nó
không chỉ bao hàm những vấn đề chính trị, về đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, mà nó còn
bao gồm cả những vấn đề về phát triển kinh tế. Thời đại ngày nay. Mỗi thành quả đạt
được trên lĩnh vực kinh tế để thấm đậm mồ hôi, công sức của công nhân, nông dân, trí
25


×